Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN: Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.49 KB, 19 trang )








TIỂU LUẬN:

Phép biện chứng về mối liên hệ phố biến và
vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế





Lời nói đầu

Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề bức xúc của thời đại, mọi quốc
gia dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù muốn hay không cũng đều bị cuốn hút
hoặc chủ động tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận biết được xu thế đó của thời đại Đảng và Nhà nước ta đã đề ra phương
hướng chủ động tham gia hội nhập vào kinh tế quốc tế và đang chuẩn bị gia nhập
vào tổ chức thương mại WTO. Tuy nhiên bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta cũng
nhận rõ được mặt tích cực và mặt tiêu cực của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
và đưa ra biện pháp khắc phục mặt tiêu cực đó là phải kết hợp giữa hội nhập kinh
tế quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Trước vấn đề cập nhật của thời đại và nhận biết được phương hướng xây
dựng đổi mới của đất nước ta em quyết định chọn đề tài: "Phép biện chứng về


mối liên hệ phố biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế" để tìm hiểu sự vận dụng
sáng tạo của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng đổi mới đất nước là
hoàn toàn đúng đắn.



Chương I

Trong những năm gần đây khi khoa học kỹ thuật nhân loại ngày càng phát
triển đã thúc đẩy nền kinh tế của một số nước phát triển như vũ bão. Nhưng để đạt
được sự phát triển đồng đều và kinh tế giữa các nước trên thế giới thì không còn
con đường nào khác là con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc
tế là một xu thế không thể tránh khỏi trên thế giới. Nó là nền tảng cho các nước
tăng cường hiểu biết lẫn nhau và hợp tác thông qua đối thoại đồng thời cải thiện
quan hệ chính trị giữa các quốc gia, thúc đẩy các nước trên thế giới cùng nhau phát
triển và mục đích cao hơn nữa đó là đem lại cuộc sống đầy đủ, đoàn kết hoà bình
cho tất cả nhân loại.
Chính vì những lợi ích to lớn đó mà hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành
vấn đề cấp bách đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Với sự mở màn của liên minh
Châu Âu (EU) thông qua một thị trường chung một đồng tiền chung và việc kết
nạp thêm các nước thành viên mới. ở Đông Nam á, tiến trình này cũng đang diễn
ra rất sôi động và đã thu hút được những kết quả khả quan. Mà đỉnh cao của quá
trình hội nhạp kinh tế được thể hiện ở sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới
WTO, đây là tổ chức thương mại lớn nhất thế giới được thành lập ngày 1.1.1985,
ban đầu có 130 nước thành viên, đến nay tổng số thành viên WTO đã lên 148
trong đó có 2/3 là các nước đang và kém phát triển.Ngoài các thành viên chính
thức, hiện nay còn 25 nước đang trong quá trình hội nhập trong đó có Việt Nam.
Thông qua tổ chức WTO các nước có thể tự do trao đổi mua bán trên cơ sở cả hai
bên cùng có lợi đồng thời giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, tiếp thu được những

thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới.
Tuy nhiên vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay đối với mỗi quốc gia trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là xây dựng nền kinh tế được lập tự chủ. Bởi vì
hội nhập kinh tế quốc tế vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác
vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có
những thách thức đối với các quốc gia nhất là đối với quốc gia đang ở giai đoạn
phát triển như nước ta. Do xu thế hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự tuỳ thuộc lẫn



nhau về kinh tế ngày càng gia tăng nên các nước trên thế giới đều rất coi trọng đến
khả năng độc lập tự chủ về kinh tế nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của quốc gia,
dân tộc mình trong cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt và để xác lập một vị thế chính
trị nhất định trên trường quốc tế.
Đối với đất nước ta là đất nước xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng XHCN và đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế nên
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế để Việt Nam có thể vững bước hoà nhập
vào nền kinh tế của thế giới mà như Đại hội IX khẳng định:"Nước ta chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa mọi lực nâng cao
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và xây dựng định hướng XHCN, bảo vệ
lợi ích dân tộc giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường"
(Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội, sản xuất 2001, tr: 119 - 200)
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dựa vào nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
chúng ta sẽ phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội
nhập kinh tế quốc tế.





Chương II
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
1.1. Nội dung của nguyên lý
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối liên hệ phổ biến
không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà chúng tác động lẫn
nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau, các mối liên hệ quy định trong
mỗi tổng thê của nó quy định sự biến đổi của sự vật, khi các mối liên hệ thay đổi
tất yếu sẽ dẫn đến thay đổi sự vật .
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa dạng
hoá của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ là khách quan, là
thống nhất vật chất của thế giới. Tính đa dạng của mối liên hệ trực tiếp và gián
tiếp; có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một
số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của thế giới đó, có mối liên hệ bản chất và
không bản chất, có mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên…. các loại liên hệ khác nhau
có vai trò khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật về mối liên hệ
cũng đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại của các mối liên hệ.
1.2. ý nghĩa của nguyên lý
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, đòi hỏi trong quá
trình nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn chúng ta cần thực hiện nguyên tắc
toàn diện và lịch sử cụ thể.
Theo nguyên tắc về quan điểm toàn diện thì trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn con người cần xem xét sự vật trong tính toàn vẹn của nhiều mối liên hệ
nhiều mặt, nhiều yếu tố vốn có của nó kể cả các quá trình, các giai đoạn phát triển
của sự vật, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, có như vậy mới nắm bắt được
thực chất của sự vật khi tuân thủ nguyên tắc con người sẽ tránh được sai lầm cực
đoan, phiến diện một chiều, không đồng nhất và san bằng các mối liên hệ, các mặt
của sự vật phải phản ánh đúng vai trò của từng mối liên hệ phải rút ra được mối




liên hệ bản chất chủ yếu của sự vật. Khi tuân thủ nguyên tắc này con người sẽ
tránh được mối quan hệ thứ yếu và chiết trung.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì khi nghiên cứu xem xét sự vật phải đặt nó
trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể trong không gian và thời gian xác định mà nó
đang tồn tại phát triển, đồng thời phải phân tích vạch ra ảnh hưởng của điều kiện
hoàn cảnh đối với sự tồn tại của sự vật, với tính chất của sự vật và với xu hướng
vận động phát triển của nó. Khi vận dụng một lý luận nào đó vào trong thực tiễn
cần tính đến điều kiện cụ thể của nơi vận dụng, tránh bệnh giáo điều dập khuân
máy móc.
2. Vận dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến để phân tích mối quan hệ giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế .
2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình "mở cửa" nền kinh tế, đưa các doanh
nghiệp trong nước tham gia tích cực vào cạnh tranh quốc tế, sự tham gia vào phân
công lao động quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng không gian và môi trường để
chiếm lĩnh những vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Đó cũng là quá trình chúng ta tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực
và thế giới, qua đó mà thiết lập mối quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học
và công nghệ với các nước trên thế giới. (Tạp chí nghiên cứu - trao đổi - Vương
Thị Bích Thuỷ)
2.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường duy nhất để đưa một quốc gia không
ngừng phát triển nền kinh tế và nâng cao trìn độ khoa học kỹ thuật của nứoc mình.
Theo quan điểm biện chứng về mối quan liên hệ phổ biến của các nhà triết
học đã khẳng định ở trên :"Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều nằm trong mối
liên hệ phổ biến không có sự vật hiện tượng nào tồn tại một cách biệt lập mà
chúng tác động lẫn nhau, rằng buộc quy định và chuyển hoá lẫn nhau". Khi áp

dụng quan điểm này vào thực tế là hoàn toàn đúng khi một quốc gia tự mình tách
ra khỏi mối quan hệ với các quốc gia khác thì nó không thể tồn tại và phát triển
được. Bởi vì trước hết một quốc gia không thể tự mình cung cấp những nhu cầu



cho quốc gia mình, do mỗi quốc gia trên thế giới đều có một thế mạnh riêng như
Nhật Bảnh mặc dù là một quốc gia phát triển mạnh về khoa học kỹ thuật nhưng lại
là một nước nghèo tài nguyên khoáng sản, thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước
nhỏ bé. Nếu như Nhật Bản không hội nhập kinh tế giao lưu với các quốc gia khác
về trao đổi hàng hoá và mua nguyên vật liệu thì Nhật Bản sẽ không thể tồn tại và
phát triển như ngày nay. Và cả Mỹ mặc dù là một quốc gia phát triển bậc nhất thế
giới hiện nay, là trung tâm khoa học kỹ thuật của thế giới nhưng để có sự phát
triển như vậy là do Mỹ có chính sách đúng đắn mở cửa hội nhập kinh tế và thu hút
nhân tài khắp thế giới cũng như mua được những nguyên vật liệu với giá rẻ và có
thị trường rộng lớn trên toàn thế giới. Đó là những quốc gia có nền kinh tế phát
triển bậc nhất thế giới phát triển được nền kinh tế như ngày nay là do sự phối hợp
kinh tế quốc tế. Còn các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển thì sao? Ta có
thể khẳng định rằng dù quốc gia giàu hay nghèo cũng phải tham gia vào hội nhập
kinh tế quốc tế. Sở dĩ như vậy bởi vì các quốc gia nghèo có nền kinh tế kém phát
triển là do trình độ khoa học kỹ thuật lạc hậu, trình độ hiểu biết thấp. Nên các
nước này càng cần tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế để tiếp thu thêm được
những thành tựu khoa học kỹ thuật của các nước phát triển, các nước đi trước,
đồng thời trao đổi mua bán với các nước phát triển như xuất khảu nhân công dư
thừa, xuất khẩu nguyên nhân vật liệu và mua các thiết bị kỹ thuật máy móc hiện
đại nhằm nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật trong nước, phát triển công nghiệp
góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cần phải khẳng định rằng trước xu thế toàn cầu hoá không một quốc gia
nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Sự xã hội hoá mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất, sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại

đã làm nảy sinh yêu cầu hợp tác đa dạng nhiều chiều, ổn định và bền vững trên
phạm vi toàn cầu. Mỗi nước trở thành một bộ phận hữu của thế giới, nền kinh tế
của mỗi dân tộc được đặt trong sự phụ thuộc vào mối quan hệ qua lại với nền kinh
tế khu vực và thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta có cơ hội tích luỹ được những tiền đề,
những điều kiện cho một trình độ phát triển mới. Trước hết chúng ta có cơ hội thu
hút vốn, khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế từ bên



ngoài và mở rộng thị trường để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Với một nền kinh tế yếu kém, nếu
không tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hoá mang lại dù là toàn cầu hoá
đang do CNTB chi phối thì chúng ta không thể xây dựng CNXH được. Chỉ riêng
vấn đề "học hỏi" CNTB đã là một đề tài khách quan, một yêu cầu bắt buộc đối với
việc xây dựng CNXH ở các nước chậm phát triển. Như Lênin đã nói:"Chúng ta
không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở
những bài học mà nền văn minh lớn của CNTB đã thu được"
(Theo tạp chí nghiên cứu - trao đổi, bài viết "bản chất của toàn cầu hoá và
khả năng hội nhập của Việt Nam" ThS Vương Thị Bích Thuỷ)
2.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi
bật của kinh tế thế giới hiện nay. Thế giới đang chứng kiến sự phát triển như vũ
bão của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh
học. Làm tăng nhanh lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản
xuất, phân phối, tiêu dùng thúc đẩy quá trình quốc tê hoá, xã hội hoá nền kinh tế,
cũng như quá trình tham gia của mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác
quốc tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay các định
chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để
phục vụ cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp luật chung

và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế
thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Đặc điểm
cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới hiện nay thể hiện qua một số xu
hướng chính như sau:
- Xu hướng tăng cường hợp tác đa phương.
- Xu hướng tự do hoá và khu vực hoá
- Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong thương mại thế giới.
- Sự tăng cường chính sách bảo hộ với các rào cản thương mại hiện đại
(trích bài viết của Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự đăng trên tạp chí
Thương mại số ra tháng 3/2004).



2.4. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu
là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc
tế và trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì các hành động
bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Đó là nền kinh tế phải có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm
bảo độ an toàn cần thiết, có tốc độ phát triển bền vững và năng lực cạnh tranh cao,
cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối, cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với tỷ
lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế, cơ cấu thị
trường quốc tế; đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài
mục tiêu; đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong
cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
(Nguồn: báo đầu tư chứng khoán).
Như vậy nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ
thuộc vào các nước khác, người khác hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đường
lối, chính sách phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài
chính, thương mại, viện trợ để áp đặt khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia

và lợi ích cơ bản của dân tộc.
Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị
trường, trước sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả
năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển trước sự bao vây, cô lập và chống phá
của các thế lực thù địch, nên vẫn có khả năng đứng vững không bị sụp đổ, không
bị rối loạn.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB CTQG, Hà Nội
2001, tr 109).
Trong thời đại ngày nay, độc lập tự chủ về kinh tế không còn được hiểu đó
là một nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối quan hệ biện
chứng với mở cửa, hội nhập, chủ dộng tham gia sự giao lưu, hợp tác và cạnh tranh
quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Điều này



có nghĩa là độc lập tự chủ về kinh tế cũng đồng thời hội nhập được vào nền kinh tế
quốc tế.
2.5. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế
quốc tế
Nếu như chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế mà không có xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ thì quốc gia đó có phát triển bền vững được không? Câu trả lời ở
đây là không. Qua những bài học kinh nghiệm sâu sắc mà một số nước châu á rút
ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nặng nề năm 1997-1998,
là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, công nghệ, thị trường nước ngoài và sự
đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và
các luồng vốn ngắn hạn. Các nền kinh tế này vượt qua được giai đoạn khó khăn,
nhanh chóng phục hồi một phần rất quan trọng, theo đánh giá của các nhà phân
tích kinh tế nước ngoài là do nền kinh tế Mỹ mấy năm qua có sự tăng trưởng khá.
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế Mỹ đang ngập trong trong khó khăn, nhất là
sau sự kiện 11-9-2001 vừa qua người ta lại dự đoán rằng nền kinh tế một số nước

châu á khó bề vươn dậy vì đã dựa quá nhiều vào xuất khẩu, không tranh thủ thời
cơ tiến hành những cải cách trong nước nhằm đảm bảo sự ổn định trong nền kinh
tế của mình. Rồi nữa, nợ nần và những hậu quả nghiêm trọng bất ổn chính trị, lật
đổ, đảo chính, chiến tranh giữa các phe phăi, đặc biệt nạn đói luôn đe doạ mạng
sống hàng triệu người là minh chứng cho thấy chỉ biết sống dựa vào bên ngoài,
phụ thuộc hẳn vào bên ngoài thì sẽ chẳng bao giờ phát triển được nền kinh tế đất
nước.
Theo tổng kết của UNĐP (tổ chức hỗ trợ phát triển của liên hiệp quốc) cho
rằng “từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hoá đến nay trên thế giới có 10 nước giàu
lên, nhưng có 180 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình quân đầu người
thấp hợ trước khi tham gia toàn cầu hoá. Tổng kết những nước vay nợ để phát
triển cho thấy chưa đến 10% số nước có khả năng trả được bợ, số còn lại trở thành
con nợ lưu cữu”.
(Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng, nxb: CTQG Hà Nội
2001 tr25).



Qua những số liệu tổng kết ở trên chúng ta thấy rằng nếu một quốc gia
không tự mình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mà chỉ phụ thuộc vào các phe
phái mạnh hơn hoặc phụ thuộc vào một nước lớn hơn sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm
trọng làm cho nền kinh tế của quốc gia đó luôn chịu sự ảnh hưởng đối với từng
biến động của nền kinh tế quốc gia khác và sẽ không tự mình đứng dậy được khi
có sự biến kinh tế xảy ra. Như vậy nền kinh tế của quốc gia đó sẽ luôn lạc hậu và
chậm tiến. Đó chính là lý do vì sao trong quá trình hội nhập kinh tế phải gắn liền
với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Như vậy xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế có
mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ và tác động lẫn nhau cùng đi đến mục
đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển nền kinh tế của quốc gia đó. Đồng thời giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế còn là mối quan

hệ bên trong và bên ngoài. Mối quan hệ bên trong là xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ và mối quan hệ bên ngoài là hội nhập kinh tế quốc tế. Và cả hai mối quan
hệ này đều tác động trực tiếp đến sự phát triển đất nước trong đó xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ là yếu tố quyết định đến vận mệnh của đất nước còn hội
nhập kinh tế quốc tế là nhân tố thúc đẩy, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ. Bởi chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới
có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và hiệu quả kinh
tế quốc tế và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới
nhanh chóng bổ xung sức mạnh nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con
đường phát triển nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nữa độc
lập tự chủ. Hơn nữa, muốn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách đúng đắn
và mạnh mẽ không thể không bắt đầu từ nền tảng sức mạnh tổng thể của một nền
kinh tế độc lập tự chủ. Nếu vấn đề thứ nhất là tiền đề là điều kiện đảm bảo cho vấn
đề thứ hai thì đến lượt nó, vấn đề thứ hai lại là hệ quả, là động lực, là môi trường
phát triển mới của vấn đề thứ nhất. Đó là một quá trình biện chứng.
Vấn đề dặt ra ở đây là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ như thế nào
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
ở đây xây dựng “độc lập, tự chủ” không có nghĩa là tự biệt lập hoặc cô lập
mình mà phải chủ động hội nhập quốc tế và khu vực “mở cửa” không có nghĩa là



“ngó cửa”, “hội nhập” không phải là “hoà tan”. Phải nắm bắt được khả năng nội
lực của quốc gia để linh hoạt trong hợp tác đối ngoại kinh tế.
Như đã nói ở trên xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thànhmột xu thế
lớn của kinh tế thế giớivà quan hệ kinh tế quốc tế từ vài thập niên trở lại đây .Xu
hướng này lôi cuốn nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh. Do vậy, để hội nhập mà không
hoà tan rất cần sự tỉnh táo nhìn nhận trong thực tế tự do hoá thương mại một số
nước giàu lên trong khi một số nước khác nghèo hẳn đi. Ngay trong từng nước sự

tự do thương mại cũng có lợi cho tầng lớp này, nhưng lại có hại cho tầng lớp khác.
Cụ thể như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), tuy tự do hoá thương mại nhưng vẫn
duy trì chính sách bảo hộ hàng nông sản - thế mạnh chủ lực của các nước kém
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng . Hoặc như vụ kiện cá ba sa của Việt
Nam vừa qua, về thực chất chính là để bảo vệ những ngành kinh tế không còn đủ
sức cạnh tranh. Điều này liệu có công bằng : trên thực tế chính phủ các nước, dưới
áp lực của cử tri bỏ phiếu cho mình không thể nào đồng ý những điều khoản
thương mại có thể gây hại cho một bộ phận, một ngành kinh tế của họ.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế hiện nay, các nước giàu đã
thành công trong việc thiết lâp “cuộc chơi” tự do hoá thương mại với những luật
chơi do họ đặt ra. Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đã thành công trong việc buộc các nước
khác gỡ bỏ những rào cản để hàng công nghiệp và dịch vụ của mình tràn vào các
nước này. Ngược lại họ cũng lại thành công trong việc duy trì mức thuế cao đánh
vào hàng nông sản nhập khẩu đơn giản là vì luật chơi trong tay kẻ mạnh
Nói như vậy, không có nghĩa là sân chơi không “đẹp” thì không chơi mà
việc tham dự một cách tích cực vào sân chơi này là chuyện tất yếu và không thể
phủ nhận, vì bên cạnh những mặt chưa được vẫn còn rất nhiều mặt được và vấn đề
là tận dụng các cơ hội này như thế nào? Về thực chất hội nhập kinh tế quốc tế là sự
kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại nhằm bảo vệ lợi ích của dân tộc, phát triển kinh tế đất nước.



3. Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của đảng
và Nhà nước ta việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
với hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1 Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đang là vấn đề nổi
bật của kinh tế thế giới , tạo ra sức ép buộc chúng ta phải chấp nhận “cuộc chơi”
nếu không cố gắng đi cùng nhịp với các nước trong khu vực thì Việt Nam có nguy

cơ bị tụt hậu và chịu thua thiệt của người đi sau Hội nhập kinh tế hiện luon có hai
mặt, trước hết hội nhập kinh tế khiến các nước phải mở cửa thị trường về thương
mại hàng hoá, làm giảm những khác biệt thông qua việc tiến tới bãi bỏ hàng rào và
biện pháp phi thuế quan mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư.
Với việc tham gia vào quá trình này chúng ta sẽ có cơ hội mở rộng thị
trường xuất nhập khẩu, thu hút được một nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài,
nhất là tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn,
đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ
năng quản lý, đào tạo được một đội ngũ cán bộ năng lực để tham gia hội nhập.
Nhưng quan trọng hơn cả là thực hiện được chủ trương chuyển toàn bộ nền kinh tế
kế hoạch sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đặt tất cả doanh
nghiệp vào môi trường cạnh tranh, lấy hiệu quả là mục tiêu của doanh nghiệp , xoá
bỏ tư tưởng bao cấp trông chờ vào sự trợ giúp và bảo hộ của Nhà nước, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh lớn hơn,
nhất là từ phía Trung Quốc, ấn Độ, và phần lớn là các nước ASEAN, vốn là những
nước sản xuất mang tính cạnh tranh với nước ta và có nhiều ưu thế hơn ta, thậm
chí ngay cả trong những ngành hàng xuất khẩu chủ lực của ta hiện nay như nông
sản, thuỷ sản, may mặc, giày dép, . Trong thu hút FDI chúng ta cũng vấp phải sự
cạnh tranh khốc liệt hơn và nguy cơ sẽ giảm FDI nước ta nếu chúng ta không có
những chính sách và biện pháp cải thiện môi trường đầu tư mạnh mẽ làm tăng tính
hấp dẫn hơn hẳn so với các nước trong khu vực.
(Nguồn : Thời báo tài chính - bài viết của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển)



3.2 Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Những thành tựu cơ bản mà đất nước ta đã đạt được trong những năm qua
khi tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn lao. Đất nước ta thoát ra khỏi tình
trạng bị bao vây cấm vận, cô lập, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực

thuận lợi cho công việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên
chính trường và thương trường thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã ký 86 hiệp định
thương mại song phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp
định chống đánh thuế 2 lần với các nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại
với trên 160 nước và nền kinh tế; thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế là thành viên của ASEAN, ASEM , APEC Thực hiện thành công chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000) ; GDP tăng trưởng bình
quân 8,2%/năm, trong giai đoạn 1991 - 2000, khoảng 7% trong hai năm 2001 và
2002 , năm 2003 tăng 7,2% và là nước có tốc độ tăng GDP thứ hai thế giới, chỉ
đứng sau Trung Quốc. Hạ tầng cơ sở được cải thiện rõ rêt. Thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu nền kinh tế một cách tích cực theo định hướng tăng dần tỷ trọng giá trị
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong cơ cấu thu
nhập quốc dân. Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành
các vùng trong điểm , các khu xuất nhập khẩu tập trung , các khu chế xuất, chuyển
toàn bộ nền kinh tế sang môi trường cạnh tranh lấy mục đích và hiệu quả kinh tế
xã hội làm cơ sở, thay đổi thói quen trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước của
các doanh nghiệp.
Mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển tạo thêm việc làm , tăng thu ngân sách. Năm 1990 kim ngạch xuất khẩu mới
đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu 2,752 tỷ USD thì năm 2001 kim ngạch xuất khẩu
đã đạt 15 tỷ USD (nếu tính cả dịch vụ thì đạt 17,6 tỷ USD), tăng mỗi năm trung
bình trên 20%, có năm tăng 30% (gấp 7 lần năm 1990). Năm 2003 xuất khẩu đạt
20,176 tỷ USD. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt 200 USD, đây là mức được
thế giới công nhận là quốc gia có nền xuất khẩu bình thường. Bên cạnh đó nước ta
còn thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Đến nay ta
đã thu hút được trên 41,538 tỷ USD vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng lãnh thổ
với trên 4.370 dự án trong đó đã thực hiện trên 24,654 tỷ USD. Nguồn đầu tư nước




ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta, chiếm gần 30% vốn đầu tư
xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho
khoảng 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp . Tranh thủ được kỹ
thuật tiên tiến và khoa học quản lý mới. Tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển
chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời giảm đáng kể nợ nước ngoài. Các nhà
tài trợ đã cam kết giành cho nước ta 20 tỷ USD , chủ yếu là cho vay ưu đãi và một
phần là viện trợ không hoàn lại.
Tuy nhiên bên cạnh đó nước ta còn tồn tại không ít khó khăn hạn chế đó là
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn chung còn yếu, chính sách vĩ mô
chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn đều có quy mô nhỏ, ít vốn. Đa phần các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả
kinh tế và có tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước . Hệ thống chính
sách , cơ chế quản lý của Nhà nước chưa tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự
giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Môi trường kinh doanh vẫn
còn một số bất cập về khuôn khô rpháp lý và thể chế, cấu trúc thị trường và hành
vi cạnh tranh. Thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện thể hiện ở sự thiếu đồng
bộ của các yếu tố như thị trường tiền tệ, thị trường đất đai, bất động sản, thị trường
lao động, khoa học công nghệ các cơ sở pháp lý đảm bảo cạnh tranh chậm được
ban hành và sửa đổi. Bên cạnh đó việc thực thi pháp luật còn rất hạn chế. Những
chủ trương chính sách đúng đắn của đảng và chính phủ ban hành chưa được thực
hiện triệt để. Bộ máy điều hành ở một số bộ và địa phương còn yếu kém chưa đáp
ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
3.3 Đường lối đổi mới và chủ trương của Đảng và chính phủ
Trước những biến đổi của tình hình thế giới, xu thế tất yếu của quốc tế hội
nhập quốc tế , Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương, quan điểm, nguyên tắc về
chính sách đối ngoại của đất nước, nhằm có thêm bạn bè, tạo thêm thế mạnh, tranh
thủ thêm vốn, công nghệ cho sự phát triển kinh tế, tranh được tình thế rất khó khăn
sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Với nhận thức như vậy tại đại hội
đảng lần thứ VII, đảng ta đã đưa ra quan điểm : thực hiện đường lối đối ngoại độc

lập, tự chủ, đa dạng hoá , đa phương hoá các quan hệ quốc tế, mở rộng hợp tác,



trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi quốc
gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đại hội VII đã đưa ra khẩu
hiệu nổi tiếng “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì độc lập hoà bình và phát triển”
(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, nxb sự thât, Hà Nội 1991,
tr147)
Đây là bước mở đầu cho quốc tế hội nhập, quyết định sáng suốt có tính
bước ngoặt về chính sách đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
Để phát triển kinh tế , đảng ta chỉ rõ phải tận dụng tối đa ngoại lực, trên cơ
sở dựa vào sức mình là chính. Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng hợp tác
quốc tế, đa dạng hoá , đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào sức mình là
chính , đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập khu vực và thế giới hướng mạnh vào xuất khẩu (Văn kiện đại hội
đại biểu VIII, nxb Quốc gia Hà Nội , 1996 tr84-85)
Cũng trong văn kiện đại hội VIII, đảng ta nêu rõ “Điều chỉnh cơ cấu thị
trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích
giữa ta và đối tác, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn
, các tổ chức , các định chế quốc tế, một cách chọn lọc, bước đi thích hợp.”
Đến đại hội IX, chính sách đối ngoại của đảng từng bước được bổ xung
hoàn thiện hơn. Đảng ta tiếp tục khẳng định “chủ động hội nhập kinh tế tranh thủ
mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc, bình đẳng cùng có lợi,
vừa có hợp tác, vừa đấu tranh đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối
ngoại, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch”.
(Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, nxb : CTQG, Hà Nội 2001,
tr167)




Chương III

Phân tích mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế, chúng ta có thể khẳng định một lần nữa giữa xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng.
Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta mới có đầy đủ tư
cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng hướng và có hiệu quả. Và ngược lại ,
chỉ có chủ động hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ sung sức
mạnh cho nội lực còn khiếm khuyết, thiếu hút, rút ngắn con đường phát triển nhằm
không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững nền độc lập dân tộc.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào phân tích chủ
trương , đường lối của đảng về kinh tế là việc làm hết sức đúng đắn, giúp chúng ta
không những hiểu rõ chủ trương, đường lối kinh tế đó mà còn giúp cho chúng ta
có sự tự tin, ý chí quyết tâm thực hiện chủ trương, đường lối đó. Vận dụng nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua phân tích mối
liên hệ bên trong bên ngoài làm sáng tỏ quan điểm đúng đắn của đảng ta trong việc
lãnh đạo xây dựng kinh tế đất nước.
Theo các dự báo trong năm 2004, nền kinh tế thế giới sẽ đạt được tốc độ
tăng trưởng tiềm năng. Bởi vậy, xuất khẩu của Việt Nam sẽ có những điều kiện
thuận lợi hơn do thương mại toàn cầu. Mặc dù vậy, khi nền kinh tế của nhiều nước
đang có khả năng tăng trưởng đi lên, động cơ thúc đẩy họ tự do hoá để tăng cường
hội nhập sẽ giảm. Đây có thể là khó khăn đối với Việt Nam trong quá trình chuẩn
bị gia nhập WTO. Hơn nữa với những diễn biến phức tạp trên các thị trường tài
chính hiện nay và dự báo trong tương lai, Việt Nam cần phải chuẩn bị để đối phó,
ngăn ngừa những bất ổn định về tài chính có thể xảy ra , điều đó có nghĩa là Việt
Nam phải xây dựng cho mình một nền kinh tế độc lập tự chủ để có thể ứng phó
trước mọi khó khăn trong quốc tế hội nhập kinh tế quốc tế.





Danh mục các tài liệu tham khảo

1. Giáo trình triết học Mác - Lê nin
2. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , nxb CTQG Hà Nội sản
xuất 2001
3. Tạp chí nghiên cứu - trao đổi - Vương Thị Bích Thuỷ
4. Tạp chí thương mại số ra tháng 3/2004 bài viết của thứ trưởng bộ thương
mại Lương Văn Tự
5. Báo đầu tư chứng khoán
6. Thời báo tài chính, bài viết của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển
7. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nxb Sự thật, Hà Nội
1991
8. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc VII, nxb QGHN 1996





Mục lục
Mục lục 19
Lời nói đầu 1
Chương I 3
Chương II 5
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. 5
1.1. Nội dung của nguyên lý 5
1.2. ý nghĩa của nguyên lý 5

2. Vận dụng nguyên lý mối liên hệ phổ biến để phân tích mối quan hệ giữa
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế . 6
2.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 6
2.2. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của đất nước. 6
2.3. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới 8
2.4. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ 9
2.5. Mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với hội nhập
kinh tế quốc tế 10
3. Sự vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến một cách sáng tạo của
đảng và Nhà nước ta việc kết hợp quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. 13
3.1 Những thách thức đối với nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế 13
3.2 Thực trạng tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 14
3.3 Đường lối đổi mới và chủ trương của Đảng và chính phủ 15
Chương III 17
Danh mục các tài liệu tham khảo 18


×