Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài học kinh nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.22 KB, 97 trang )

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
2
I- Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
2
1- Khái niệm
2
2- Đặc điểm của FDI
4
3- Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
7
II- Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
1- Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
2- Xu hướng vận độn của đầu tư trực tiếp nước ngoài
13
III- Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI
21
1- Sự ổn định về Kinh tế chính trị xã hội và luật pháp đầu tư
22
2- Sự mềm dẻo, hấp dẫn của các hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài
23
3- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
25
Luận Văn Tốt Nghiệp
4- Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học công nghệ và hệ
thống doanh nghiệp trong nước trên địa bàn
25


5- Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã
triển khai
26
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước
ASEAN trong thời gian qua
28
I- Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN trong thời
gian qua
28
1- Số lượng vốn đầu tư
.....................................................................................................................................
28
2- Cơ cấu FDI của Nhật Bản theo ngành ở các nước ASEAN
.....................................................................................................................................
35
II- Những chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN
.....................................................................................................................................
50
1- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singpore
.....................................................................................................................................
50
2- Chính sách đầu tư thu hút trực tiếp nước ngoài của Malaixia
.....................................................................................................................................
52
3- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Idonexia
.....................................................................................................................................
53
4- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Philippin
Luận Văn Tốt Nghiệp
.....................................................................................................................................

55
5- Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan
.....................................................................................................................................
58
III- Đánh giá quá trình đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số
bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
.....................................................................................................................................
59
1- Đánh giá quá trình đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN
.....................................................................................................................................
53
2- Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
.....................................................................................................................................
63
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào
Việt Nam
.................................................................................................................................
68
I- Triển vọng của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
.....................................................................................................................................
68
II- Một số giải pháp nhằm thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam
.....................................................................................................................................
74
1- Về phía Chính phủ
.....................................................................................................................................
75
2- Phía doanh nghiệp
.....................................................................................................................................
84

Kết luận
Luận Văn Tốt Nghiệp
.................................................................................................................................
88
Luận Văn Tốt Nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn là một vấn đề nóng bỏng. Đối với
Việt Nam vấn đề này càng cần được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay – giai đoạn mà Việt Nam đang thực hiện công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đai hoá đất nước. Chính vì vậy vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, không phải tự
nhiên các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam, mà điều đó còn do
rất nhiều động thái tác động đến. Một mặt là do nhu cầu của nhà đầu tư nước
ngoài, mặt khác, là do sự hấp dẫn về môi trường đầu tư của nước sở tại.
Hiện nay vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với
Việt Nam. Điều bức xúc đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là làm thế nào để
thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Quan tâm đến vấn đề này và
được sự đồng ý của thầy giáo trực tiếp hướng dẫn em đã quyết định chọn đề
tài “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước ASEAN và một số bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút FDI của Nhật
Bản”. Em muốn tìm hiểu nguyên nhân đầu tư của Nhật Bản vào các nước
ASEAN và những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước
ASEAN và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc
thu hhút FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước
ASEAN trong thời gian qua
Chương III: Triển vọng và một số giải pháp thu hút FDI nói chung
và FDI của Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam

Qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới thầy giáo Th.s
Bùi Huy Nhượng, cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong khoa Kinh tế & Kinh
doanh quốc tế, toàn thể cán bộ nghiên cứu thuộc trung tâm nghiên cứu Nhật
Bản đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Sinh viên
Lê Văn Hinh
Luận Văn Tốt Nghiệp
Luận Văn Tốt Nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm
Đầu tư : Đầu tư nói chung là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu được các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó . Nguồn lực
đó có thể là vốn , tàI nguyên thiên nhiên , sức lao động ,trí tuệ… Các kết quả
thu đực có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính ( tiền vốn) , tài sản vật chất
( nhà máy , đường xá… ) , tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá , chuyên môn,
khoa học kỹ thuật …) và nguồn nhân lực có đủ điều để làm việc có năng suất
trong nền sản xuất xã hội. Trên giác độ nền kinh tế, đầy tư là sự hy sinh giá trị
hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động
mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, tổ chức
không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Thực chất của vấn đề này là như thế
nào? chúng ta cùng xem xét một số tình huống sau: Một công ty bỏ ra 10
triệu USD để xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất mới. Một sinh viên bỏ
ra 10 triệu VND để học tiếp cao học, một nhân viên bỏ ra 2000 USD để mua
cổ phần của một công ty, một công nhân bỏ ra 10 triệu VND. Tất cả các hoạt
động bỏ tiền trên đây đều nhằm mục đích chung là thu được một lợi ích nào
đó trong tương lai về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ…, lớn hơn các chi phí bỏ
ra. Vì vậy nếu xem trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra thì các

hoạt động trên đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên nếu xem xét trên giác độ
toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích
cho nền kinh tế và được coi là đầu tư của nền kinh tế. Bởi vì các hoạt động
gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần không làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các
hoạt động này thực chất chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng tiền, quyền sở
hữu cổ phần từ người này sang người khác. Do đó chỉ làm tăng số tiền thu về
của người đầu tư, những giá trị tăng thêm của người này là phần mất đi của
Luận Văn Tốt Nghiệp
người khác, tài sản của nền kinh tế không thay đổi. Bên cạnh đó, các hoạt
động bỏ tiền xây dựng phân xưởng, bỏ tiền học cao học làm tăng thêm tài sản
vật chất trí tuệ cho nền kinh tế do đó các hoạt dộng này được gọi là đàu tư
phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế.
Đầu tư quốc tế: đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn
đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh
lời. Đầu tư quốc tế là một hình thức hoạt động cao nhất của các công ty khi
thực hiện kinh doanh quốc tế. Về mặt sở hữu, đầu tư nước ngoài là quyến sở
hữu gián tiếp những tài sản của công ty ở nước khác. Về bản chất, đầu tư quốc
tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu
hàng hoá. Đây là hai hình thức luôn bổ xung hỗ trợ nhau trong chiến lược
thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước người hiện
nay. Trong nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi
tìm hiểu thị trường, luật pháp để tiến hành đầu tư. Sau đó việc tiến hành thành
lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại là điều kiện để xuất khẩu máy móc
thiết bị vật tư… Hình thức đầu tư quốc tư thường gắn liền với các hoạt động
của các công ty đa quốc gia ( Multinational Enteprises)
Khái niệmđầu tư trực tiếp nước ngoài: đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
là một loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng
thời là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vân hành các kết quả
đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ ra.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựhg các cở sở

ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức
đầu tư mà chủ sở hữu đầu tư nước ngoài đóng góp một phần vốn đủ lớn vào
lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành
đối trọng mà họ bỏ vốn ra. Trên thực tế, phần lớn FDI được thực hiện dưới
dạng thành lập cáccông ty con hoặc công ty liên doanh trực thuộc các công ty
đa quốc gia và nhà đầu tư là những tổ chức chóp bu của các công ty nay. Một
điều đáng lưu ý là ngày nay, FDI còn được thực hiện bởi các công ty vừa và
Luận Văn Tốt Nghiệp
nhỏ, tuy nhiên các công ty đa quốc gia vẫn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình
này. Do đó FDI có thể được định nghĩa là sự mở rộng phạm vi hoạt động sản
xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia trên phạm vi quốc tế. Sự mở rộng
đó bao gồm chuyển giao vốn, công nghệ và các kỹ năng sanư xuất, bí quyết
quản lý… tới nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện quá trình sản xuất kinh do-
anh theo kế hoạch của dự án đầu tư.
2. Đặc điểm của FDI
Hiện nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm sau:
2.1. FDI trở thành hình thức chủ yếu trong đầu tư nước ngoài
Xét về xu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh tế thế giới , gắn liền với quá trình sản xuất trực tiếp,
tham gia vào sự phân công lao động theo chiều sâu và tạo thành cơ sở hoạt
động của các công tyãuyên qốc gia và các doanh nghiệp quốc tế.
2.2. FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển
Đầu tư lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển tăng mạnh trong vài
thập kỷ lại đây, đặc biệt là nửa cuối những năm 1980 là một trong những đặc
điểm quan trọng nhất của cá quan hệ kinh tế quốc tế kể từ sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai.
Có nhiều lý do giả thích mức độ đầu tư cao giửa các nước công nghiệp phát
triển với nhau, nhưng có thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, môi
trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao. Môi trường này
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi trường pháp

lý. Thứ hai, xu hướng khu vực hoá đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị
trường của nhau. Dĩ nhiên đây không phải lý do trực tiếp vì trong khi khu
vực hoá vối chủ nghĩa bảo hộ chặt chẽ chỉ là một xu hướng thì mức độ mổ
cửa hiện nay không cản trở điều đó.
Cũng với hai lý do chính đó, ta có thể giải thích đực xu hướng tăng lên
của FDI ở các nước công nghiệp mới ( NICs), các nước ASEAN và Trung
Quốc. Quá trình tự do hoá nền kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường ở các
Luận Văn Tốt Nghiệp
nước này cũng như khu vực Đông Âu và Liên Xô đã tạo nên những khoảng
trống mới cho đầu tư. Mặt khác, các nhà đầu tư lớn nhất có xu hướng củng cố
khu vực lân cận của mình. Lấy ví dụ đầu tư nước ngoài của Nhật Bản. Vào
đầu những năm 1980, Nhật Bản đầu tư mỗi năm khoảng 1,2 tỷ USD cho toàn
bộ khu vực châu á. Đến năm 1990 con số này tăng gấp 6 lần.
Như vậy, xu hướng tự do hoá và mở cửa nền kinh tế các nước đang phát
triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi dòng
chảy FDI. Năm 1990, các nước đang phát triển nhận được 19% số vốn FDI,
năm 1991 là 25% và năm 1992 khoảng 30%. Trong những năm gần đây tỷ lệ
này vẫn có xu hướng tăng lên.
2.3.Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn.
Trong những năm gần đây, cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên
đa dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường
kinh tế thương mại toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có những
thay đổi sau:
- Vai trò và tỷ trọng của đầu vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao
tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then
chốt như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy.
Trong khi đó, trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều
vốn và lao động, FDI giảm tuyệt đối hoặc không đầu tư . Các công ty

xuyên quốc gia của Mỹ đã đóng cửa các chi nhánh của mình ở Tây Âu và
Canada trong các ngành dệt,da, sản xuất các đồ dùng và thực phẩm .Các
nguồn vốn thu hồi này được chuyển về Mỹ và sử dụng để cải tạo và hiện
đại hoá các cơ sở sản xuất trong nước.
- Tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống khi FDI vào các
ngành dịch vụ tăng lên. Điều này liên quan đến tỷ trọng khu vực dịch vụ
trong GDP của các nước OECD tăng lên và hàm lươngj dịch vụ trong
Luận Văn Tốt Nghiệp
công nghiệp chế tạo cao. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ
thương mại, bảo hiểm, các dịch vụ tài chính và giải trí. Tỷ lệ các nguồn
FDI vào dịch vụ tăng rất mạnh từ thập kỷ 80: năm 1985, FDIvào dịch vụ
tại Mỹ chiếm tỷ trọng 44% ( so với 32% năm 1950), vào Nhật Bản là 52%
( so với 20% năm 1965) và cộng hoà Liên bang Đức là47%(so với 10%
năm 1966).
Một vấn đề đáng lưu ý trong phương thức tiến hành FDI trong thời gian gần
đây là vai trò tăng lên của các công ty vừa và nhỏ. Chẳng hạn số dự án FDI
của các công ty vừa và nhỏ của Nhật Bản tăng mạnh từ 318 dự án năm 1985
lên 994 dự án năm 1990, chiếm 58% số dự án ( so với 13% năm 1985). Đa số
các công ty này thuộc mạng lưới các công ty xuyên quốc gia, tiến hành đầu
tư theo yêu cầu của công ty mẹ.
2.4. Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa FDI với ODA, thương mại, và chuyển
giao công nghệ.
FDI và thương mại có liên quan chặt chẽ với nhau. Thông thường,
một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích
tăng tiềm năng xuất khẩu cuả một nước .Mặt khác ,các công ty nước ngoài
được lựa chọn ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Sự thay đổi kết cấu ngành
đầu tư , như phân tích ở trên, đã chứng minh điều này. Ngay cả đối với Nhật
Bản, nước đã từng hướng đầu tư nước ngoài vào những ngành khai thác để
cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước thì những năm

gần đây cũng đã chuyển sang các ngành nhằm vào xuất khẩu là chủ yếu.
FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của chuyển giao công nghệ. Xu
hướng hiện nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó chặt chẽ
với nhau. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển vốn và
kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc
hấp thụ các yếu tố bên ngoài để phat triển kinh tế trong nước là nhờ đến điều
này.
Luận Văn Tốt Nghiệp
Sự gắn bó giữa FDI và các nguồn viện trợ và vay nợ khác cũng là một
đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển các nguồn vốn và công nghệ trên phạm vi
quốc tế trong những năm gần đây .Hơn nữa, xu hướng này sẽ ngày càng trở
nên mạnh hơn. Lý do là trước đây, các nguồn viện trợ và cho vay thường
nhằm vào mục đích quân sự và chíng trị, do đó hiệu quả của nó đối với thúc
đấỵ phát triển kinh tế của các nước nhận và nước cho rất thâps .Ơ các nước
chậm phát triển nhất hiện nay viện trợ và cho vay chiếm đến 90% các nguồng
vốn từ bên ngoài.Viện trợ và cho vay trong nhiều trường hợp dẫn đến sự phụ
thuộc một chiều hơn là giúp cho các nước nhận có được sự phát triển tự thân
và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.Vì vậy, các nguồn
vốn này đã được các chính phủ, các tổ chức quốc tế đặt trong mối quan hệ
với các nguồn vốn tư nhân nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng .
3.Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.1.Đối với nước đi đầu tư.
Mối quan tâm đến tác động của FDI đối với bản thân nước đi đầu tư là
rất lớn. Phần lớn các công ty đi đầu tư thuộc các nước phát triển mà tỷ suất
lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện
tượng thừa tương đối tư bản. Khi đầu tư ra nước ngoài họ tận dụng được lợi
thế và chi phí sản xuất thấp của nước nhận đầu tư (Do giá lao động rẻ, chi phí
khai thác nguyên vật liệu tại chỗ thấp) để hạ giá thành sản phẩm , giảm chi
phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận
đầu tư , nhờ đó nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.

Đầu tư trực tiếp cho phép các công ty kéo dài chu kỳ sống của sản
phẩm mới được tạo ra. Đầu tư trực tiếp giúp các công ty tạo dựng được thỉ
trường cung cấp nguyên vật liệu dồi dào với giá rẻ.
Đầu tư trực tiếp cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh về kinh tế,
tăng cường ảnh hương của mình trên thị trường thế giới.
Đầu tư trực tiếp làm tăng tổng sản phẩm quốc dân của nước đi đầu tư
,từ các khoản lợi nhuận, tiền bản quyền và các khoản khác do các chi nhánh
Luận Văn Tốt Nghiệp
của các công ty đa quốc gia từ nước ngoài chuyển về. Nhiều trường hợp đầu
tư trực tiếp là phương tiện không những để kích thích sự phát triển kinh
tế ,mà còn để phục vụ cho các mục tiêu khác của nước thực hiện đầu tư.
Đầu tư trực tiếp biến các nước thực hiện đầu tư từ địa vị là nước xuất
khẩu thành địa vị là nước nhập khẩu đối với một số hàng hoá nhất định.
Tuy những ảnh hưởng tiêu cực của dòng FDI ra nước ngoài đối với các chủ
đầu tư là chưa được khảng định một cách chắc chắn, nhưng những ảnh hưởng
tiêu cực đối với việc làm và thu nhập của người lao động trong nước, việc
suy giảm dòng vốn tiết kiệm trong dài hạn, cũng như làm mất đi tính cạnh
tranh của hành hoá sản xuất của các nước đầu tư trên thị trường quốc tế cũng
là những vấn đề cần được xem xét và phân tích hiện nay.
3.2.Đối với nước nhận đầu tư.
a. Ưu điểm:
Đối với các nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển,
FDI là yếu tố quan trọng làm tăng cường vốn đầu tư trong nước trong điều
kiện tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp, thiếu ngoại tệ và quá trình tích luỹ từ nội bộ
nền kinh tế chậm, không đáng kể so với nhu cầu phát triển chung của nền
kinh tế.
Cùng với việc cung cấp vốn thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp, các
công ty đã chuyển giao công nghệ và các tài sản vô hình khác từ nước mình
hoặc các nước khác sang nước tiếp nhận đầu tư. Phần lớn những ảnh hưởng
tích cực của FDI đối với các nước đang phát triển diễn ra thông qua hoạt

động này. Sự chuyển giao này làm nâng cao năng suất lao động bằng cách
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và kết quả cuối cùng là thu nhập
bình quân đầu người sẽ cao hơn ở nước tiếp nhận đầu tư. Những tác động này
có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp .
- Tác động trực tiếp: Thông qua việc chủ đầu tư chuyển giao công nghệ và
các tài sản vô hình khác cho các nhà sản xuất, cung cấp và phân phối địa
phương mà chủ đầu tư có quan hệ kinh doanh. Hoặc có thể do các doanh
Luận Văn Tốt Nghiệp
nghiệp do chủ đầu tư hoạt động có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh địa
phương.
- Tác động gián tiếp( còn được gọi là “hiệu ứng lan toả”): Thông qua việc
các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên một môi trường cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các công ty trong nội bộ khu vực. Môi trường cạnh tranh
buộc các công ty trong khu vực phải hoạt động có hiệu quả hơn, do đó
năng suất lao động của tất cả các công ty sẽ tăng lên. Ngoài ra, hoạt động
của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần
làm tăng kinh nghiệm quản lý, năng lực marketing… cho công nhân viên
nước nhận đầu tư, đội ngũ lao động được đào tạo rèn luyện về nhiều mặt.
Họ có thể làm việc một cách hiệu quả với bất kỳ nơi nào với vốn kỹ năng
và kiến thức đã được đào tạo và tích luỹ. Tác động tích cực trên còn được
gọi là “lợi ích bên ngoài”.
FDI góp phần bổ sung đáng kể vào nguồn thu ngân sách của chính phủ
các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
FDI còn có thể mang lại lợi ích trong việc khuyến khích đầu tư trong
nước. Nếu vốn FDI được dùng để phát triển cơ sở hạ tầng thì có thể trực
tiếp khuyến khích đầu tư hơn nữa.Thậm chí nếu FDI được chú trọng đặc
biệt cho một ngành nào đó thì nó có thể khuyến khích đầu tư bằng việc
giảm chi phí hoặc tạo cầu cho các ngành khác.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cho các tiềm năng phát triển kinh tế

xã hội của đất nước có điều kiện để khai thác, điều đó có tác động mạnh
mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ,
cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ được thay đổi theo chiều
hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, phù hợp với xu thế chung của thời đại , của các nước trong khu
vực.
Luận Văn Tốt Nghiệp
Tiếp nhận đầu tư trực tiếp, nước chủ nhà không phải lo trả nợ, thông
qua hợp tác với chủ đầu tư, nước chủ nhà có điều kiện xâm nhập vào thị
trường thế giới. Các công ty thuộc các nước đang phát triển khó hoặc ít có
cơ hội xâm nhập vào thị trường quốc tế, với sự liên doanh với các công ty
đa quốc gia, các công ty thuộc các nước đang phát triển sẽ vươn tới các thị
trường nước ngoài. Có thể nói đây là cách thức nhanh và có hiệu quả nhất
giúp các công ty đó đến với thị trường nước ngoài và thực hiện kinh
doanh quốc tế.
Nếu đầu tư sản xuất hàng thay thế nhập khẩu, nước nhận đầu tư có
được hàng hoá cần thiết với giá cả thấp hơn giá nhập từ nước ngoài nhờ
tiết kiệm được chi phí vận chuyển và những lợi thế về lao động, nguồn
nguyên liệu trong nước.
Đầu tư trực tiếp được sử dụng một cách có hiệu quả trong việc phát
triẻn các khu địa lý, khu công nghiệp hoặc ngành công nghiệp cụ thể
thông qua việc xây dựng và giới thiệu dự án gọi đầu tư vói những ưu đãi,
khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư vào các ngành, vùng mà họ
muốn phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo công ăn việc làm cho nước nhận đầu
tư .Trong thực tế, FDI còn có tác động tích cực đến lĩnh vực giáo dục, đào
tạo tâm lý đội ngũ người lao động của các nước tiếp nhận đầu tư.
b. Nhược điểm:
Việc quản lý vốn đầu tư trực tiếp của nước chủ nhà có nhiều khó khăn
do các chủ đầu tư có kinh nghiệm né tránh sự quản lý của nước chủ nhà.

Trong khi đó nước chủ nhà lại chưa có nhiều kinh nghiệm, còn có nhiều
sơ hở trong quản lý hoạt động các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài.
Lợi dụng sự yếu kém, thiếu kihn nghiệm trong quản lý và trong pháp luật
của nước sở tại, tình trạng trốn thuế, gian lận, vi phạm những quy định về
bảo vệ sinh thái môi trường và nhữnh lợi ích khác của nước chủ nhà
thường xảy ra.
Luận Văn Tốt Nghiệp
Trong số các nhà đầu tư, có những trường hợp vào không có mục
đích là thu lợi nhuận mà với mục đích tình báo, gây rối trật tự an ninh
chính trị. Các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp có thể sử dụng như một
công cụ để can thiệp vào các hoạt động chính trị, kinh tế ngoại giao của
nước sở tại.
Quá trình chuyển giao công nghệ trong đầu tư trực tiếp còn nhiều hạn
chế và tiêu cực, không thực hiện đúng quy định như chuyển giao các công
cụ lạc hậu, ô nhiễm môi trường, giá chuyển giao cao… Đồng thời nó đặt
nước nhận đầu tư phụ thuộc nhiều vào dòng vận động của công nghệ mới
và công nghệ được cập nhật. Đối với các nước kém phát triển, các công
nghệ mà họ nhận đươc từ các công ty đa quốc gia nhìn chung là các công
nghệ ở giai đoạn cuối của sự vận động. Vì vậy giá trị của công nghệ nhận
được đó thường không cao và nó đặt các nước kém phát triển vào tình
trạng phụ thuộc nhiều hơn vào công nghệ của nước tiên tiến. Điều này
được giải thích bởi lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm và chu kỳ sống
của sản phẩm mở rộng.
Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia có thể gây ra hiện tượng “chảy
máu chất xám” do việc thu hút các nhà khoa học của nước nhận đầu tư
vào các trung tâm nghiên cứu. Việc các công ty đa quốc gia trả lương cho
các nhân viên của họ cao hơn các công ty nội địa đã taọ ra dòng di chuyển
lao động có chuyên môn , tay nghề cao từ các công ty nội địa đến các
công ty quốc gia .Đồng thời các công ty đa quốc gia cũng thường là nhân
tố làm rối loạn quá trình hoạch định chính sách kế hoạch phát triển kinh

tế. Sự hoạt động của các công ty này gây ra những thay đổi trong cách
thức kinh doanh, nếp sống, sở thích tiêu dùng… ảnh hưởng tới giá trị tinh
thần của dân cư nước sở tại. Dòng FDI vào các nước đang phát triển có
thể tác động làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa. Tác động này xuất
phát từ quyền lực thị trường của các công ty đa quốc gia và khả năng của
các công ty này trong việc sử dụng quyền lực đó nhằm thu lợi nhuận cao
Luận Văn Tốt Nghiệp
và chuyển ra nước ngoài .Bằng các phương pháp cạnh tranh khác nhau,
các công ty đa quốc gia có thể làm phá sản các doanh nghiệp trong nước
nhằm chiếm lĩnh thị phần của họ.
Dòng FDI vào các nước đang phát triển thường có xu hướng làm
tăng sự phát triển vốn đã không đồng đều giữa các ngành, các vùng và các
khu vực kinh tế, làm tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Đầu tư trực tiếp là nguồn vốn quan trọng đối với các nước đang phát
triển, tuy nhiên lượng vốn đổ vào thi trường nước nhận đầu tư chưa chắc
đã lớn hơn lượng vốn đổ ra do việc các công ty đa quốc gia mang các
khoản lợi nhuận ra khỏi nước sở tại. Do đó lợi ích kinh tế do đầu tư nước
ngoài trực tiếp tạo ra cũng là vấn đề cần gây nên nhiều tranh luận.
Hai loại tác động tiêu cực và tích cực luôn song song tồn tại trong
quá trình đầu tư và tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, tuỳ
từng thời điểm, từng điều kiện của các quốc gia mà có thể tác động này
hay tác động khác chiếm ưu thế hơn. Mỗi quốc gia cần phải xác định rõ
các điều kiện của nước mình, từ đó xem xét các tác động nhằm hạn chế
các tiêu cực và để quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước mình
được hiệu quả hơn.
II.Các hình thức và xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
1. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài ngày 09 tháng 6 năm 2000

thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được định nghĩa là "việc nhà đầu tư nước
ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”.
Luật quy định các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam
dưới các hình thức sau:
Luận Văn Tốt Nghiệp
*0Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
*1Doanh nghiệp liên doanh.
*2Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, còn có các phương thức tổ chức đầu tư khác như khu chế
xuất, khu công nghiệp, hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT),
hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng-
chuyển giao (BT).
Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết giữa hai bên hay nhiều
bên (các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh
doanh để tiến hành hoạt động đầu tư tạiViệt Nam mà không thành lập pháp
nhân. Các hợp đồng thương mại và hợp đồng kinh tế có tính chất trao đổi
hàng hoá như giao nguyên liệu lấy sản phẩm, mua thiết bị trả chậm bằng sản
phẩm không thuộc hình thức đầu tư này.
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí kết
giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ
nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác
với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng liên doanh làm hình thành
một pháp nhân mới. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Luận Văn Tốt Nghiệp
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam,
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
2.Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài .
2.1.Xu hướng tự do hoá đầu tư và sự gia tăng mạnh mẽ về quy mô vốn đầu tư :
Những năm gần đây, hoạt động đầu tư phát triển mạnh mẽ trên thế giới và đã
được tự do háo trên tất cả các mặt. Xu hướng thể hiện trên ba bình diện : quốc
gia ,khu vực và quốc tế. Các quốc gia thì giảm dần những hạn chế về các hình
thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư, luật pháp liên quan tới đầu tư, về vấn đề góp
vốn, chuyển giao công nghệ… đồng thời các chính sách khuyến khích đầu tư
như khuyến khích về thuế quan, nhân công… được ban hành. Bên cạnh đó,
trên thế giới hình thành các khu vực đầu tư, liên minh kinh tế, các hiệp định
đầu tư đa phương và song phương liên tục ra đời, vốn đầu tư được trải rộng
trên toàn thế giới.
Xu hướng tự do hoá đầu tư và quá trình quốc tế hoá đã làm cho lượng
vốn đầu tư gia tăng mạnh mẽ trên toàn thế giới. Số vốn lưu chuyển quốc tế
trong những năm gần đây tăng mạnh khoảng 20-30%/năm. Những năm 70,
vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới trung bình hàng năm khoảng 25 tỷ
USD, đến thời kỳ 1980 – 1985, đã tăng lêngấp hai lần, đạt mức khoảng 50 tỷ
USD.Từ năm 1985 – 1990, tỷ lệ gia tăng danh nghĩa của dòng FDI hàng năm
là 34%, vượt xa mức tăng 13% hàng năm của tổng số hàng xuất khẩu trên thế
giới .Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới năm 1986 là 78 tỷ
USD, năm 1987 là 133 tỷ USD, năm 1988 là 158 tỷ USD, năm 1989 là 195 tỷ
USD và từ năm 1990 đến 1993,số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên
Luận Văn Tốt Nghiệp
toàn thế giới hầu như không tăng lên, chỉ dừng ở mức trên dưới 200 tỷ USD.

Đến năm 1994, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới lại tiếp tục
tăng lên đạt mức 226 tỷ USD và đến năm 1995 con số đó là 253 tỷ USD. Số
lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong số vốn
đầu tư trên toàn thế giới, cuối thập kỷ 70, vốn đầu tư nước ngoài bằng 5%
trong số vốn đầu tư trên toàn thế giới. Năm 1989 con số này là 13%(bằng 200
tỷ USD so với 1500 tỷ USD ). Tình hình này cho thấy xu hướng phát triển sản
xuất ngày càng được mở rộng trên toàn thế giới và ngày càng có nhiều quốc
gia, tổ chức và các công ty đa quốc gia tham gia vào hoạt đọng đầu tư ra nước
ngoài.
2.2.Địa bàn thu hút vốn đầu tư có sự thay đổi:
Một xu hướng lâu dài là vốn đầu tư được luân chuyển chue yếu giữa các
nước công nghiệp phát triển. Năm 1950, số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đổ vào các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 40% trong tổng
vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới: đến năm 1960 đã tăng lên 69%, năm
1998 con số này là 73% và cuối thập kỷ đó đạtb mức 80%. Sự gia tăng đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển bị chững lại vào đầu
nhữnh năm 90, do suy thoái kinh tế rộng khắp trên thế giới. Tư bản và dòng
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này giảm mạnh trong những năm
đầu thập kỷ. Cùng với sự lớn mạnh của các tập đoàn xuyên quốc gia ở các
nước đang phát triển và tác động của qúa trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới đang có những biến đổi theo xu
hướng tăng dần quy mô và tốc độ vốn đầu tư vào các nước đang phát triển,
tuy nhiên tốc đọ tăng hàng năm là không đều. Những số liệu dưới đây sẽ
chứng minh cho nhận định này.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước công nghiệp phát triển và
đang phát triển Đơn vị tính : tỷ USD
Luận Văn Tốt Nghiệp
Nhóm nước 1986 1987 1988 1989 1990 1993 1994
Tổng số 78 133 159 195 184 194 226
Các nước CNPT 64 108 129 165 152 114 142

Các nước ĐPT 14 25 30 30 32 80 84
Nguồn:World investment report 1995, United Nation. New york.1995
Năm 1985, FDI vào các nước đang phát triển đạt 11,3 tỷUSD thì đến
năm 1990, các dòng vốn đầu tư (gồm đầu tư trực tiếp , gián tiếp ) vào các
nước đang phát triển đã tăng gấp hai lần trong đó đầu tư trực tiếp tăng khoảng
3,5 lần. Tốc độ tăng FDI trung bình hàng năm là 31% và đạt mức 97 tỷ USD
năm 1995, một mức kỷ lục. Hiện tượng dòng vốn FDI chuyển hướng sang
các nước đang phát triển có nthể do các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Do suy
giảm lãi suất, lợi nhuận đầu tư trong các nước công nghiệp phát triển làm cho
địa bàn đầu tư bị thu hẹp. Các nhà đầu tư buộc phải tìm đến các địa bàn đầu
tư mới, đó là các nước đang phát triển. Thứ hai: Do xu hướng toàn cầu hoá và
đa dạng hoá trong đầu tư quốc tế. Trên thế giới ngày càng xuất hiệnnhiều vấn
đề mang tính chất toàn cầu, buộc các nước công nghiệp phát triển phải có sự
hợp tác với các nước đang phát triển để cùng nhau giải quyết. Thứ ba: Các
nước đang phát triển thường là các nước có nền khoa học kỹ thuật lạc hậu,
với tốc độ phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các nước đang
phát triển là nơi để các nước phát triển chuyển giao các thiết bị cũ, lạc hậu
thông qua việc đầu tư trực tiếp vào các nước này. Như vậy các nước công
nghệp phát triển vừa thay thế được các thiết bị lạc hậu, lại vừa thu được một
phần giá trị còn lại của các thiết bị cũ. Thứ tư: Do chính quá trình phát triển
mạnh mẽ của mình, các nước đang phát triển thu được rất nhiều vốn đầu tư
trực tiếp. Những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển đã thu được những
thành tựu lớn về phát triển kinh tế, bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, thực
hiện sự cải cách kinh tế phù hợp, tạo được môi trường đầu tư thuận lợi. Đặc
biệt nhiều nước đang phát triển đã gần gỡ bỏ được cuộc khủng hoảng nợ, một
Luận Văn Tốt Nghiệp
trở ngại lớn trong quan hệ giữa các nước đang phát triển với các nước công
nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, sự phân phối FDI giữa các nước đang phát triển lại rất không
đồng đều. Trong những năm 60 và đầu những năm 70, các nước Mỹ La Tinh

là những nước thu hút được nhiều vốn đầu tư lớn nhất thế giới. Đây là thời kỳ
các nước Mỹ La Tinh đạt được mức đọ tăng trưỏng kinh tế thần kỳ. Cuối
những năm 70 và đầu những năm 80, các nước Mỹ La Tinh lại rơi vào tình
trạng kinh tế suy thoái nghiêm trọng, lạm phát tăng nhanh và có nhiều nước
rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ nước ngoài. Chính vì vậy, vốn FDI vào các
nước đang phát triển có xu hướng chuyển dần từ các nước Mỹ La Tinh sang
các nước và vùng lãnh thổ Đông Nam á. Đây là khu vực đang có sự phát triển
mạnh mẽ, tốc đọ tăng trưởng cao, sự ổn định chính trị – kinh tế – xã hội cùng
với những cải cách kinh tế quan trọng đã tạo nên sự hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Thời kỳ 1986 – 1990, trung bình hàng năm lượng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài chảy vào các nước ở Đông và Đông Nam á là 14 tỷ USD bằng
54% số vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển trên thế giới. Các
nước đang phát triển ở khu vực châu á - Thái Bình Dương chiếm khoảng 62%
số vốn đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển trên thế giới vaò năm
1995 (con số này vào năm 1990 là 46%). Từ năm 1992, Trung Quốc nổi lên là
một trong số các nước thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất thế giới.
Năm 1993, 20 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đổ vào Trung Quốc,
so với các nước trên thế giới thì Trung Quốc chỉ đứng sau Mỹ về việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài .Só lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Trung Quốc trong thời gian qua tăng rất nhanh và chiếm tới 1/3 số vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới vào các nước đang phát triển .Đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các nước trong khu vực Đông và Đông Nam á tăng
lên mạnh mẽ trong thời gian qua có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất:
Luận Văn Tốt Nghiệp
Các nước ở khu vực này đã đạt được tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, đồng
thời cải cách lại các chính sách kinh tế – chính trị – xã hội nên đã tạo được
một môi trường đầu tư thuận lợi. Việc cải cách một số vấn đề trong luật đầu
tư, đặc biệt là việc hình thành và phát triển một số hình thức thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (như các khu chế xuất, đặc khu kinh tế, bán trái phiếu,

cổ phiếu…) ở các nước này đã làm tăng khối lượng vốn đầu tư vào trong
nước. Thứ hai: Việc đồng yên tăng giá đã kích thích Nhật Bản đầu tư ra nước
ngoài nhiều hơn mà Châu á lại là địa bàn quen thuộc của Nhật Bản. Thứ ba:
Các nước trong khu vực có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nên đã tạo ra
được một lưọng tư bản thừa, do đó các nước trong khu vực có sự đầu tư lẫn
nhau.
Như vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các nước đang
phát triển tăng lên trong những năm gần đây nhưng chủ yếu chỉ đổ vào các
nước đang phát triển có trình độ phát triển kinh tế tương đối cao. Phải nói
rằng, sự năng động và khả năng tăng trưởng mạnh của nền kinh tế có sự hấp
dẫ đáng kể đối với đầu tư nước ngoài.Vì vậy, muốn tăng cường thu hút đầu tư
nước ngoài, các nước đang phát triển phải tạo ra được sự ổn định chính trị –
xã hội và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và lâu dài. Đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay, trên thế giới đang diễn ra một cuộc cạnh tranh quyết
liệt nhằn lôi kéo đầu tư trực tiếp nước ngoài, việc tạo lập một môi trường đầu
tư thuận lợi là nhân tố cơ bản có yếu tố quyết định đến khả năng thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2.3.Cơ cấu đầu tư có sự thay đổi theo hướng tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp chế biến và dịch vụ:
Hiện nay, một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại là cơ cấu kinh tế trong
đó các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn. Đây là
xu hướng có tính phổ biển trên thế giới và xu hướng này đã chi phối toàn bộ
Luận Văn Tốt Nghiệp
hoạt động đầu tư, trong đó đáng kể là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Vì vậy, mà hầu hết các nước đều tập trung mọi cố gắng để tạo ra những điều
kiện thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển hai ngành
này. Xuất phát từ yêu cầu phát triển một cơ cấu kinh tế hiện đại theo hướng
công nghiệp hoá, Chính phủ của nhiều nước đang phát triển đã dành nhiều ưu
đãi cho những người nước ngoài đầu tư vào hai ngành này điều đó đã tạo ra
sức hấp dẫn mạnh mẽ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Xu hướng chung của

thế giới trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư là chuyển từ đầu tư khai thác các
nguồn lực tự nhiên sang công nghiệp chế tạo và dịch vụ. Vào giữa thập kỷ
80,số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dịch vụ chiếm tới 50% số
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới, trong đó dịch vụ ngân
hàng, buôn bán chiếm phần quan trọng nhất, mặc dù khoản đầu tư trực tiếp
vào quảng cáo, giao thông vận tải cũng chiếm phần không nhỏ. Trong những
năm 90 đến nay, dòng FDI lại có xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ sang các
ngành dịch vụ có hàm lượng vốn và công nghệ cao như viễn thông… vì đó là
khu vực mới phát triển và đang có khả năng thu lợi nhuận cao nhất.
Riêng trong lĩnh vực sản xuất thì có sự chuyển dịch các ngành sử dụng
sức lao động nhiều từ những nước có nền kinh tế phát triển cao sang các nước
có nền kinh tế phát triển thấp hơn(thường là những nước đang phát triển).
Những nước phát triển bắt đầu thu hút FDIvào các ngành đòi hỏi sử dụng lao
động có trình độ cao.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào lĩnh vực
công nghiệp chế biến và dịch vụ có thể do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất
ngày càng được nâng cao, vì vậy mà nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời
sống và sản xuất kinh doanh tăng lên mạnh mẽ, nhát là dịch vụ kỹ thuật , tài
chính ,du lịch, đòi hỏi ngành dịch vụ phải được phát triển tương ứng. Thứ hai:
Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân
Luận Văn Tốt Nghiệp
ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ như điện tử, thông tin liên lạc, vật liệu mới… Thứ ba: Do đặc tính kỹ
thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp tác. Thứ tư: Việc đầu tư
vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi nhuận cao, đỡ gặp rủi
ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư.
2.4. Hiện tượng đa cực đa biên trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự xuất
hiện của một số chủ đầu tư mới trên thế giới:
Trước đây, do Mỹ không bị ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thế giới thứ

hai nên Mỹ có nhiều tiềm năng kinh tế để thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài. Tuy nhiên, tính chất “một cực” này đã hoàn toàn bị thay thế bởi tính
chất “đa cực”. Hiện tượng này xuất hiện do có sự cạnh tranh của Tây Âu,
Nhật Bản và mới đây là sự xuất hiện của NICs đốibvới hoạt động FDI của
Mỹ. Ngày nay, số lượng các đối tác nước ngoài ở mỗi nước không phải có
một hay vài nước mà có rất nhiều các quoóc gia khác nhau cùng đầu tư
vào.Ví dụ ở Việt Nam, tính đến hết năm 1995 đã có trên 700 công ty của 50
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào, với số vốn lên đến gần 20 tỷ USD .Nguyên
nhân của hiện tượng này là do có sự phát triển nhanh chóng của một loạt
nước công nghiệp mới, các nước này đã và đang rút ngắn dần khoảng cách
với các nước công nghiệp phát triển và do tình hình quan hệ kinh tế quốc tế
có nhiều biến đổi theo hướng các nước trên thế giới ngày càng hơp tác chặt
chẽ với nhau và có thể là chia sẻ rủi ro khi xảy ra.Về mặt lý thuyết, khi các
công ty nội địa của một quốc gia đã tích luỹ đầy đủ các điều kiện về vốn
,công nghệ… thì họ sẽ đầu tư ra nước ngoài. Trong một vài năm trở lại đây
cũmg đã xuất hiện thêm một số chủ đầu tư mới trong khu vực Châu á - Thái
Bình Dương mà nổi bật là các nước mới công nghiệp hoá .Những nước này
đang dần trở thành nhà đầu tư hàng đầu, thay thế dần các nhà đầu tư của các
nước công nghiệp phát triển trước đây trong khu vực. Các quốc gia Singa-

×