Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo " Quyền lực nhà nước và việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.9 KB, 8 trang )




góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 13




Nguyễn Văn Năm *
uyền lực, quyền lực nhà nớc là vấn
đề vô cùng phức tạp của chính trị học
và khoa học pháp lí. Để góp phần
nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền lực
nhà nớc và góp ý cho việc sửa đổi, bổ sung
một số điều của Hiến pháp năm 1992, bài
viết này trình bày một số hiểu biết của tác
giả về quyền lực nhà nớc và đề xuất một số
kiến nghị về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp 1992 có liên quan đến vấn đề
này.
Xuất phát từ cách hiểu về quyền lực nói
chung,
(1)
chúng ta có thể hiểu quyền lực nhà
nớc là khả năng của nhà nớc có thể buộc
các cá nhân, tổ chức trong x hội phải phục
tùng. Cũng nh các loại quyền lực khác,
quyền lực nhà nớc luôn tồn tại trong những
mối quan hệ xác định: Quan hệ giữa nhà
nớc với các cá nhân, tổ chức trong x hội, ở


đó các cá nhân, tổ chức phải phục tùng nhà
nớc. "Khả năng" ở đây đợc hiểu là sức
mạnh bạo lực của nhà nớc, sức mạnh vật
chất, uy tín, vị thế trong x hội hay khả năng
vận động quần chúng của nó Tuy nhiên, sự
phục tùng nhà nớc không phải khi nào cũng
chỉ dựa trên những khả năng từ phía nhà
nớc. Trong nhiều trờng hợp, sự phục tùng
nhà nớc có đợc còn bởi những nguyên
nhân từ chính các cá nhân, tổ chức trong x
hội, chẳng hạn tâm lí lo lắng, sợ hi trớc
những hiện tợng bạo lực, tội phạm, mong
muốn đợc nhà nớc chở che; sự kém hiểu
biết Chính vì vậy, trong các x hội trớc,
lợi dụng sự kém hiểu biết và lòng tin ngây
thơ của quần chúng, các lực lợng cầm
quyền đ phủ lên trên nhà nớc sức mạnh
siêu nhiên, vô hình - sức mạnh của thợng
đế. Để rồi, sự phục tùng của ngời dân
không đơn thuần là phục tùng nhà nớc mà
là phục tùng đấng tối cao, phục tùng ngời
bảo vệ, che chở cho họ.
Vấn đề quyền lực nhà nớc thuộc về ai
cũng còn có nhiều tranh luận. Theo chúng
tôi, cần có sự phân biệt rõ hai khái niệm
quyền lực nhà nớc và quyền lực nhân dân.
Quyền lực nhà nớc chỉ là cách nói tắt của
nhóm từ "quyền lực của nhà nớc". Trong
mối quan hệ giữa nhà nớc với các cá nhân,
tổ chức trong x hội thì nhà nớc là chủ thể

của quyền lực - quyền lực nhà nớc còn các
cá nhân, tổ chức là đối tợng của quyền lực
ấy. Tuy nhiên, trong x hội, đặc biệt trong x
hội x hội chủ nghĩa không chỉ tồn tại mối
quan hệ một chiều nh vậy. Một mặt, các cá
nhân, tổ chức phải phục tùng nhà nớc nhng
mặt khác nhà nớc cũng phải phục tùng nhân
dân. Nhân dân có thể để chính quyền nhà
nớc tồn tại, nhân dân cũng có thể phá bỏ nó
đi. Khi toàn thể nhân dân đ thể hiện sức
mạnh của mình thì nhà nớc không thể
Q

* Giảng viên Khoa hành chính - nhà nớc
Trờng đại học luật Hà Nội



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
14 - Tạp chí luật học

không phục tùng. Trong chiều quan hệ ngợc
lại này, nhân dân lại là chủ thể quyền lực,
nhà nớc lại trở thành đối tợng quyền lực.
Quyền lực này không phải là quyền lực nhà
nớc mà là quyền lực nhân dân. Cho dù nhân
dân đợc hiểu theo góc độ nào thì quyền lực
nhân dân vẫn luôn tồn tại. Nó tồn tại trong
mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nớc và
các tổ chức khác của họ, trong mối quan hệ

giữa cộng đồng nhân dân với từng thành viên
trong x hội. Quyền lực nhân dân (quyền lực
của nhân dân) đợc hiểu là khả năng của
nhân dân có thể buộc nhà nớc, các tổ chức
khác của nhân dân hay mỗi thành viên của
cộng đồng phải phục tùng. "Khả năng" ấy
của nhân dân là vốn có, đó là sức mạnh vật
chất, sức mạnh bạo lực của nhân dân, sức
mạnh của d luận x hội Vấn đề là ở chỗ,
nhân dân có thực hiện đợc quyền lực của
mình hay không. Điều này phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố. Trong x hội dân chủ thì quyền
lực nhân dân có điều kiện để phát huy và
giữa quyền lực nhà nớc với quyền lực nhân
dân có mối quan hệ tơng tác. Do vậy, quan
hệ giữa nhà nớc với nhân dân không đơn
thuần là quan hệ mệnh lệnh, phục tùng một
chiều. Trong quan hệ giữa nhà nớc với các
cá nhân, tổ chức trong x hội thì các chủ thể
này phải phục tùng nhà nớc, ở đó tồn tại
quyền lực nhà nớc. Trong quan hệ giữa
nhân dân (với t cách là chủ thể của quyền
lực chung) với nhà nớc thì nhà nớc phải
phục tùng nhân dân, ở đó tồn tại quyền lực
nhân dân.
Trong x hội x hội chủ nghĩa, nhân dân
là ngời chủ của x hội, có quyền quyết định
mọi vấn đề của x hội. Tuy nhiên, không
phải mọi vấn đề của đời sống x hội đều có
thể đa ra trớc toàn thể cộng đồng để xem

xét, quyết định. Cho nên, nhân dân chỉ trực
tiếp quyết định những vấn đề quan trọng bậc
nhất của x hội còn những công việc khác
nhân dân giao cho những chủ thể khác (thiết
chế, công cụ) thay mặt họ thực hiện. Trong
đó, nhà nớc đợc xác định là công cụ quan
trọng nhất, hữu hiệu nhất. Nhà nớc với t
cách là bộ máy quyền lực, do nhân dân tổ
chức, thay mặt nhân dân đứng ra tổ chức và
quản lí đời sống cộng đồng. Có thể xem đây
nh sự uỷ quyền của nhân dân cho nhà nớc,
nhân dân uỷ quyền cho nhà nớc tổ chức và
quản lí mọi mặt đời sống x hội. Tất nhiên,
nhà nớc phải có đầy đủ quyền lực. Song,
quyền lực nhà nớc xuất phát từ nhân dân, do
nhân dân tạo ra. Chính nhân dân chứ không
phải ai khác là ngời tạo ra cho nhà nớc
tiềm lực kinh tế thông qua quá trình lao động
sản xuất của họ. Sức mạnh cỡng chế mà nhà
nớc có trong tay cũng từ nhân dân mà ra.
Quân đội, cảnh sát, toà án cũng là những
con ngời từ các tầng lớp nhân dân mà hợp
thành. Các trang thiết bị vũ khí từ thô sơ đến
hiện đại suy cho cùng cũng đều là thành quả
của nhân dân. Nói cách khác, quyền lực nhà
nớc bắt nguồn từ nhân dân, xuất phát từ
nhân dân chứ không phải cái vốn có của nhà
nớc. Điều này không chỉ đúng đối với nhà
nớc x hội chủ nghĩa mà cũng luôn đúng
với mọi nhà nớc khác trên thế giới. Nhân

dân tạo ra cho nhà nớc quyền lực có thể
xem tơng tự nh trờng hợp ngời thầy
(theo nghĩa rộng) tạo ra cho học trò tri thức.
Tri thức của ngời học trò phải đợc coi là
của ngời đó chứ không phải của ngời thầy
nhng nếu không có những ngời thầy thì
ngời học trò cũng không thể có đủ tri thức.



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 15

Nhà nớc x hội chủ nghĩa với t cách thừa
ủy quyền của nhân dân, do vậy ý chí của nhà
nớc phải phù hợp với ý chí nhân dân. Tức là
nhà nớc không đợc thể hiện ý chí của
mình một cách chủ quan, đơn phơng, tùy
tiện mà một mặt, nhà nớc luôn tìm cách
kiểm tra xem ý chí của mình đợc thể hiện ra
có phù hợp với ý chí của nhân dân hay
không, mặt khác, nhân dân cũng thờng
xuyên kiểm soát việc thể hiện và thực hiện ý
chí của nhà nớc. Chính vì thế, khi có vấn đề
gì phức tạp, nhà nớc thấy tự mình không thể
quyết định đợc, nhà nớc phải tìm cách
trng cầu ý dân. Bên cạnh đó, trong bộ máy
nhà nớc luôn có những cơ quan đại biểu của
nhân dân, thay mặt cho nhân dân để kiểm
tra, giám sát hoạt động của nhà nớc.

Quyền lực ấy có thể đợc sử dụng để tổ
chức và quản lí đời sống x hội, phát triển
kinh tế, văn hóa, giáo dục, bảo vệ an ninh,
quốc phòng đem lại lợi ích cho toàn thể
nhân dân nh trong nhà nớc x hội chủ
nghĩa. Quyền lực ấy cũng có thể chỉ phục vụ
lợi ích của một bộ phận nhỏ dân c trong x
hội, thậm chí để bảo vệ quyền lợi của thiểu
số, nó còn trấn áp một cách đẫm máu những
ngời nuôi dỡng nó, tạo ra cho nó quyền lực
nh trong các nhà nớc chủ nô, phong kiến
Đó chính là bản chất giai cấp của nhà nớc.
Tóm lại, nhân dân là chủ thể của quyền
lực nhân dân, khi thực hiện quyền lực của
mình, nhân dân dùng nhà nớc làm công cụ
thay mặt nhân dân tổ chức và quản lí đời
sống x hội. Muốn thực hiện đợc nhiệm vụ
đó, nhà nớc phải có quyền lực, đó là quyền
lực nhà nớc, nhà nớc là chủ thể quyền lực
ấy. Tuy nhiên, trong mọi trờng hợp, quyền
lực nhân dân luôn là tối thợng.
Vấn đề khác rất quan trọng đó là cơ chế
vận hành quyền lực nhà nớc; cách thức tổ
chức quyền lực nhà nớc sẽ quyết định hiệu
lực, hiệu quả của nó. Nhìn chung quyền lực
đợc vận hành theo cơ chế là: Chủ thể quyền
lực thể hiện ý chí, đối tợng quyền lực, bằng
hành vi của mình thực hiện nội dung ý chí
ấy. Chúng ta cũng biết rằng thông thờng ý
chí nhà nớc đợc thể hiện dới dạng các

quy tắc xử sự chung, nó đợc đặt ra không
phải cho cá nhân, tổ chức cụ thể nào mà cho
loại đối tợng nhất định, đợc áp dụng trên
địa bàn tơng đối rộng, trong thời gian tơng
đối lâu dài, vì vậy, nó thờng phải khái quát.
Tuy nhiên, do sự đa dạng về chủ thể, sự đa
dạng về nhu cầu, lợi ích, điều kiện, hoàn
cảnh sống mà hành vi của các chủ thể,
trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định
không hoàn toàn giống nhau. Việc không
thực hiện, không thực hiện đợc hoặc thực
hiện không đúng nội dung ý chí nhà nớc là
điều khó tránh khỏi. Chính vì thế, để đảm
bảo cho các đối tợng có thể thực hiện đợc,
thực hiện một cách chính xác, thống nhất nội
dung ý chí nhà nớc, cơ chế vận hành quyền
lực nhà nớc, xét từ phía nhà nớc, phải bao
gồm các khâu:
+ Thể hiện ý chí nhà nớc;
+ Cụ thể hoá, chi tiết hoá và có thể còn
phải cá biệt hoá nội dung ý chí đó vào các
trờng hợp cụ thể (gọi chung là việc tổ chức
thực hiện);
+ Xử lí vi phạm xảy ra trong việc thực
hiện ý chí đó.
Khoa học pháp lí gọi ba khâu này tơng
ứng là lập pháp, hành pháp, t pháp. Trong
các nhà nớc chủ nô, phong kiến, tất cả các
khâu này đều do nhà vua thực hiện. Tuy vậy,




góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
16 - Tạp chí luật học

nhà vua không thể làm đợc tất cả mọi công
việc mà vua phải lập ra các cơ quan nhà nớc
từ trung ơng xuống địa phơng. Tuy nhiên,
các cơ quan này đơn thuần chỉ là cơ quan
giúp việc cho nhà vua, phụ thuộc vào nhà
vua. Cách tổ chức quyền lực nh thế rất dễ
dẫn đến chuyên quyền, độc đoán. ở khía
cạnh khác, nó lại thúc đẩy ngời ta sử dụng
bạo lực mạnh hơn để chống đối.
(2)
X hội vì
thế càng thêm rối loạn, con ngời vì thế
không thể có đợc tự do. Để ngăn chặn nền
độc tài, chuyên chế phong kiến, ngời ta đi
tìm cách thức khác để tổ chức, vận hành
quyền lực, thuyết tam quyền phân lập ra đời
trong bối cảnh đó.
Theo Montesquyeu, nếu cả lập pháp,
hành pháp, t pháp đều nằm trong tay nhà
vua, tất yếu sẽ nảy sinh sự lạm quyền,
chuyên chế, độc đoán; nếu nh lập pháp,
hành pháp nằm trong tay một ngời thì sẽ
không có tự do; nếu nh t pháp gắn với lập
pháp thì cuộc sống và tự do của con ngời sẽ
đặt dới sự tuỳ tiện; nếu nh t pháp gắn với

hành pháp thì quan toà sẽ trở thành kẻ áp
bức.
(3)
Do vậy, muốn chống chuyên quyền,
độc đoán, muốn có tự do, bình đẳng thì lập
pháp, hành pháp, t pháp, phải thuộc về ba
cơ quan khác nhau, nói cách khác, phải do ba
cơ quan khác nhau đảm nhiệm. Cụ thể là việc
thể hiện ý chí nhà nớc (lập pháp) nên giao
cho nghị viện; việc tổ chức thực hiện ý chí
(hành pháp) giao cho chính phủ; việc xử lí vi
phạm trong việc thực hiện ý chí nhà nớc (t
pháp) giao cho toà án. Để ngăn chặn khả
năng cơ quan nào đó có thể thao túng, thâu
tóm quyền lực vào tay mình, Montesquyeu
cho rằng giữa các cơ quan đó phải có sự
kiềm chế, đối trọng, chế ớc lẫn nhau.
Nh vậy, theo nhận thức của chúng tôi,
sự phân biệt lập pháp, hành pháp, t pháp,
theo t tởng Montesquyeu hoàn toàn không
phải là sự phân chia quyền lực, đó chỉ là sự
phân công lao động quyền lực là phân chia
các mắt, khâu trong quá trình thực thi quyền
lực nhà nớc. Trong đó mỗi cơ quan chuyên
đảm nhận một mắt, khâu nào đó, đảm bảo
cho quyền lực nhà nớc đợc thực thi có hiệu
quả nhất. Trở lại khái niệm quyền lực, chúng
ta thấy quyền lực nói chung, quyền lực nhà
nớc nói riêng là những khái niệm rất trừu
tợng, phải bằng t duy trừu tợng mới nhận

thức đợc. Nếu hiểu phân chia tức là chia ra
thành những phần, những bộ phận thì quyền
lực nhà nớc hay quyền lực nói chung không
thể phân chia đợc. Không thể đem chia sức
mạnh, tình cảm, tri thức, lòng tin thành
những bộ phận gì bởi chúng là những thứ
không thể phân chia đợc. Chính vì vậy,
không thể nói quyền lực nhà nớc đợc phân
chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp,
quyền t pháp. Ngời ta chỉ có thể phân chia
các mắt, khâu, các giai đoạn trong quá trình
thực thi quyền lực nhà nớc. Nhng khi đ
nói quyền lực nhà nớc là không thể phân
chia đợc thì cũng không thể nói quyền lực
nhà nớc là tập trung một cách tuyệt đối
đợc (nếu hiểu tập trung theo nghĩa đối lập
với phân chia) Nh vậy, thuộc tính vốn có
của quyền lực nói chung, quyền lực nhà nớc
nói riêng là không thể phân chia. Chỉ có sự
phân chia các mắt, khâu trong quá trình thực
hiện quyền lực nhà nớc mà thôi.
Do đó, khi nói quyền lực nhà nớc là tập
trung, thống nhất phải hiểu theo nghĩa đối
lập với phân tán. ở nghĩa này tập trung
đợc hiểu là dồn vào một chỗ, một nơi còn



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 17


thống nhất đợc hiểu là quy về một mối.
Từ đó, tập trung, thống nhất quyền lực nhà
nớc phải hiểu là tập trung vào trung ơng,
quy về trung ơng chứ không cát cứ, phân
tán, tản mạn. Sức mạnh bạo lực của nhà
nớc, tiềm lực vật chất hay khả năng tác
động về mặt tinh thần của nó đều tập trung
thống nhất ở trung ơng. Địa phơng không
có quân đội, tài chính, thuế khoá, đồng tiền
riêng
Từ tất cả những phân tích trên đây, liên
hệ với Việt Nam thấy có một số vấn đề cũng
nên đợc trao đổi:
Thứ nhất, từ cách hiểu về quyền lực nhà
nớc, quyền lực nhân dân, chúng ta thấy
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: Tất
cả quyền lực nhà nớc thuộc về nhân dân
nếu hiểu một cách trực tiếp thì cha chính
xác mà phải gắn nó với cơ chế uỷ quyền của
nhân dân. Một số tác giả đa ra phơng án
sửa đổi là: Tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân.
(4)
Nh trên đ phân tích, quyền lực nhà
nớc thuộc về nhà nớc, quyền lực nhân dân
thuộc về nhân dân, quyền lực của chủ thể
nào thuộc về chủ thể đó. Nói cách khác,
không phải tất cả quyền lực trong x hội đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân chỉ là chủ thể

của một bộ phận quyền lực trong x hội -
quyền lực nhân dân. Tuy nhiên, quyền lực
nhân dân luôn luôn là tối cao, biểu hiện ở
chỗ nhân dân là ngời quyết định cao nhất
các vấn đề của đất nớc. Chính vì vậy, Điều
2 Hiến pháp năm 1992 nên đợc sửa lại là:
Quyền lực tối cao trong x hội thuộc về
nhân dân.
Thứ hai, quy định nh Điều 6 Hiến pháp
năm 1992: Nhân dân sử dụng quyền lực
nhà nớc thông qua Quốc hội và hội đồng
nhân dân các cấp cũng cần phải bàn thêm.
Nh đ nói rõ, quyền lực nhà nớc đợc thực
thi bằng bộ máy nhà nớc, quyền lực nhà
nớc là quyền lực chỉ do các cơ quan nhà
nớc thực hiện;
(5)
quyền lực nhân dân đợc
thực hiện bằng nhiều hình thức, thông qua
nhiều công cụ khác nhau, trong đó chủ yếu là
thông qua các cơ quan đại biểu nhân dân. Vì
vậy, Điều 6 Hiến pháp năm 1992 nên đợc
sửa lại là: Nhân dân thực hiện quyền lực của
mình chủ yếu thông qua Quốc hội và hội
đồng nhân dân các cấp.
Thứ ba, quan niệm nh trên lại dẫn đến
vấn đề cần đợc làm sáng tỏ đó là, Quốc hội,
hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nớc hay cơ quan quyền lực nhân dân?
Nhiều ý kiến cho rằng, Hiến pháp không nên

quy định Quốc hội, hội đồng nhân dân là
những cơ quan quyền lực nhà nớc, bởi lẽ,
quyền lực nhà nớc đợc thực thi bằng cả bộ
máy nhà nớc chứ không chỉ bằng Quốc hội,
hội đồng nhân dân các cấp; mặt khác, quy
định hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nớc ở địa phơng là mâu thuẫn với
nguyên tắc quyền lực nhà nớc là tập trung
thống nhất.
Cùng với việc khẳng định quyền lực nhân
dân là tối cao, chúng ta có cơ chế để nhân
dân thực hiện quyền lực của mình. Với t
cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân, Quốc hội thay mặt nhân dân xây dựng
Hiến pháp; tổ chức ra các cơ quan tối cao của
Nhà nớc và giám sát tối cao đối với hoạt
động của cả bộ máy nhà nớc. Với t cách là
cơ quan đại biểu của nhân dân địa phơng,
hội đồng nhân dân căn cứ vào Hiến pháp,
quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành
nghiêm chỉnh Hiến pháp; tổ chức ra uỷ ban



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
18 - Tạp chí luật học

nhân dân; giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nớc ở địa phơng Nh vậy,
Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp là

những cơ quan của nhân dân, thay mặt nhân
dân, thực hiện quyền lực nhân dân. Đồng
thời, với t cách là cơ quan nhà nớc, Quốc
hội thay mặt Nhà nớc, thể hiện ý chí Nhà
nớc: Lập pháp, quyết định những chính
sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - x hội, quốc phòng, an ninh của đất
nớc; hội đồng nhân dân căn cứ vào những
quy định của cơ quan nhà nớc cấp trên
quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - x
hội và ngân sách, các biện pháp bảo đảm
quốc phòng an ninh ở địa phơng, bảo đảm
ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân
Nói cách khác, Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp mặc dù là những cơ quan đại biểu
của nhân dân, do nhân dân bầu ra nhng lại
thực hiện quyền lực nhà nớc, bởi vậy, Quốc
hội và hội đồng nhân dân phải đợc coi là
những cơ quan quyền lực nhà nớc. Sự phân
tích trên đây cho thấy, Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp vừa là cơ quan quyền lực
nhân dân, vừa là cơ quan quyền lực nhà
nớc. Tuy nhiên, việc Quốc hội, hội đồng
nhân dân thực hiện cả hai loại nhiệm vụ đó
dẫn đến điều chúng ta thờng nói là ai sẽ là
ngời kiểm tra, giám sát Quốc hội và hội
đồng nhân dân. Hoạt động của Quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp vì thế khó có thể đạt
hiệu quả cao. Đây là vấn đề lớn và vô cùng
phức tạp, vì vậy, cần thiết phải đợc suy nghĩ

một cách thực sự sâu sắc. Nghiên cứu kinh
nghiệm tổ chức Quốc hội cho thấy, Hiến
pháp sửa đổi chỉ nên quy định Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nớc nh các Hiến pháp
năm 1946, 1959 đ từng quy định. Với t
cách đó, Quốc hội thay mặt Nhà nớc thực
hiện chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nớc.
Đồng thời, trong bộ máy nhà nớc cần tổ
chức ra cơ quan mới bên cạnh Quốc hội, cơ
quan này có chức năng lập hiến, tổ chức ra
các cơ quan tối cao của nhà nớc và giám sát
tối cao hoạt động của cả bộ máy nhà nớc,
kể cả Quốc hội. Thiết chế này mới chính là
cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ
quan có quyền cao nhất của nớc Cộng hoà
x hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên tinh thần
đó, chơng Quốc hội trong Hiến pháp năm
1992 có nhiều quy định cần phải đợc sửa
đổi, nếu có điều kiện, dịp khác chúng tôi sẽ
đề cập một cách cụ thể hơn. Đối với hội
đồng nhân dân các cấp, xuất phát từ thực tế
hoạt động, nhiều tác giả cho rằng Hiến pháp
chỉ nên quy định hội đồng nhân dân là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phơng (mà
không phải là cơ quan quyền lực nhà nớc ở
địa phơng) không phải là không có lí. Với
t cách đó, hội đồng nhân dân chỉ thực hiện
chức năng của cơ quan quyền lực nhân dân.

Theo đó, Điều 119 Hiến pháp năm 1992 nên
đợc sửa lại là: "Hội đồng nhân dân là cơ
quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phơng, do
nhân dân địa phơng bầu ra, chịu trách
nhiệm trớc nhân dân địa phơng và cơ quan
đại biểu nhân dân cấp trên". Tất nhiên, khi
đó Điều 120 Hiến pháp năm 1992 cũng cần
sửa đổi cho thích hợp.
Trong điều kiện hiện nay, khi mô hình
trên có thể cha đợc thực hiện thì việc tăng
cờng chức năng giám sát của Quốc hội, hội
đồng nhân dân các cấp là vô cùng cần thiết.



góp ý sửa đổi, bổ sung hiến pháp
Tạp chí luật học - 19

Trên thực tế, việc nhiều đại biểu Quốc hội,
hội đồng nhân dân đồng thời là thành viên
các cơ quan nhà nớc khác làm cho không
chỉ hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân
dân các cấp mà cả hoạt động của chính các
cơ quan ấy cũng kém hiệu quả, bởi vì, cũng
với con ngời ấy, quỹ thời gian ấy, họ khó có
thể thực hiện một cách tối u đồng thời cả
hai loại nhiệm vụ. Theo dõi hoạt động của
Quốc hội, chúng ta thấy, rất hiếm các phiên
họp toàn thể của Quốc hội có đầy đủ các vị

đại biểu Quốc hội tham dự. Quốc hội, hội
đồng nhân dân liệu có thể làm tròn chức
năng giám sát của mình khi nhiều đại biểu
Quốc hội, hội đồng nhân dân vừa là ngời
giám sát, vừa là ngời bị giám sát. Theo
chúng tôi, để tăng cờng chức năng giám sát
của Quốc hội, hội đồng nhân dâ các cấp thì
đại biểu các cơ quan này không thể đồng thời
là thành viên các cơ quan nhà nớc khác.
Thứ t, quyền lực nhà nớc ta là tập
trung, thống nhất nhng tập trung vào đâu?
Về vấn đề này có hai quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền lực nhà
nớc là tập trung, thống nhất nơi nhân dân.
Quan điểm khác cho rằng quyền lực nhà
nớc là tập trung, thống nhất ở Quốc hội.
(6)

Nh đ trình bày, quyền lực nhà nớc là xuất
phát từ nhân dân nhng thuộc về Nhà nớc,
vì vậy, không thể tập trung thống nhất nơi
nhân dân. Mặt khác, nhân dân là cộng đồng
ngời rất rộng lớn, quyền lực nhà nớc, vì
vậy, không thể tập trung thống nhất ở nhân
dân bởi tập trung là dồn về một nơi, thống
nhất là quy về một mối. Quyền lực nhà nớc
ta cũng không phải tập trung, thống nhất ở
Quốc hội. Cho dù Quốc hội đợc quy định là
cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất nhng
Quốc hội cũng chỉ tham gia vào một mắt,

khâu nhất định trong việc thực hiện quyền
lực nhà nớc. Không thể nói tất cả quyền lực
nhà nớc đều tập trung vào Quốc hội, trong
đó, Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền lập
pháp và giám sát tối cao, còn quyền hành
pháp Quốc hội giao cho Chính phủ, quyền
xét xử Quốc hội giao cho toà án, quyền giám
sát các cơ quan nhà nớc từ cấp bộ trở xuống
đến mọi công dân, Quốc hội giao cho viện
kiểm sát. Nh đ đề cập, Quốc hội với t
cách là cơ quan nhà nớc, thực thi quyền lực
nhà nớc, nó chỉ thực hiện quyền lập pháp,
quyết định các vấn đề cơ bản quan trọng của
đất nớc. Khi ban hành, sửa đổi Hiến pháp,
tổ chức ra các cơ quan tối cao của nhà nớc
và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy
nhà nớc là Quốc hội thực hiện nhiệm vụ với
t cách cơ quan quyền lực nhân dân, thực thi
quyền lực nhân dân.
Trên đây là những suy nghĩ bớc đầu về
những vấn đề vô cùng phức tạp của khoa học
pháp lí. Để góp phần nhận thức đúng đắn,
đầy đủ hơn về vấn đề quyền lực nhà nớc,
tác giả mạnh dạn trình bày những quan điểm
của cá nhân. Mong đợc trao đổi cùng bạn
đọc để tác giả đợc hoàn thiện những quan
điểm của mình./.

(1).Xem: Tập bài giảng Chính trị học, Nxb. Chính trị
Quốc gia, H. 2000, tr.190; Chính trị học đại cơng,

Nxb. Chính trị Quốc gia, H.1999, tr. 105 - 107;
Chính trị học đại cơng, Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh 1997, tr. 67-72.
(2).Xem: Chính trị học, Sđd, tr.191.
(3).Xem: Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy nhà
nớc t sản hiện đại, Viện thông tin khoa học x hội,
H. 1992, tr.10.
(4).Xem: Vũ Hồng Anh, Tạp chí Luật học số 6/1999.
(5). Xem: Thuyết tam quyền phân lập Sđd, tr.13.
(6).Xem: Nguyễn Minh Đoan, Tạp chí Luật học số
1/2001.



gãp ý söa ®æi, bæ sung hiÕn ph¸p
20 - T¹p chÝ luËt häc



×