Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo "Điều kiện thử thách của án treo và hậu quả pháp lí của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo theo luật hình sự Việt Nam" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.36 KB, 5 trang )



Xây dựng pháp luật
40 - tạp chí luật học

Điều kiện thử thách của án treo
và hậu quả pháp lí của việc vi phạm
điều kiện thử thách của án treo
theo luật hình sự Việt Nam

ThS. Phạm Thị bích Học *
ục đích áp dụng án treo là thông
qua việc ấn định thời gian thử
thách, đặt ra nghĩa vụ pháp lí riêng
biệt nhằm để cải tạo, giáo dục và răn đe
ngời phạm tội. Đồng thời cũng để kiểm
tra sự đúng đắn của bản án mà tòa án đ
tuyên cho hởng án treo đối với ngời bị
phạt tù. Vì tính chất pháp lí của án treo là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện nên nghĩa vụ pháp lí riêng biệt
luật định trong thời gian thử thách cho
ngời phạm tội đợc hởng án treo chính
là điều kiện thử thách của án treo.
Nội dung điều kiện thử thách của án
treo là thớc đo về mặt pháp lí tính tích
cực cải tạo, giáo dục của ngời đợc
hởng án treo trong môi trờng x hội.
Nếu tuân thủ một cách nghiêm túc điều
kiện này, ngời phạm tội sẽ đợc miễn
vĩnh viễn việc chấp hành hình phạt tù.


Ngợc lại, phải chịu hậu quả pháp lí xấu
nếu họ vi phạm điều kiện thử thách. Song,
điều kiện cụ thể thế nào, hậu quả pháp lí
cụ thể của việc vi phạm điều kiện thử
thách của án treo ra sao, ở nớc ta luật
hình sự quy định cũng khác nhau trong
từng thời kì.
1. Điều kiện thử thách của án treo
a. Thời kì trớc khi có Bộ luật hình sự
(BLHS)
Trớc đây, điều kiện thử thách của án
treo đợc quy định tại Điều 10 Sắc lệnh
số 21/SL ngày 14/2/1946 là: "Nếu trong 5
năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân
không bị tòa án quân sự làm tội một lần
nữa về một việc mới thì bản án đ tuyên
sẽ hủy đi, coi nh không có"
(1)
. Theo điều
luật này, không bị "làm tội một lần nữa
về một việc mới" có nghĩa là không phạm
bất cứ tội mới nào trong thời gian thử
thách. Vì vậy, nếu tuân thủ điều kiện này
của án treo, ngời đ phạm tội đó đợc
miễn vĩnh viễn việc chấp hành hình phạt
tù và coi nh cha có tiền án.
Khi Thông t số 2308/NCPL ngày
1/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao ra
đời thì điều kiện thử thách của án treo
đợc xác định là không phạm tội mới

cùng tính chất hoặc nặng hơn tội cũ trong
thời gian thử thách của án treo. Không vi
phạm điều kiện này thì hết thời gian thử
thách, ngời phạm tội đợc miễn vĩnh
viễn việc chấp hành hình phạt tù đ
tuyên, cụ thể là:
"Nếu hết thời gian thử thách mà ngời
bị phạt án treo không phạm tội gì mới thì
sẽ coi nh không có tiền án Nếu phạm
tội mới không cùng tính chất và nhẹ hơn
tội cũ thì hết thời gian thử thách, bản án
treo cũ cũng vĩnh viễn không phải chấp
hành nữa"
(2)
.
Theo chúng tôi, hớng dẫn này trái
với quy định tại Điều 10 Sắc lệnh số
21/SL nêu trên.
M

* Giảng
viên Khoa t pháp

Trờng Đại học luật Hà Nội


Xây dựng pháp luật
tạp chí luật học - 41

b. Từ khi BLHS đợc ban hành

Tại khoản 5 Điều 44 BLHS (cha sửa
đổi, bổ sung) về điều kiện thử thách của
án treo, nhà làm luật chỉ trực tiếp quy
định sự vi phạm nghĩa vụ pháp lí phát
sinh trong thời gian thử thách là: "Nếu
trong thời gian thử thách, ngời bị án
treo phạm tội mới và bị xử phạt tù".Với
quy định này có thể nhận thấy điều kiện
thử thách của án treo là ngời bị án treo
không đợc phạm tội mới và bị xử phạt tù
trong thời gian thử thách.
Nh vậy, trong thời kì này, BLHS quy
định không phạm tội mới và bị xử phạt tù,
không phân biệt tội phạm mới này cố ý
hay vô ý, phạm tội mới cùng tính chất
hay không cùng tính chất, tội mới nặng
hay nhẹ nh hớng dẫn của Tòa án nhân
dân tối cao trớc đây. Tuy vậy, việc quy
định trên cũng cha đáp ứng với yêu cầu
nâng cao tác dụng giáo dục và phòng
ngừa của án treo. Điều này đòi hỏi phải
sửa đổi điều kiện thử thách của án treo
trong BLHS cho phù hợp hơn với đòi hỏi
thực tế khách quan của cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS do Quốc hội thông qua ngày
28/12/1989 đ sửa đổi khoản 5 Điều 44
nh sau: "Nếu trong thời gian thử thách,
ngời bị án treo phạm tội mới do vô ý và

bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì
tòa án bắt buộc phải chấp hành hình phạt
của bản án trớc" Quy định này có
hiệu lực từ ngày 2/1/1990 cho đến nay.
Có thể nhận thấy rằng điều kiện thử
thách đối với ngời đợc hởng án treo
đợc quy định trong BLHS từ ngày
2/1/1990 trở đi là không đợc phạm tội
mới do cố ý; đối với trờng hợp phạm tội
mới do vô ý thì phải không bị xử phạt tù.
Nếu không vi phạm điều kiện này, ngời
bị kết án đợc miễn vĩnh viễn việc chấp
hành hình phạt tù của bản án đợc hởng
án treo.
So với điều kiện thử thách án treo
trớc khi ban hành BLHS thì phạm vi
nghĩa vụ pháp lí có tính răn đe ngời
phạm tội đợc quy định tại Điều 10 Sắc
lệnh số 21/SL ngày 14/2/1946 nghiêm
khắc hơn hay nói cách khác là đối tợng
áp dụng rộng hơn so với quy định tại
khoản 5 Điều 44 BLHS cha đợc sửa
đổi. Nếu so sánh khoản 5 Điều 44 BLHS
(cha đợc sửa đổi bổ sung) và khoản 5
Điều 44 BLHS đ đợc bổ sung chúng ta
dễ nhận thấy rằng quy định tại khoản 5
Điều 44 BLHS đ đợc sửa đổi nghiêm
khắc hơn hay nói cách khác, đối tợng áp
dụng rộng hơn. Tuy nhiên, xét yêu cầu
của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa

tội phạm thì quy định điều kiện thử thách
của án treo hiện nay cha thật đầy đủ. Do
vậy, chúng tôi đề nghị cần phải sửa lại
khoản 5 Điều 44 BLHS bằng việc xóa
cụm từ do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm
tội mới do cố ý. Ngoài ra cũng cần quy
định thêm nghĩa vụ pháp lí bắt buộc khác.
Bởi lẽ, ý nghĩa thiết thực nhất đối với sự
cải tạo của ngời bị án treo trong thời
gian thử thách là ngoài việc tuân thủ các
nghĩa vụ pháp lí có tính răn đe, quy định
tại khoản 5 Điều 44 BLHS thì cũng nên
có nghĩa vụ pháp lí buộc phải thực hiện
đợc đặt ra trong BLHS.
Nghĩa vụ này vừa đảm bảo cho bị cáo
tự cải tạo trong môi trờng x hội, vừa
phải chịu sự giám sát, sự tác động giáo
dục của cộng đồng. Trên cơ sở tham khảo
luật hình sự một số nớc, chúng tôi xin đề
xuất nên có thêm một khoản tại Điều 44
BLHS quy định các nghĩa vụ pháp lí phải
thực hiện trong thời gian thử thách này,
bao gồm:
- Phải tuân thủ các biện pháp giám sát
của cơ quan nhà nớc hoặc tổ chức x hội
đợc tòa án giao trách nhiệm này;


Xây dựng pháp luật
42 - tạp chí luật học


- Phải c trú ở một nơi xác định;
- Phải thực hiện nghĩa vụ lao động
hoặc làm việc theo nghề nghiệp của mình
hoặc theo học nghề và phải chứng minh
trớc cơ quan hoặc tổ chức có trách
nhiệm giám sát, giáo dục về việc thực
hiện nghĩa vụ này một cách tích cực, hợp
pháp;
- Phải chứng minh đ đóng góp vào
trách nhiệm gia đình hoặc làm đầy đủ các
nghĩa vụ cấp dỡng (nếu có);
- Phải chứng minh rằng mình đ bồi
thờng những thiệt hại theo quyết định
trong bản án xét xử về hình sự hay bản án
hoặc quyết định dân sự khác (nếu có);
- Phải chứng minh rằng mình đ thanh
toán các khoản nợ với nhà nớc (nếu có);
- Phải báo trớc cho cơ quan hoặc tổ
chức đợc giao quyền giám sát, giáo dục
về những thay đổi chỗ ở hoặc nghề
nghiệp của mình;
- Cấm tham gia vào các hoạt động vi
phạm trật tự công cộng, các hoạt động tệ
nạn x hội.
Đồng thời cần quy định thêm: Trờng
hợp ngời bị án treo vi phạm có hệ thống
những nghĩa vụ pháp lí phải thực hiện
trong thời gian thử thách thì theo đề nghị
của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám

sát, giáo dục, tòa án ra quyết định hủy
biện pháp áp dụng án treo và buộc ngời
này phải chấp hành toàn bộ hình phạt tù
đ tuyên cho hởng án treo trớc đây.
2. Hậu quả pháp lí của việc vi phạm
điều kiện thử thách của án treo
Khi ngời bị kết án tù đợc hởng án
treo vi phạm điều kiện do pháp luật quy
định trong thời gian thử thách, họ phải
chịu hậu quả pháp lí bất lợi cho mình.
Những hậu quả pháp lí cụ thể, trong từng
thời kì, đợc pháp luật hình sự của Nhà
nớc ta quy định cũng không giống nhau.
a. Thời kì trớc khi có BLHS
Trớc khi có BLHS, hậu quả pháp lí
đối với ngời bị phạt tù đợc hởng án
treo vi phạm điều kiện thử thách đợc
quy định tại Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL
ngày 14/2/1946: "Nếu trong 5 năm ấy, tội
nhân bị kết án một lần nữa trớc một tòa
án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi
hành". Cụ thể: Khi tội phạm mới bị đa
ra xét xử, không bị phạt tù, ngời phạm
tội đồng thời phải chấp hành hai bản án
(trờng hợp tội phạm mới có hình phạt
nhẹ hơn hình phạt tù). Nếu tội phạm mới
bị xử phạt tù thì phải tổng hợp với hình
phạt của bản án cũ.
Đến khi có hớng dẫn tại Thông t số
2308/NCPL ngày 01/12/1961 thì hậu quả

pháp lí của ngời phạm tội đợc hởng
án treo vi phạm điều kiện thử thách của
án treo đ có những thay đổi căn bản:
"Nếu trong thời gian thử thách, ngời
đợc hởng án treo lại phạm tội mới cùng
tính chất hoặc nặng hơn tội cũ, tòa án sẽ
cộng một phần hay toàn bộ hình phạt cũ
vào hình phạt mới để chấp hành"
(3)
.
Quan niệm trong văn bản hớng dẫn
này là nếu ngời bị phạt tù nhng đợc
hởng án treo trong thời gian thử thách
phạm tội mới cùng tính chất hoặc phạm
tội mới nặng hơn, chứng tỏ là kẻ phạm tội
mặc dù đ đợc giáo dục nhng không
tiếp thu sự giáo dục, không chịu cải tạo
để trở thành ngời lơng thiện. Do đó,
trong những trờng hợp này, tòa án mới
bắt phải chấp hành một phần hoặc toàn
bộ hình phạt của bản án cũ. Quyết định
bắt chấp hành một phần hay toàn bộ hình
phạt của bản án cũ là tùy thuộc từng
trờng hợp "linh hoạt" của tòa án. Tuy
nhiên, đối với can phạm rõ ràng là không
chịu sửa chữa, cố tình coi thờng pháp
luật thì phải cộng toàn bộ án cũ vào án
mới.
Đối chiếu với Sắc lệnh số 21/SL ngày
14/2/1946 thì sự hớng dẫn trên của Tòa



Xây dựng pháp luật
tạp chí luật học - 43

án nhân dân tối cao là không phù hợp với
quy định về hậu quả pháp lí của việc
phạm tội trong thời gian thử thách của án
treo tại Điều 10 của Sắc lệnh này. Tuy
vậy, văn bản hớng dẫn này vẫn tồn tại
trong suốt quá trình xét xử của tòa án
trớc khi BLHS năm 1985 đợc ban
hành. Chúng tôi cho rằng, Điều 10 Sắc
lệnh số 21/SL quy định bắt chấp hành
toàn bộ hình phạt của bản án cũ khi ngời
bị án treo phạm bất kì tội mới nào trong
thời gian thử thách là phù hợp với yêu cầu
phòng ngừa tội phạm của chế định án treo
trong thời gian đó.
b. Từ khi BLHS đợc ban hành
Từ ngày 1/1/1986 (ngày BLHS năm
1985 có hiệu lực) đến ngày 2/1/1990
(ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS đợc Quốc hội nớc Cộng hòa
x hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 28/12/1989 đợc công bố) thì: "Nếu
trong thời gian thử thách, ngời bị án
treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì tòa
án quyết định buộc phải chấp hành hình
phạt của bản án trớc và tổng hợp với

hình phạt của bản án mới theo quy định ở
khoản 2 Điều 42" (khoản 5 Điều 44
BLHS cha đợc sửa đổi).
Sự vi phạm điều kiện thử thách của án
treo dẫn đến hậu quả pháp lí là ngời bị
kết án phải chấp hành toàn bộ hình phạt
của bản án cũ và tổng hợp với hình phạt
của bản án mới theo nguyên tắc tổng hợp
hình phạt khi có nhiều bản án tại khoản 2
Điều 42 BLHS.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 42
BLHS thì: "Khi xét xử một ngời đang
phải chấp hành một bản án mà lại phạm
tội mới, tòa án quyết định hình phạt đối
với tội mới, sau đó cộng với phần hình
phạt cha chấp hành của bản án trớc
rồi quyết định hình phạt chung. Hình
phạt chung không đợc vợt mức cao
nhất mà luật quy định cho loại hình phạt
đ tuyên". Tuy nhiên, trong thực tiễn xét
xử ở các cấp tòa án, việc hiểu và vận
dụng quy định này cha thống nhất,
nhiều khi tổng hợp cha đúng với quy
định của pháp luật, nh áp dụng cách
cộng "thu hút" để quyết định chỉ bắt bị
cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản
án mới.
Từ tình hình thực tế đó, Tòa án nhân
dân tối cao đ ra Thông t số 01/NCPL
ngày 6/4/1988 hớng dẫn bổ sung về án

treo theo Điều 44 BLHS. Về phần này,
Thông t số 01/NCPL đ hớng dẫn cụ
thể nh sau: "Những trờng hợp tòa án
đ tổng hợp hình phạt của hai bản án (án
treo phải chấp hành hình phạt tù và án tù
mới) nhng chỉ bắt chấp hành mức án
của bản án mới trong khi hình phạt chung
không vợt mức cao nhất mà luật quy
định cho loại hình phạt đ tuyên là trái
pháp luật và làm cho án treo mất hết ý
nghĩa của nó. Vì vậy, phải cộng toàn bộ
mức hình phạt của hai bản án và quyết
định hình phạt chung theo tinh thần của
khoản 5 Điều 44 và khoản 2 Điều 42
BLHS. Nếu bị cáo đ bị tam giam thì thời
gian tạm giam của tội cũ cũng nh thời
gian tạm giam của tội mới đợc trừ vào
thời gian phải chấp hành hình phạt chung
của hai bản án"
(4)
.
Chúng tôi cho rằng văn bản hớng
dẫn trên đây vẫn có điểm cha phù hợp
với quy định tại khoản 2 Điều 42 BLHS
vì cha có sự phân biệt đợc thời gian
tạm giam của bản án cũ với thời gian tạm
giam của bản án đối với tội mới. Cho nên,
quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao
lại cho là đều "đợc trừ vào thời gian
phải chấp hành hình phạt chung của hai

bản án"
(5)
. Vấn đề này lại đợc khẳng
định tiếp tại Nghị quyết số 01/HĐTP


Xây dựng pháp luật
44 - tạp chí luật học

ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao là: "Nếu họ
đ bị tạm giam thì thời gian tạm giam về
tội cũ cũng nh thời gian tạm giam về tội
mới đợc khấu trừ vào thời hạn chấp
hành hình phạt tù". Theo quy định tại
khoản 2 Điều 42 BLHS thì chỉ lấy phần
hình phạt cha chấp hành của bản án cũ
để tổng hợp với hình phạt của bản án đối
với tội mới. Nh vậy, chỉ khi bị cáo đ bị
tạm giam đối với tội mới thì thời gian tạm
giam này mới đợc trừ vào thời gian chấp
hành hình phạt chung (hình phạt tổng
hợp), còn trờng hợp thời gian tạm giam
của tội cũ phải đợc trừ vào hình phạt đối
với bản án của tội cũ trớc khi tổng hợp.
Thực tiễn xét xử của tòa án trong
nhiều năm qua cũng cho thấy có nhiều
trờng hợp ngời phạm nhiều tội nhng
tội phạm thực hiện sau lại bị xét xử trớc,
tội phạm đợc thực hiện trớc lại bị xét

xử sau và khi xét xử lần sau, tòa án có thể
biết hoặc không biết có bản trớc. Theo
quy định tại Điều 44 BLHS, trờng hợp
này không phải là vi phạm điều kiện thử
thách của án treo mặc dù bản án xét xử
lần sau trong thời gian thử thách của án
treo (trờng hợp bản án xử lần trớc đ
cho hởng án treo). Trờng hợp này cũng
đ đợc hớng dẫn tại Nghị quyết số
01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao với
tinh thần là: "Nếu trong thời gian thử
thách, họ bị phạt tù về tội đ thực hiện
trớc khi bị phạt tù và đợc hởng án
treo thì tùy trờng hợp tòa án có thể cho
hoặc không cho hởng án treo một lần
nữa Nếu cho ngời bị kết án đợc
hởng án treo một lần nữa thì tòa án tổng
hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn
định thời gian thử thách chung của hai
bản án. Trong trờng hợp này cần chú ý
là chỉ khi hình phạt chung của hai bản án
không vợt quá 5 năm tù (hiện nay đ sửa
đổi không quá 3 năm tù - TG) thì mới cho
hởng án treo và thời gian thử thách
chung không dới 1 năm, không đợc quá
5 năm"
(6)
.
Với những hớng dẫn trên, chúng tôi

thấy rằng khi một ngời bị tòa án xét xử
lần sau về tội phạm thực hiện trớc và có
biết bản án xét xử lần trớc thì không thể
cho ngời đó hởng án treo một lần nữa
vì với đặc điểm phạm tội này, theo yêu
cầu phòng ngừa, tòa án coi đây là tình tiết
đặc biệt xấu của nhân thân ngời phạm
tội. Vì nh vậy sẽ làm cho bản án có sức
thuyết phục hơn và chế định án treo mới
thể hiện đợc tính nghiêm túc mà vẫn
không mất đi tinh thần nhân đạo x hội
chủ nghĩa.
Tóm lại, điều kiện thử thách của án
treo và hậu quả pháp lí của ngời bị án
treo vi phạm điều kiện này trong thời gian
thử thách có ý nghĩa thiết thực răn đe và
cải tạo ngời phạm tội, khơi dậy ở họ ý
chí quyết tâm hối cải thành ngời lơng
thiện. Để làm đợc điều đó, đối chiếu với
quy định của pháp luật hiện nay còn có
nhiều điểm cha phù hợp, cần phải đợc
xem xét lại một cách nghiêm túc trong
lần sửa đổi này./.

(1).Xem: Hệ thống hóa luật lệ về hình sự; tập 1,
TANDTC 1975, tr.119.
(2).Xem: Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Sđd, tr.127.
(3).Xem: Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Sđd, tr.125.
(4).Xem: Hệ thống các văn bản cần thiết cho công tác
kiểm sát, tập 1 năm 1991, tr.230 - 231.

(5).Xem: Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Sđd, tr.26.
(6).Xem: Hệ thống hóa các văn bản cần thiết cho công
tác kiểm sát, Sđd, tr.253.

×