Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Áp dụng mô hình phân tích swot nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh của tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí việt nam trong thời gian tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 115 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Bảo hiểm thương mại là một trong những ngành hoạt động dịch vụ tài
chính tuy còn rất mới mẻ ở Việt Nam nhưng đã có những bước phát triển
vượt bậc trong thời gian qua và được đánh giá là một trong những ngành có
tốc độ tăng trưởng cao nhất trong nền kinh tế quốc dân.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mọi doanh
nghiệp phải hoàn toàn tự chủ trong kinh doanh, tự quyết định và tự chịu
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, mỗi doanh nghiệp
là một phân hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội nhập
với nền kinh tế khu vực và thế giới, điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không
chỉ chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi trường kinh doanh
trong nước mà còn phải tính đến cả các tác động tích cực cũng như tiêu cực
của môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế. Môi trường kinh doanh ngày
càng rộng, tính chất cạnh tranh và biến động của môi trường ngày càng
mạnh mẽ, việc vạch hướng đi trong tương lai ngày càng có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh là
một công cụ định hướng và điều khiển các hoạt động của doanh nghiệp theo
các mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh môi trường và do đó, nó đóng vai trò
quyết định sự thành, bại của doanh nghiệp.
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí (PVI ), thành viên của Tập
đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, trong suốt quá trình hơn mười năm hình
thành và phát triển đã dần khẳng định được vị trí của mình và hiện đang là
doanh nghiệp bảo hiểm đứng thứ hai về thị phần trên thị trường bảo hiểm
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phi nhân thọ Việt Nam. Tuy nhiên, việc Việt Nam gia nhập WTO, đồng
nghĩa với việc Việt Nam phải mở cửa thị trường bảo hiểm cho các doanh


nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài được tự do, bình đẳng hoạt động trên
thị trường Việt Nam, đã và đang dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt, khốc liệt hơn
trong thời gian tới. Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự
đình trệ của nền kinh tế trong nước cũng đang ảnh hưởng trực tiếp đến sự
tồn tại và phát triển của tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, trong đó
có lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Đứng trước thực trạng đó, PVI cần phải đề ra chiến lược kinh doanh
như thế nào đề có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh, hạn chế được các
khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển? Đây là một vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với PVI trong thời gian tới.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí
(PVI), trên cơ sở những kiến thức đã được trang bị ở nhà trường, kết hợp với
sự tìm hiểu tình hình kinh doanh thực tế của PVI, em xin chọn đề tài : “ Áp
dụng mô hình phân tích SWOT nhằm xây dựng chiến lược kinh doanh
của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm dầu khí Việt Nam trong thời gian tới ”
làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp, ngoài phần mở đầu và
kết luận, bao gồm 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận về xây dựng chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp bảo hiểm và sự hữu hiệu của việc áp dụng mô hình phân
tích SWOT trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Chương II: Áp dụng mô hình phân tích SWOT phân tích chiến
lược kinh doanh của PVI trong giai đoạn 2009 – 2015.
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương III: Áp dụng mô hình phân tích SWOT nhằm hình thành
và lựa chọn chiến lược kinh doanh của PVI trong giai đoạn 2009 - 2015.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề, em đã nhận được sự giúp đỡ và

góp ý tận tình của cô giáo Ths. Tô Thiên Hương cùng các anh chị hiện đang
làm việc tại PVI. Tuy nhiên, do nội dung của chuyên đề rất tổng quát và khả
năng nhận thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên chuyên đề chắc chắn
không tránh khỏi nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý thẳng thắn
của các thầy cô giáo và của các anh chị để em thực hiện tốt hơn trong những
lần sau.
Em xin chân thành cám ơn !
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
KINH DOANH VÀ SỰ HỮU HIỆU CỦA VIỆC ÁP DỤNG MÔ HÌNH
PHÂN TÍCH SWOT TRONG VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1: Chiến lược kinh doanh của DNBH và qui trình xây dựng chiến lược
kinh doanh của DNBH
1.1.1: Chiến lược kinh doanh của DNBH
1.1.1.1: Quan điểm về chiến lược kinh doanh và chiến lược kinh doanh
của DNBH
“Chiến lược” là một thuật ngữ được sử dụng đầu tiên trong lĩnh vực
quân sự. Chiến lược có nghĩa là mưu lược trong việc tiến hành chiến tranh,
tức là việc căn cứ vào tình hình quân sự, chính trị, kinh tế, địa lý…của cả hai
bên, xem xét cục diện chiến tranh để chuẩn bị và sử dụng lực lượng của
mình một cách hiệu quả nhất, đem lại thắng lợi cuối cùng cho mình.
Từ thuật ngữ “chiến lược” như trên, trong quá trình hình thành và phát
triển lý luận về chiến lược kinh doanh, có nhiều quan điểm về chiến lược
kinh doanh:
Chiến lược kinh doanh là những cách thức mà nhờ đó những mục tiêu
dài hạn của doanh nghiệp có thể đạt được. Chiến lược kinh doanh có thể là
chiến lược mở rộng về mặt địa lý, đa dạng hoá sản phẩm, sáp nhập, phát

triển sản phẩm, thâm nhập thị trường, cắt giảm hoặc từ bỏ, thôn tính hoặc
liên doanh.
Chiến lược kinh doanh là tập hợp các mục tiêu và các chính sách cũng
như các kế hoạch chủ yếu để đạt được mục tiêu đó. Chiến lược kinh doanh
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của một doanh nghiệp là một chương trình hành động tổng quát hướng tới
việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là mưu lược, con đường,
biện pháp nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển ổn định và lâu dài theo mục tiêu
phát triển mà doanh nghiệp đã đặt ra căn cứ vào các điều kiện khách quan, chủ
quan và các nguồn lực sẵn có và có thể huy động được của doanh nghiệp.
Như vậy, từ các khái niệm về chiến lược, chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp nói chung được trình bày ở trên, ta có thể nêu ra cách hiểu
khái quát về chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm như sau:
“Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là tập hợp những mục
tiêu dài hạn và cách thức để đạt được những mục tiêu dài hạn đó căn cứ vào
các điều kiện khách quan, chủ quan và các nguồn lực của doanh nghiệp bảo
hiểm”. Chiến lược kinh doanh thường được xác định cho một thời kỳ nhất
định, mang tính định hướng và có thể điều chỉnh cho phù hợp với sự biến
động của môi trường kinh doanh.
Căn cứ vào phạm vi, chiến lược kinh doanh được chia thành chiến
lược kinh doanh tổng quát ( chiến lược kinh doanh chung) và chiến lược
kinh doanh bộ phận.
Căn cứ vào nội dung và lĩnh vực quản trị, chiến lược kinh doanh được
chia theo từng lĩnh vực quản trị của doanh nghiệp. Ví dụ như chiến lược
khách hàng, chiến lược sản phẩm, chiến lược nhân sự…
Căn cứ theo tính chất và phạm vi hoạt động, người ta chia chiến lược
kinh doanh ra thành bốn loại : chiến lược kết hợp, chiến lược chuyên sâu,

chiến lược mở rộng và chiến lược kinh doanh đặc thù ( thu hẹp, liên kết…).
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1.1.2: Vai trò của chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp bảo hiểm
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm luôn phải
đối mặt với những thay đổi của môi trường kinh doanh đang xảy ra từng
ngày, từng giờ. Mỗi sự thay đổi này đều có thể gây ảnh hưởng tích cực hay
tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong
môi trường kinh doanh đầy biến động như vậy, có một điều mà các doanh
nghiệp bảo hiểm luôn biết chắc chắn, đó là sự thay đổi. Chính vì vậy, chiến
lược kinh doanh đối với doanh nghiệp bảo hiểm được xem như là một sự
định hướng, giúp các doanh nghiệp bảo hiểm có thể vượt qua sóng gió, khó
khăn của thương trường, vươn tới một tương lai tốt đẹp hơn bằng chính nỗ
lực và khả năng của mình. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng một chiến
lược kinh doanh có thành công hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào năng
lực triển khai chiến lược, được xem như là một nghệ thuật trong trong quá
trình quản trị doanh nghiệp bảo hiểm.
Chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp bảo hiểm giúp cho doanh
nghiệp có thể chủ động hơn thay vì bị động trong việc vạch rõ tương lai của
mình; nó cho phép một tổ chức có thể tiên phong và gây ảnh hưởng trên thị
trường thay vì phản ứng một cách yếu ớt trước sự thay đổi của môi trường
kinh doanh.
Chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp bảo hiểm đem lại cho mỗi
người sự nhận thức hết sức quan trọng. Mục tiêu của quá trình này là nhằm
đặt được sự thấu hiểu và cam kết thực hiện cả trong ban giám đốc cho đến
đội ngũ nhân viên trong công việc. Một khi mỗi người trong doanh nghiệp
đều hiểu được rằng họ sẽ phải làm gì và tại sao họ phải làm như vậy, mỗi
người sẽ cảm thấy mình thực sự là một phần của doanh nghiệp và sẽ tự cam
kết để ủng hộ nó. Ban giám đốc và các nhân viên lúc này sẽ trở nên năng

Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
động hơn, họ hiểu và ủng hộ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp; mỗi
người trong công ty sẽ như được tiếp thêm sức lực, nhờ đó họ có thể phát
huy được hết năng lực và phẩm chất cá nhân của mình, đóng góp cho sự
phát triển chung của doanh nghiệp bảo hiểm.
1.1.1.3: Yêu cầu đối với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Chiến lược kinh doanh của công ty bảo hiểm cần đảm bảo được một
số yêu cầu cơ bản sau :
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm cần đảm
bảo tính tổng thể. Tính tổng thể của chiến lược kinh doanh thể hiện ở chỗ nó
phải phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của doanh nghiệp; phù hợp
với điều kiện quốc gia và sự phát triển của quốc gia trong một thời kỳ nhất
định; phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Một chiến lược đảm bảo
được tính tổng thể là nhân tố quan trọng cho sự phát triển đúng hướng và
bền vững của doanh nghiệp.
Thứ hai, chiến lược kinh doanh phải đảm bảo được tầm nhìn. Điều
này có nghĩa là mỗi chiến lược được đưa ra phải dựa trên cơ sở phân tích và
dự báo dài hạn về xu thế biến động và phát triển của các yếu tố thuộc môi
trường kinh doanh có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Thứ ba, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm
bảo cho doanh nghiệp giành được thắng lợi khi cạnh tranh trên thị trường,
tăng cường vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Trong thực tế nếu doanh
nghiệp bảo hiểm ở vị thế độc quyền và không có đối thủ cạnh tranh thì thực
sự không cần phải xây dựng chiến lược kinh doanh. Nhưng trong điều kiện
hiện nay, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường ngày
càng khốc liệt và gay gắt. Cạnh tranh ngày càng gay gắt thì vai trò của chiến
lược kinh doanh ngày càng quan trọng, giúp doanh nghiệp phát huy lợi thế
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A

7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
so sánh của chính mình, hạn chế phần nào các điểm yếu, giúp cho doanh
nghiệp ngày càng phát triển.
Thứ tư, do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là sự chấp
nhận rủi ro của bên mua bảo hiểm, trên cơ sở bên mua đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm chi trả cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra. Chính vì lý do này nên nguyên tắc an toàn mà cụ thể ở đây là
an toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là rất quan trọng.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm cần đảm bảo tính an toàn
cho việc đảm bảo khả năng chi trả, bồi thường đối với khách hàng, đảm bảo
cho việc bảo toàn và tăng trưởng quĩ bảo hiểm.
Thứ năm, phải xác định được phạm vi kinh doanh, mục tiêu, lộ trình
và những điều kiện cơ bản để thực hiện mục tiêu. Trong điều kiện môi
trường kinh doanh bên trong cũng như bên ngoài tác động vào doanh nghiệp
bảo hiểm như hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều bị giới hạn về nguồn lực.
Chiến lược kinh doanh phải xác định rõ phạm vi kinh doanh để có phương
án sử dụng các nguồn lực có thể huy động được một cách hiệu quả nhất.
Trong phạm vi kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác định các mục tiêu
đề ra của mình một cách rõ ràng để tránh dàn trải về nguồn lực. Một chiến
lược kinh doanh tốt luôn xác định được một hệ thống các chính sách, biện
pháp và các điều kiện về tài chính, con người…để thực hiện các mục tiêu đó.
1.1.2: Qui trình xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Chiến lược kinh doanh là một bảng phác thảo tương lai bao gồm các
mục tiêu mà doanh nghiệp phải đạt được cũng như các phương tiện cần thiết
để thực hiện các mục tiêu đó. Cũng có thể hiểu chiến lược kinh doanh là tập
hợp các quyết định và hành động quản trị nhằm hướng tới sự thành công lâu
dài của doanh nghiệp.
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Xây dựng chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp bảo hiểm là quá
trình sử dụng các phương pháp, công cụ và kỹ thuật thích hợp nhằm xác
định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và từng bộ phận của doanh
nghiệp trong thời kỳ chiến lược xác định.
Có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc xác định một qui trình
xây dựng chiến lược kinh doanh. Tuỳ theo quan điểm và mục đích nghiên
cứu mà các nhà hoạch định chiến lược đưa ra các qui trình với các bước và
trình tự công việc khác nhau. Một trong những qui trình xây dựng chiến lược
được sử dụng phổ biến hiện nay là qui trình xây dựng chiến lược kinh doanh
gồm 8 bước:
Bước 1, phân tích và dự báo về môi trường bên ngoài, trong đó cốt lõi
nhất là dự báo về thị trường. Ở bước này điều cốt lõi nhất là phải dự báo các
yếu tố của môi trường có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp trong thời kỳ chiến lược và đo lường chiều hướng, mức độ ảnh
hưởng của chúng. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm có thể bao gồm tình hình
tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế thế giới và trong nước; môi trường
chính trị và pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh; môi trường tự
nhiên như thiên tai, bão, lũ, động đất, sóng thần…ảnh hưởng đến số tiền
phải bồi thường, chi trả của các doanh nghiệp bảo hiểm; môi trường xã hội
thể hiện ở việc ý thức của người dân thấy được tầm quan trọng của bảo hiểm
và sẵn sàng tham gia bảo hiểm hay không?
Bước 2, tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trường bên
ngoài. Các thông tin tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường bên
ngoài cần tập trung đánh giá các thời cơ, cơ hội và cả các thách thức, rủi ro,
cạm bẫy,… có thể xảy ra trong thời kỳ chiến lược.
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bước 3, phân tích, đánh giá và phán đoán đúng môi trường bên trong
doanh nghiệp. Nội dung đánh giá và phán đoán cần đảm bảo tính toàn diện
và hệ thống. Các vấn đề cốt yếu cần được tập trung đánh giá và phán đoán
trong bước này là cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, năng lực lãnh đạo của
đội ngũ quản trị cấp cao và năng lực làm việc của đội ngũ nhân viên, công
tác bồi thường và quản lý rủi ro, khả năng tài chính của doanh nghiệp…
Bước 4, tổng hợp kết quả phân tích, đánh giá và dự báo môi trường
bên trong doanh nghiệp. Về nguyên tắc phải phân tích, đánh giá và dự báo
mọi mặt hoạt động bên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế thường
tập trung xác định các điểm mạnh, lợi thế của doanh nghiệp cũng như xác
định các điểm yếu, bất lợi, đặc biệt là so sánh với các đối thủ cạnh tranh ở
thời kỳ chiến lược.
Bước 5, nghiên cứu các quan điểm, mong muốn, ý kiến… của lãnh
đạo doanh nghiệp. Để xác định các chiến lược cụ thể, bước này phải hoàn
thành nhiệm vụ đánh giá lại các mục tiêu, triết lý kinh doanh cũng như quan
điểm của lãnh đạo doanh nghiệp vì người lãnh đạo doanh nghiệp là người có
đủ quyền hạn và chịu trách nhiệm trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược kinh doanh.
Bước 6, hình thành một ( hay nhiều ) phương án chiến lược.Việc hình
thành một hay nhiều phương án chiến lược không phụ thuộc vào ý muốn của
những người làm chiến lược mà phụ thuộc vào phương án xây dựng chiến
lược cụ thể đã lựa chọn.
Bước 7, quyết định chiến lược tối ưu cho thời kỳ chiến lược. Việc
quyết định lựa chọn chiến lược tối ưu cũng phụ thuộc vào phương pháp xây
dựng chiến lược là phương pháp phản biện, tranh luận biện chứng hay lựa
chọn phương án tốt nhất trong nhiều phương án xây dựng.
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bước 8, chương trình hoá phương án chiến lược đã lựa chọn với 2

công việc trọng tâm: thứ nhất, cụ thể hoá các mục tiêu chiến lược thành các
chương trình, phương án, dự án; thứ hai, xác định các chính sách kinh
doanh, các công việc quản trị nhằm thực hiện chiến lược.
Sơ đồ 1.1: Qui trình tám bước xây dựng chiến lược kinh doanh
Nguồn: Giáo trình chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp
(Trang14)
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
Phân tích
và dự báo
về môi
trường
kinh
doanh bên
ngoài
Đánh giá
và phán
đoán đúng
môi
trường bên
trong của
doanh
nghiệp
Tổng hợp
phân tích
và dự báo
về môi
trường
kinh
doanh bên
ngoài

Tổng hợp
kết quả
đánh giá,
phán đoán
môi trường
bên trong
doanh
nghiệp
Các quan
điểm mong
muốn, kỳ
vọng của
lãnh đạo
doanh
nghiệp
Hình
thành
(các)
phương
án
chiến
lược
Quyết
định
chiến
lược
tối ưu
phù
hợp
với

phươ
ng
pháp
sử
dụng
Xác
định
các
nhiệm
vụ
nhằm
thực
hiện
chiến
lược
lựa
chọn
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong các bước của qui trình trên thì bước đầu tiên và cơ bản nhất
trong việc xác định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm chính
là bước phân tích môi trường bên ngoài và đánh giá môi trường bên trong
đối với việc xây dựng chiến lược kinh doanh. Trong phần tiếp theo, ta sẽ đi
sâu tìm hiểu từng nhân tố của môi trường bên ngoài và bên trong của doanh
nghiệp ảnh hưởng tới quá trình xây dựng chiến lược.
1.2: Các yêú tố thuộc môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
bảo hiểm ảnh hưởng tới quá trình xây dựng chiến lược kinh doanh
1.2.1: Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài:
1.2.1.1: Môi trường kinh tế trong nước và thế giới:
Các yếu tố kinh tế trong nước và thế giới tác động mạnh mẽ đến tình

hình kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có các doanh
nghiệp bảo hiểm. Ảnh hưởng này ngày càng trở nên rõ ràng hơn do Việt
Nam đang trong quá trình hội nhập, xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá
đang diễn ra hết sức sâu rộng và phổ biến.
Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao sẽ làm tăng thu nhập của các
tầng lớp dân cư, từ đó tăng khả năng thanh toán cho các nhu cầu của họ,
trong đó có nhu cầu về dịch vụ bảo hiểm. Điều này làm cho các sản phẩm
bảo hiểm ngày càng được đa dạng hoá để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị
trường. Khi nhu cầu bảo hiểm ngày càng lớn, khả năng mở rộng kinh doanh
và tích luỹ vốn đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ ngày càng cao.
Nguồn vốn này khi được đem đầu tư trở lại nền kinh tế sẽ là một nguồn lực
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và môi trường kinh doanh ngày càng trở
nên hấp dẫn hơn, thu hút đầu tư phát triển ngày càng mạnh hơn.
Kinh tế trong nước và thế giới phát triển thì sự trao đổi xuất nhập
khẩu hàng hoá cũng tăng trưởng mạnh mẽ. Đây là một điều kiện hết sức
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thuận lợi cho sự phát triển của các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải. Tỷ giá hối
đoái có tác động trực tiếp đến các hoạt động xuất nhập khẩu và từ đó cũng
có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu bảo hiểm trong nền kinh tế đối với nghiệp
vụ này. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy trong thời gian vừa qua, do
trình độ quản lý và trình độ năng lực của các cán bộ ngoại thương ở các
doanh nghiệp còn nhiều yếu kém nên chúng ta chủ yếu nhập hàng hoá bằng
giá CIF và xuất hàng hoá bằng giá FOB. Điều này có nghĩa là các doanh
nghiệp trên thị trường trong nước đã để mất đi một khoản doanh thu phí bảo
hiểm rất lớn vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài.
Tỷ lệ lạm phát có tác động trực tiếp đến cả hai mặt sản xuất và tiêu
dùng trong nền kinh tế. Khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ tác động xấu đến tiêu dùng,
làm cho cầu của hầu hết các loại hàng hoá dịch vụ sẽ giảm, trong đó có dịch

vụ bảo hiểm. Người dân có tiền lúc này đa phần đều có tâm lý mua vàng và
các ngoại tệ mạnh để tích trữ nên tiền vừa không đẻ ra tiền, vừa làm giảm
lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế, làm cho hoạt động kinh doanh của hầu hết
các doanh nghiệp đều đình trệ.
Vì bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính nên chịu sự ảnh hưởng rất
mạnh của các cuộc khủng hoảng tín dụng hay suy thoái kinh tế. Số liệu tổng
kết cho thấy do chịu ảnh hưởng của tình trạng suy thoái hiện nay mà trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay có tới 10/27 doanh nghiệp bảo hiểm Phi
nhân thọ có kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm là con số âm, thậm chí
có đến 5/27 doanh nghiệp bảo hiểm có kết quả kinh doanh âm( kể cả bảo
hiểm và đầu tư tài chính), nhiều doanh nghiệp bảo hiểm không chia được cổ
tức cho cổ đông.
1.2.1.2: Môi trường chính trị và pháp luật
Chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết đối với mỗi quốc gia và khu
vực nhằm phát triển kinh tế, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Một đất
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nước hay một khu vực đang ở trong tình trạng vô chính phủ, chiến tranh, bạo
loạn triền miên thì không một nhà đầu tư nào dám bỏ tiền ra để đầu tư, đất
nước sẽ thiếu nguồn ngoại tệ phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh trong
nước đình đốn, đời sống của người dân ngày càng khó khăn càng đẩy đất
nước đó vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Tình trạng bất ổn chính trị ở
Thái Lan trong thời gian qua đã ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh của đất nước
Thái Lan trên thế giới, làm cho kinh tế chậm phát triển, các ngành kinh
doanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ, du lịch… gặp rất nhiều khó khăn. Ở
đất nước Somali, tình trạng vô chính phủ ở đất nước này là một trong những
nguyên nhân chính làm cho nạn cướp biển hoành hành. Trong hơn một năm
qua, có rất nhiều tàu biển của các quốc gia trên thế giới đã bị cướp khi đi qua
tuyến hàng hải quốc tế này. Điều này khiến cho các doanh nghiệp bảo hiểm

gặp nhiều khó khăn do số tiền phải bồi thường tăng cao và phải tính lại tỷ lệ
phí bảo hiểm hàng hải cho các tàu đi qua khu vực này.
Ở Việt Nam, việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là
một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Điều này đã có
ảnh hưởng tích cực đến môi trường đầu tư của Việt Nam trong những năm
qua. Các quốc gia và các nhà đầu tư trên thế giới luôn coi Việt Nam là một
nơi an toàn cho các hoạt động đầu tư của mình. Nguồn vốn FDI và ODA đổ
vào Việt Nam là một trong những kênh dẫn vốn quan trọng để phát triển
đất nước.
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh
hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và việc quản lý thực hiện theo
đúng pháp luật ở mỗi quốc gia. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất
lượng và đưa vào cuộc sống là điều kiện đầu tiên đảm bảo môi trường kinh
doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp có cơ hội cạnh tranh
lành mạnh; thiết lập mối quan hệ đúng đắn, bình đẳng giữa người sản xuất
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
và người tiêu dùng, giữa người cung cấp dịch vụ và người sử dụng dịch vụ;
buộc mọi doanh nghiệp phải làm ăn chân chính, có trách nhiệm đối với xã
hội và với khách hàng.
Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo
hiểm ở Việt Nam hiện nay khá nhiều và rất chặt chẽ. Hoạt động kinh doanh
bảo hiểm hiện nay ở Việt Nam đang chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Luật
kinh doanh Bảo Hiểm, Luật Doanh nghiệp, Luật thuế…và các văn bản dưới
luật, hướng dẫn thi hành luật. Có rất nhiều các qui định từ khi doanh nghiệp
được thành lập cho đến khi thanh lý, phá sản. Cơ quan quản lý Nhà nước về
hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn kiểm tra, giám sát khả năng thanh toán,
tỷ lệ phí, các mẫu đơn và các sản phẩm bảo hiểm trước khi doanh nghiệp
bảo hiểm đưa ra thị trường.

Các chính sách đầu tư, chính sách phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu
kinh tế, chiến lược phát triển ngành trong từng giai đoạn… sẽ tạo ra sự ưu
tiên hay kìm hãm sự phát triển của từng ngành, từng vùng cụ thể, do đó sẽ
tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
1.2.1.3: Môi trường tự nhiên
Các nhân tố của môi trường tự nhiên bao gồm các nguồn lực tự nhiên
có thể khai thác, các điều kiện về địa lý như địa hình, đất đai, thời tiết, khí
hậu… có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Điều kiện tự nhiên thiên nhiên ảnh hưởng đến hoạt động của từng loại
hình doanh nghiệp theo những hướng khác nhau. Đối với doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm, môi trường tự nhiên ảnh hưởng chủ yếu là khí hậu như
bão, gió, lỗc xoáy, động đất, sóng thần…làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro,
tổn thất, tăng tỷ lệ bồi thường của doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp
phải tính toán mức phí cho phù hợp để đảm bảo khả năng bồi thường, chi trả
theo qui luật số lớn.
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.1.4: Môi trường văn hoá xã hội
Văn hoá xã hội ảnh hưởng một cách chậm chạp, song cũng rất sâu sắc
đến hoạt động quản trị và kinh doanh của doanh nghiệp.
Các vấn đề về lối sống, trình độ dân trí, nhận thức của người dân về
bảo hiểm…có ảnh hưởng đến cầu về sản phẩm bảo hiểm trên thị trường.
Văn hoá xã hội còn tác động trực tiếp đến việc hình thànhvvăn hoá
doanh nghiệp, văn hoá nhóm cũng như thái độ ứng xử của các nhà quản trị, các
nhân viên với nhau cũng như đối với khách hàng, các đối tác kinh doanh.
1.2.1.5 Môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp
Sơ đồ 1.2: Môi trường cạnh tranh ngành
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
16

Các đối thủ
tiềm ẩn
Khách
hàng
Người
cung cấp
Trong ngành
Sự ganh đua của các
doanh nghiệp hiện có
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Các đối thủ cạnh tranh trong ngành của doanh nghiệp bảo hiểm bao
gồm toàn bộ các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường đang đưa ra các sản
phẩm bảo hiểm tương tự với các sản phẩm của doanh nghiệp mình trên cùng
một khu vực thị trường nhất định.
Khả năng cung ứng của tất cả các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm tạo nên cung về sản phẩm bảo hiểm trên toàn thị
trường. Số lượng, qui mô, sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh đều ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần chú rằng
mức độ ảnh hưởng của các đối thủ còn gắn với thị trường bộ phận: thông
thường chỉ có các đối thủ ở trong cùng một khu vực thị trường bộ phận mới
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nhau.
Khi nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp bảo hiểm cần
lưu ý đến: số lượng đối thủ cạnh tranh là nhiều hay ít?mức độ tăng trưởng
của ngành là nhanh hay chậm?các đối thủ cạnh tranh có đủ khả năng tài
chính để khác biệt hoá sản phẩm hay chuyển hướng kinh doanh hay không?
năng lực cung ứng dịch vụ của đối thủ có tăng hay không và nếu tăng thì khả
năng tăng ở mức độ nào?sự đa dạng về sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh
tranh ở mức độ nào?mức độ kỳ vọng của các đối thủ cạnh tranh vào chiến
lược kinh doanh của họ và sự tồn tại các rào cản rời bỏ ngành.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tham gia vào thị trường ( các đối thủ

tiềm ẩn): các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ tham gia vào thị trường là các đối
thủ mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh
nghiệp đang và sẽ hoạt động. Tác động của các doanh nghiệp này đến đâu
hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp đó ( qui mô,
kinh nghiệm hoạt động kinh doanh…)
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sự xuất hiện của các đối thủ mới trên thị trường sẽ làm thay đổi toàn
bộ bức tranh cạnh tranh trong ngành. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp mới
dù ít hay nhiều cũng sẽ làm gia tăng mức độ cạnh tranh của ngành.
Khi xem xét các đối thủ mới gia nhập vào ngành, ta cần phải chú ý
đến các yếu tố sau: các rào cản thâm nhập thị trường, hiệu quả kinh tế theo
qui mô, sự khác biệt hoá về sản phẩm, kênh phân phối của đối thủ, các chính
sách quản lý vĩ mô…
- Sức ép của các sản phẩm thay thế : các sản phẩm thay thế là một
trong những nhân tố quan trọng tác động đến quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp bảo hiểm. Đứng trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp
bảo hiểm ngày càng gia sức nghiên cứu, cải tiến để đưa ra các sản phẩm,
dịch vụ bảo hiểm tốt hơn, phạm vi bảo hiểm rộng hơn, phí bảo hiểm cạnh
tranh hơn để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao hơn của khách hàng.
- Sức ép từ phía khách hàng trong cạnh tranh: Khách hàng của doanh
nghiệp bảo hiểm là những người có cầu về dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm mà
doanh nghiệp cung cấp. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, khách hàng không
chỉ là khách hàng hiện tại mà còn là các khách hàng tiềm ẩn. Khách hàng là
người tạo ra lợi nhuận, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khi mà số lượng các công ty bảo
hiểm cung cấp dịch vụ ngày càng nhiều và lượng khách hàng chỉ có giới
hạn, việc khách hàng “ép giá”, buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải hạ phí

bằng hoặc thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh là điều có khả năng xảy ra.
Nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và phong phú. Doanh nghiệp nào
biết khai thác và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ nắm được phần
thắng trong tay. Sản phẩm bảo hiểm mang tính trừu tượng, là sự đảm bảo
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của doanh nghiệp bảo hiểm về việc bồi thường hay chi trả khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra. Chính vì vậy, để khai thác tốt, các doanh nghiệp cần chú trọng
đến “phần mềm” của sản phẩm, tức là sự an tâm, hạnh phúc, an toàn về mặt
tài chính… khi khách hàng mua sản phẩm bảo hiểm.
1.2.2: Các yếu tố thuộc môi trường bên trong
1.2.2.1: Tác động của hoạt động marketing
Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực hiện các ý tưởng liên
quan đến việc hình thành, xác định giá cả, xúc tiến và phân phối các sản
phẩm hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng trên thị trường. Hoạt
động marketing thường tập trung vào chủng loại, sự khác biệt hoá và chất
lượng sản phẩm, dịch vụ, thị phần, giá cả, niềm tin của khách hàng, chi phí
kinh doanh phân phối sản phẩm, hiệu quả của hoạt động quảng cáo và xúc
tiến bán hàng…
Mục tiêu của marketing là thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của
khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp, đảm bảo việc cung cấp
sản phẩm, dịch vụ với chất lượng và giá cả phù hợp nhằm giúp doanh nghiệp
giành được lợi thế trong cạnh tranh và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn.
Trong các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay, việc xây dựng thương
hiệu, nghiên cứu thị trường, quảng cáo, tiếp thị…ngày càng được quan tâm,
chú ý hơn. Hoạt động marketing của doanh nghiệp bảo hiểm càng có chất
lượng và ở phạm vi càng rộng bao nhiêu thì doanh nghiệp càng có thể tạo ra
các lợi thế để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu.
1.2.2.2: Ảnh hưởng của nguồn nhân lực

Nhân lực là lực lượng lao động sáng tạo của doanh nghiệp. Lao động
là nhân tố đóng vai trò quan trọng và là tài sản quí đối với mỗi doanh
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nghiệp. Lực lượng lao động trong doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm cả đội
ngũ quản trị và đội ngũ lao động làm việc trực tiếp tại các phòng, ban, đảm
bảo cho sự vận hành và hoạt động có hiệu quả của toàn doanh nghiệp.
Mỗi doanh nghiệp bảo hiểm cần phải nhận thức rõ được vai trò ảnh
hưởng có tính chất quyết định của nguồn nhân lực. Doanh nghiệp cần chú ý
đến việc đảm bảo số lượng, chất lượng, cơ cấu cũng như sự biến động của
nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp bảo hiểm
cần đảm bảo các điều kiện làm việc cần thiết cho người lao động và luôn có
các hình thức khen thưởng, động viên kịp thời, tạo điều kiện cho người lao
động phát huy tối đa năng lực của mình đồng thời cũng cần thẳng thắn khiển
trách, kỷ luật những cá nhân, tập thể vi phạm, làm ảnh hưởng đến tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.3: Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm là tổng hợp các bộ phận
khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau được chuyên môn
hoá, được giao những trách nhiệm và quyền hạn nhất định và được bố trí
theo từng cấp nhằm thực hiện chức năng quản trị của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức có tác động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo
của đội ngũ lao động, đến sự cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trường
bên trường bên ngoài cũng như cân đối có hiệu quả các bộ phận bên trong
doanh nghiệp. Khi xem xét, đánh giá cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo
hiểm, doanh nghiệp cần chú ý cần phải đánh giá đúng thực trạng cơ cấu tổ
chức trên cả hai mặt là hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của nó và khả
năng thích ứng của cơ cấu tổ chức trước các biến động của môi trường kinh
doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể đánh giá hiệu quả cơ cấu tổ chức

Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
qua một số chỉ tiêu như: tốc độ ra quyết định, tính kịp thời và độ chính xác
của các quyết định,…
1.2.2.4: Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Tình hình tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh
doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm. Mọi hoạt
động kinh doanh, đầu tư, mua sắm…cũng như khả năng thanh toán bồi
thường, chi trả của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào khả
năng tài chính của nó.
Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, người ta thường
thông qua 3 nhóm chỉ tiêu cơ bản: Nhóm chỉ tiêu thanh toán, nhóm chỉ tiêu
tốc độ luân chuyển vốn và nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời. Khả năng thanh
toán thể hiện khả năng thanh toán các khoản bồi thường, các khoản chi phí
kinh doanh của doanh nghiệp; tốc độ luân chuyển vốn thể hiện năng lực kinh
doanh, trình độ quản lý của doanh nghiệp; khả năng sinh lời thể hiện hiệu
quả của hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp.
1.3: Mô hình phân tích SWOT - một công cụ hữu hiệu trong việc xây
dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
1.3.1: Giới thiệu về mô hình phân tích SWOT
Mô hình phân tích SWOT là một công cụ rất hữu dụng cho việc nắm
bắt và ra quyết định trong mọi tình huống đối với bất cứ tổ chức kinh doanh
nào. SWOT là tên viết tắt của 4 chữ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses
(điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy cơ). SWOT cung cấp
một công cụ phân tích chiến lược, rà soát và đánh giá vị trí, định hướng của
một doanh nghiệp hay một đề án kinh doanh. SWOT phù hợp với làm việc
và phân tích theo nhóm, được sử dụng trong việc lập kế hoạch kinh doanh,
xây dựng chiến lược, đánh giá đối thủ cạnh tranh, tiếp thị, phát triển sản
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A

21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
phẩm và dịch vụ
Trong mô hình phân tích SWOT, Strengths (điểm mạnh) và
Weaknesses (điểm yếu) là các yếu tố nội tại của công ty còn Opportunities
(cơ hội) và Threats(nguy cơ) là các nhân tố tác động bên ngoài. SWOT cho
phép phân tích các yếu tố khác nhau có ảnh hưởng tương đối đến khả năng
cạnh tranh của công ty.
Phân tích SWOT là việc đánh giá một cách chủ quan các dữ liệu được
sắp xếp theo định dạng SWOT dưới một trật tự lô gíc dễ hiểu, dễ trình bày,
dễ thảo luận và đưa ra quyết định, có thể được sử dụng trong mọi quá trình
ra quyết định. Các mẫu SWOT cho phép kích thích suy nghĩ hơn là dựa trên
các phản ứng theo thói quen hoặc theo bản năng.
Mô hình SWOT ra đời từ những năm 60 – 70 của thế kỷ XX tại Viện
nghiên cứu Stanford, Hoa Kỳ. Mục đích nghiên cứu ban đầu của công trình
nghiên cứu là tìm hiểu nguyên nhân thất bại trong việc lập kế hoạch dài hạn
của các công ty. Công trình được tài trợ bởi 500 công ty lớn nhất Hoa Kỳ
thời kỳ đó. Các nhà quản trị thời kỳ này cho rằng việc lập chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp dưới hình thức kế hoạch dài hạn là một hoạt động
đầu tư tốn kém nhưng ít hiệu quả. Thực tế cho thấy, mấu chốt của vấn đề là
làm cách nào để đội ngũ quản trị cùng đồng ý và đưa ra được một chương
trình hành động có thể nắm bắt được. Để giải quyết vấn đề này, nhóm
nghiên cứu của Viện nghiên cứu Stanford, bao gồm Marion Dosher, Dr Otis
Benepe, Albert Humphrey, Robert Stewart, Birger Lie, đã tìm cách xây dựng
một mô hình, một hệ thống có thể giúp đội ngũ quản trị đánh giá và thực
hiện tốt công việc của mình.
Nhóm nghiên cứu tiến hành bước đầu tiên bằng cách thu thập thông
tin và đánh giá những gì là tốt, những gì là xấu trong hoạt động hiện tại và
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
22

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong tương lai. Điều tốt trong hiện tại thể hiện ở sự thoả mãn (Satisfactory),
trong tương lai thể hiện ở cơ hội (Opportunity); mặt xấu trong hiện tại thể
hiện ở sai lầm (Fault), trong tương lai thể hiện ở nguy cơ (Threat). Mô hình
phân tích này lúc đầu được gọi là SOFT. Sau khi mô hình được giới thiệu
cho Urick và Orr năm 1964 tại Zurich, Thuỵ Sĩ, họ đã đổi F thành W(Weak)
và SWOT ra đời từ đó. Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm và trình bày
năm 1966 dựa trên công trình tại Tập đoàn công nghệ Eie (Erie
Technological Corp) Hoa Kỳ. Năm 1973, SWOT được sử dụng tại J W
French Ltd và phát triển từ đó. Đầu năm 2004, SWOT đã được hoàn thiện và
thể hiện được tính ưu việt của mình trong việc đưa ra và thống nhất các mục
tiêu, chiến lược kinh doanh của tổ chức, doanh nghiệp mà không cần phụ
thuộc vào tư vấn hay các nguồn lực tốn kém khác.
Hình 1.1: Mô hình SWOT
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Từ hình vẽ trên ta có thể hiểu phân tích theo mô hình SWOT là phân
tích theo 4 yếu tố: Strengths(Điểm mạnh), Weaknesses(Điểm yếu),
Opportunities(Cơ hội) và Threats(Nguy cơ). Trong đó, Strengths(Điểm
mạnh) và Weaknesses(Điểm yếu) là các nhân tố thuộc về bên
trong( Internal) của doanh nghiệp. Các nhân tố Opportunities(Cơ hội) và
Threats(Nguy cơ) là các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài(External) tác
động đến doanh nghiệp. Weaknesses(Điểm yếu) và Threats(Nguy cơ) là các
nhân tố có tác động mang tính tiêu cực(Negative) tới doanh nghiệp còn
Strengths(Điểm mạnh) và Opportunities(Cơ hội) là các nhân tố mang tính
tích cực(Positive). Để doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả
thì doanh nghiệp phải xây dựng(Build) cho mình các Strengths(Điểm mạnh);
khắc phục, vượt qua(Overcome) các Weaknesses(Điểm yếu);tìm kiếm, khám
phá (Explore) các Opportunities(Cơ hội) và giảm thiểu(Minimize) các

Threats(Nguy cơ).
1.3.2: Nội dung của phương pháp phân tích theo mô hình SWOT
Để áp dụng mô hình phân tích SWOT vào việc xây dựng chiến lược
kinh doanh trong doanh nghiệp bảo hiểm, việc đầu tiên ta cần phải tiến hành
thu thập thông tin, phân tích các yếu tố thuộc môi trường bên trong và bên
ngoài ảnh hưởng đến doanh nghiệp theo các tiêu chí Strengths(Điểm mạnh),
Weaknesses(Điểm yếu), Opportunities(Cơ hội), Threats(Nguy cơ) .
Strengths(Điểm mạnh): Lợi thế của doanh nghiệp bảo hiểm là gì?
Nghiệp vụ kinh doanh nào doanh nghiệp đang làm tốt nhất? Nguồn lực nào
của doanh nghiệp là mạnh nhất? Các vấn đề trên phải được xem xét và đánh
giá một cách thực tế và khách quan.
Weaknesses(Điểm yếu): Điểm yếu nào đối với doanh nghiệp là lớn
nhất? Có thể cải thiện những điểm yếu nào? Doanh nghiệp cần tránh làm
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
những gì? Vì sao các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể làm tốt
hơn? Cần chú ý thu thập các thông tin về thị trường và của các đối thủ cạnh
tranh, tiến hành so sánh và đối chiếu để phát hiện ra những điểm yếu của
chính mình mà mình có thể không thấy khi không có sự đối chiếu.
Opportunities(Cơ hội): Cơ hội tốt nhất của doanh nghiệp đang ở đâu?
Xu hướng nào của thị trường cần phải được quan tâm? Tiềm năng phát triển
của thị trường như thế nào? Phương thức xác định các cơ hội hiệu quả nhất
là rà soát lại các thế mạnh của chính bản thân doanh nghiệp và tự đặt câu hỏi
liệu ưu thế đó có mang lại hay mở ra cơ hội mới nào cho doanh nghiệp
không hoặc ngược lại, rà soát lại các điểm yếu của doanh nghiệp và đặt câu
hỏi liệu có cơ hội nào xuất hiện không nếu loại bỏ được các điểm yếu này.
Threats(Nguy cơ): Doanh nghiệp đang và sẽ gặp phải những trở ngại
nào? Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể đang có những ý đồ gì?
Những biến động của nền kinh tế có thể gây ảnh hưởng xấu như thế nào đối

với doanh nghiệp? Liệu có vấn đề gì về khả năng thanh toán cũng như đối
với dòng tiền của doanh nghiệp hay không?
Sau khi phân tích các yếu tố độc lập tương đối trong mô hình SWOT,
các yếu tố này được sắp xếp và tổng hợp lại vào một bảng được gọi là ma
trận SWOT . Ma trận SWOT gồm có 9 ô: 4 ô liệt kê các yếu tố điểm mạnh -
điểm yếu – cơ hội – nguy cơ; 4 ô liệt kê các phương án chiến lược được hình
thành còn 1 ô luôn được để trống( ô trên cùng, bên trái ):
Đỗ Minh Dân Lớp: BH47A
25

×