Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

An ninh lương thưc và thực phẩm: Một số vấn đề về lý luận thực tiễn và định hướng chính sách cho Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.52 KB, 13 trang )

AN NINH LƯƠNG THỰC VÀ THỰC PHẨM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC
TIỄN VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM

GS. TS. Đỗ Kim Chung, PGS. TS. Kim Thị Dung và KS. Lưu Văn Duy
Tạp chí nông nghiệp và Phát triển nông thôb, Só 6, Tháng 6/2009, Trang 3-10
SUMMARY
This paper discuses some theoretical and practical issues on food security and draw some
policy recommendations for sustainable strategy for food security for Vietnam. The paper
points out that policy measures should aim at promoting sustainable strategy for food
supply by long term rational food production planning based on comparative advantage of
each region, increasing public investment for planed food production zones, increasing
consumers’ accessibility to food by generating job opportunities and income, and creating
an efficient market mechanism in which all consumers can access to food at reasonable
prices.
Key words: Food Security, Food safety, Food security polices and strategy, Vietnam
Tóm tắt
Bài viết này thảo luận một số vấn đề lý luận và thực tiễn của an ninh lương thực thqựuc
phẩm và đề xuất một số định hướng chính sách cho chiến lược an ninh lương thực, thực
phẩm bền vững cho Việt Nam. Bài viết chỉ ra rằng các giải pháp chính sách cần hướng vào
chiến lược sản xuất bền vững LT-TP dựa trên quy hoạch dài hạn và lợi thế so sánh của mỗi
vùng, tăng khả năng tiếp cận của người tiêu dùng tới lương thực bằng việc tạo việc làm và
thu nhập cho họ, tạo ra cơ chế hiệu quả cho thị trường hoạt động để mọi người tiêu dùng
tiếp cận được tới lương thực thực phầm với giá hợp lý.
Từ khoá: An ninh lương thực-thực phẩm, An toàn lương thực-thực phẩm, Chiến lược
và chính sách an ninh lương thực-thực phẩm, Việt nam
MỞ ĐẦU
Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hoá và đô thị hoá nền kinh tế xã hội. Trong quá trình
công nghiệp hoá và đô thị hoá bình quân mỗi năm cả nước mất khoảng 74.000 ha đất nông
nghiệp chuyển thành đất phi nông nghiệp (Nguyễn Sinh Cúc, 2008)
1
. Điều đáng chú ý là


các diện tích đất được chuyển đổi này tập trung nhiều ở các tỉnh đồng bằng, những vùng
đất nông nghiệp màu mở và đông dân cư. Ở các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, nếu
chuyển 1 ha đất nông nghiệp thành khu công nghiệp thì sẽ làm mất một tài sản sinh kế và
ảnh hưởng đến ít nhất 12-25 người dân sống ở nông thôn (Đỗ Kim Chung, 2008)
2
. Việc
chuyển đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp và đô thị đã tạo ra những thách thức an
1
Nguyễn Sinh Cúc, 2008, Làm gì để phát triển bền vững Tam nông trong thời gian tới.
.
Tạp chí ban tuyên
giáo trung ương, trích lúc 13h23' ngày 18/7/2008
1
ninh lương thực, thực phẩm và việc làm cho nông dân, nhất là những người bị thu hồi đất.
Lo ngại trước tình hình không an ninh về lương thực và thực phẩm, nhiều tỉnh, huyện đã có
chủ trương giành diện tích cố định để sản xuất lương thực, thực phẩm vì mục tiêu an ninh
lương thực của địa phương họ. Liệu những hành động và chủ trương đó là hợp quy luật và
đã thực sự đảm bảo an ninh về lương thực, thực phẩm cho quốc gia. Mặt khác, theo định
hướng phát triển của nền kinh tế nước ta, đến năm 2020, Việt Nam cơ bản là một nước
công nghiệp. Với mục tiêu đó, việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp sẽ
tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, bao nhiêu đất nông nghiệp cần được dùng để đảm bảo an ninh
về lương thực - thực phẩm quốc gia, bao nhiêu đất nông nghiệp có thể được chuyển đổi
sang mục đích phi nông nghiệp vẫn là câu hỏi được nhiều người quan tâm? Cho đến nay,
chưa có nhiều nghiên cứu về các vấn đề trên được tiến hành. Vì vậy, bài viết này nhằm góp
phần thảo luận vấn đề trên.
Mục tiêu cơ bản của bài viết này nhằm: 1) Làm rõ thêm các vấn đề lý luận và thực tiễn của
an ninh lương thực - thực phẩm và chính sách an ninh về lương thực - thực phẩm; 2) Thảo
luận các vấn đề thực tiễn về an ninh lương thực, thực phẩm ở Việt Nam; 3) Đề xuất một số
định hướng chính sách và giải pháp đảm bảo an ninh lương thực ở Việt Nam.
1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này vận dụng phương pháp tiếp cận kinh tế mở về vấn đề an ninh lương thực,
thực phẩm. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này là số liệu thứ cấp của các công trình
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Ngoài ra, bài viết còn sử dụng các phương
pháp dự báo về cung và cầu về lương thực, thực phẩm.
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

2.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ AN NINH LƯƠNG
THỰC - THỰC PHẨM
2.1.1 An ninh lương thực hay an ninh lương thực - thực phẩm?
Từ “lương thực” theo nghĩa tiếng Việt chỉ những nông sản có chứa tinh bột. Do đó, nếu nói
“an ninh lương thực” là chưa đủ. Theo nghĩa tiếng Anh, “food” có nghĩa bao hàm cả lương
thực và thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cho con người. Hơn nữa, việc tiêu dùng lương
thực và thực phẩm quan hệ chặt chẽ với nhau. Thông thường, nếu tiêu dùng nhiều thực
phẩm (thịt, rau, đậu, sữa trứng, quả) sẽ tiêu dùng lương thực ít hơn. Cơ cấu nông nghiệp sẽ
thay đổi theo cầu của thị trường về lương thực và thực phẩm. Do đó, không thể tách rời
lương thực với thực phẩm khi nói về vấn đề an ninh. Vì vậy, bài viết này thảo luận vấn đề
“an ninh lương thực - thực phẩm” hơn là vấn đề “an ninh lương thực” thông thường.
2.1.2 An ninh lương thực - thực phẩm và an toàn lương thực - thực phẩm
2
Đỗ Kim Chung, 2008, Học thuyết kinh tế đối ngẫu trong phát triển nông thôn: những bài học kinh nghiệm từ
Trung Quốc cho Việt Nam, Nghiên cứu Kinh tế, số 361, tháng 6 năm 2008, Viện Kinh tế Việt Nam, trang 46-
50
2
An ninh về lương thực, thực phẩm là vấn đề trọng tâm của mọi chính sách lương thực -
thực phẩm của các quốc gia. Mục tiêu cơ bản của chính sách lương thực - thực phẩm của
các quốc gia nhằm đảm bảo an ninh lương thực - thực phẩm một cách bền vững và an toàn
về lương thực - thực phẩm cho con người, xã hội và môi trường. An ninh lương thực - thực
phẩm là đảm bảo khả năng của tất cả các thành viên trong xã hội trong mọi lúc, mọi nơi có
thể có đủ lương thực - thực phẩm cho cuộc sống khoẻ mạnh và hiệu quả. An toàn về lương
thực - thực phẩm là sự đảm bảo về chất lượng của lương thực và thực phẩm, không tổn hại

tới sức khoẻ con người, môi trường và xã hội. Bài viết này tập trung thảo luận vấn đề an
ninh lương thực - thực phẩm.
Khái niệm an ninh lương thực được hiểu ở các khía cạnh sau: Thứ nhất là sự đảm bảo khả
năng của tất cả các thành viên trong xã hội, không phân biệt người có thu nhập cao hay thu
nhập thấp, ở vị trí nào, nhất là những nhóm cư dân dễ bị tổn thương đều có khả năng tiếp
cận tới lương thực thực-thực phẩm. Thứ hai, đảm bảo cho các thành viên đó ở mọi nơi, từ
vùng gần đô thị đến vùng sâu và vùng xa, từ thành thị đến nông thôn đều tiếp cận đủ lương
thực - thực phẩm. Thứ ba, mọi thành viên trong xã hội trong mọi lúc - dù ở lúc có thu
hoạch hay giáp hạt đều có đủ lương thực - thực phẩm cho cuộc sống khoẻ mạnh và hiệu
quả. Trong mọi lúc có nghĩa là một quốc gia hoặc một hộ gia đình hoặc một cá nhân
trong mọi thời điểm kể cả trong các trường hợp gặp phải các cú sốc bất
thường (như khủng hoảng kinh tế hoặc chịu ảnh hưởng của thiên tai) cũng phải tiếp cận
được với nguồn lương thực phù hợp.
2.1.3 Đẩy mạnh sản xuất lương thực - thực phẩm có phải là điều kiện đủ cho an ninh về
lương thực - thực phẩm?
Trọng tâm của sự an ninh về lương thực - thực phẩm là đảm bảo khả năng sẵn có, khả năng
tiếp cận được và sử dụng lương thực. Mức sẵn có về lương thực - thực phẩm là sự đảm bảo
khối lượng lương thực đủ lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của quốc gia. Mức sẵn có này
còn được xem xét ở từng địa phương và từng hộ. Mức sẵn có về lương thực - thực phẩm
phụ thuộc vào sản xuất trong nước và lượng nhập khẩu và dự trữ. Trong đó, nhiều quốc gia
coi việc đẩy mạnh sản xuất trong nước và tự cung tự cấp lương thực là điều kiện quan trọng
cho an ninh về lương thực - thực phẩm. Khả năng tiếp cận lương thực - thực phẩm là khả
năng mà từng người tiêu dùng, từng hộ có được lương thực - thực phẩm. Khả năng tiếp cận
được lương thực và thực phẩm phụ thuộc vào thu nhập của người tiêu dùng giành cho chi
tiêu về lương thực và hệ thống phân phối (sự cạnh tranh hay độc quyền của thị trường, giá
lương thực - thực phẩm cao hay thấp). Trong nhiều trường hợp, mức sẵn có về lương thực -
thực phẩm của vùng hay quốc gia cao, nhưng thu nhập của người tiêu dùng thấp, hệ thống
phân phối và thị trường chưa phát triển, giá lương thực còn cao thì người tiêu dùng vẫn
không tiếp cận được lương thực và thực phẩm. Trên thế giới đã có nhiều trường hợp nạn
đói xảy ra nghiêm trọng trong tình trạng quốc gia đó được mùa. Các nạn đói diễn ra

nghiêm trọng ở Etiopia năm 1973 và ở Băng-la-đét năm 1974 đều trong bối cảnh các quốc
gia này được mùa lớn. Lương thực - thực phẩm được dịch chuyển từ vùng đói (tỉnh Wollo)
sang vùng no (tỉnh Addis Ababa của Etiopia). Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
tuy có lương thực - thực phẩm sẵn có trên thị trường, nhưng dân nghèo không có khả năng
mua được lương thực và thực phẩm mà họ cần, do họ thiếu việc làm và thu nhập của họ
3
quá thấp
3
. Thực trạng này cũng đã và đang thấy lương thực-thục phẩm chất lượng tốt hơn
đuợc chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ vùng nghèo khó sang vùng giàu có ở các nước
như Thái Lan, In-đô-nê-xia, Philipine và ngay cả ở Việt Nam. Do đó, để có được an ninh
về lương thực - thực phẩm, việc đẩy mạnh sản xuất luơng thực - thực phẩm đảm bảo mức
sẵn có về lương thực, thực phẩm mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ cho an ninh lương
thực, thực phẩm là phải tập trung giải quyết được việc làm, tăng được thu nhập và phát
triển được thị trường lành mạnh để người tiêu dùng mua được lương thực - thực phẩm với
giá hợp lý
2.2. AN NINH LƯƠNG THỰC - THỰC PHẨM Ở VIỆT NAM
2.2.1 Tình trạng sản xuất lương thực ở Việt Nam
Thành tựu nổi bật nhất về kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới là phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực đã đáp ứng được nhu cầu trong nước, đảm bảo dự
trữ Quốc gia và liên tục xuất khẩu gạo. Tỷ lệ nghèo lương thực đã giảm từ 35,6% (giai
đoạn 1998 - 1999), xuống còn 11,9% (giai đoạn 2002 - 2003). Điều đó chứng minh nước
ta giảm cơ bản tình trạng đói. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, những hộ tham gia làm lương
thực có tỷ lệ nghèo cao. Cả nước có khoảng 71% dân số làm nông dân, tỷ lệ nghèo là
20,4% cao gấp 4 lần so với cư dân không làm nông dân (5,0%). Cả nước có 53% dân số
làm nghề trồng lúa và tỷ lệ nghèo của người trồng lúa là 23,4%, gấp 3 lần so với những
người không làm lúa (7,5%).
Thành tựu cơ bản của nông nghiệp là thâm canh tăng năng suất, đa dạng hoá cây trồng.
Cùng với việc phát triển nhanh một số cây lương thực khác như lúa, ngô, Việt Nam đã đưa
sản lượng lương thực có hạt từ 38,1 triệu tấn năm 2000 lên 52,4 triệu tấn năm 2008

4
, bằng
2,22 lần năm 1986, nhờ đó Việt Nam đã tự cung cấp đủ lương thực cho tiêu dùng trong
nước với số dân 86,2 triệu người (năm 2008), tạo được quỹ dự trữ lương thực quốc gia
với khối lượng trên 1,5 triệu tấn và xuất khẩu mỗi năm từ 4,5 đến 5,0 triệu tấn gạo.
Trước năm 2000 sản lượng lúa tăng nhanh nhờ chủ yếu ở tăng diện tích gieo cấy lúa
(diện tích gieo cấy từ 5,68 triệu ha vào năm 1986 lên 7,66 triệu ha năm 2000) (Bảng 1).
Nhưng từ năm 2001 đến nay diện tích gieo cấy lúa đã giảm từ giảm 336.825 ha, sản
lượng lương thực tăng chủ yếu do tăng năng suất ( từ 42.4 tạ/ha năm 2000 lên
49.8 tạ/ha vào năm 2007) (Bảng 2). Tuy nhiên, tốc độ tăng về sản lượng lương thực bị
chậm lại.
Bảng 1. Diện tích lúa cả năm ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 Đơn vị: 1000 ha
Năm Cả
nước
ĐB
SH
Đông
Bắc
Tây
Bắc
Bắc
Trung Bộ
Nam
Trung Bộ
Tây
Nguyên
Đông
Nam Bộ
ĐB
SCL

2000 7.666 1.212 550 136 695 422 176 526 3.945
3
Đỗ Kim Chung, Vì sao được mùa mà vẫn còn nhiều người đói, Khoa học và đời sống số 42 (1190), 14-20-
10-1997, Liên hiệp hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
4
Nguyễn Trí Ngọc, Đảm bảo an lương thực cho đồng bào dân tộc miền núi, Báo Kinh tế Nông Thôn, Web
site: httpp:\\: Kinhtenongthon.com.vn, Ngày 17/3/2009, cập nhật lúc 9.42 AM
4
2002 7.504 1.196 562 140 700 399 186 484 3.834
2004 7.445 1.161 557 151 685 401 198 475 3.816
2006 7.324 1.124 553 154 683 392 208 435 3.773
2007 7.201 1.111 553 158 683 376 205 432 3.684
2007/2000 - 465 - 101 + 3 + 22 - 12 - 46 - 29 - 94 - 261
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007, Niên giám thống kê 2007, Nhà xuất bản thống kê 2008
Bảng 2. Năng suất lúa cả nước giai đoạn 2000-2007 Đơn vị t

/h
a
Năm
Cả
Nước
ĐB
SH
Đông
Bắc
Tây
Bắc
Bắc.T Bộ
Nam.T
Bộ

Tây
Nguyê n
Đông
N. Bộ
ĐB
SCL
2000 42,4 54,3 40,0 29,5 40,6 39,8 33,2 31,9 42,3
2002 45,9 56,4 42,2 32,7 45,1 42,8 32,5 34,7 46,2
2004 48,6 57,8 44,7 36,3 49,3 47,1 39,5 37,5 48,7
2006 48,9 58,1 45,4 38,0 51,0 49,1 42,9 39,1 48,2
2007 49,8 56,7 45,6 36,4 47,4 50,9 41,9 42,4 50,6
2007/2000
+7,4 +2,4 +5,6 + 6,9 + 6,8 +11,1 +8,7 +10,5 +8,3
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007, Niên giám thống kê 2007, Nhà xuất bản thống kê 2008
Sự giảm về diện tích trồng lúa do một số nguyên nhân sau: trước tín hiệu thị trường
nông dân chuyển đất lúa sang nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây công nghiệp, cây ăn
quả có giá trị cao hơn và một bộ phận khác chuyển sang mục đích phi nông nghiệp do các
địa phương thực hiện công nghiệp hoá và đô thị hoá. Điều đáng chú ý là 78% diên tích lúa
bị giảm (362 ha trong 465 ha) lại thuộc Đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu
Long (Bảng 1). Thực trạng này đặt ra hai tình tình huống, nếu diện tích giảm do chuyển
sang làm các sản phẩm nông nghiệp khác (thuỷ sản, rau, màu, cây ăn trái ) thì không ảnh
huởng đến an ninh về lương thực - thực phẩm. Nếu diện tích lúa bị giảm do chuyển sang
mục đích phi nông nghiệp có thể ảnh hưởng lớn đến an ninh về lương thực, thực phẩm. Từ
năm 2001 đến hết năm 2007, tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi trong cả nước là gần
500.000 ha (chiếm khoảng 5% đất nông nghiệp đang sử dụng), bình quân mỗi năm nông
dân ước phải nhường 74.000 ha đất sản xuất phục vụ cho việc phát triển các khu công
nghiệp và đô thị. Do đó, cần có sự cân nhắc và lựa chọn chiến lược giữa phát triển các khu
công nghiệp và đô thị với việc bảo tồn quỹ đất nông nghiệp. Điều đáng chú ý là đồng bằng
sông Hồng có năng suất lúa là cao nhất nhưng có tốc độ tăng năng suất là chậm nhất trong
cả nước (Bảng 2). Năng suất lúa hiện nay đã cao hơn trước đây, những vẫn thấp hơn các

nước phát triển khoảng 20-30%, nhưng năng suất hoa mầu thấp hơn 50% so với các nước
trong khu vực. Diện tích trồng mầu chiếm 1/5 tổng diện tích trồng cây lương thực, thực
phẩm nhưng sản lượng màu thu được lại chỉ chiếm khoảng 1/10 sản lượng lương thực
phẩm của cả nước. Như vậy, khoảng cách về năng suất các loại cây lương thực, thực phẩm
của chúng ta so với các nước phát triển, đang còn khá lớn, nhất là các loại hoa màu như
5
ngô, khoai, sắn, đậu, đỗ, rau. Do đó, để tăng thêm đuợc sản lượng lương thực, cần tập
trung cao độ vào giải pháp công nghệ để cải thiện năng suất và chất lượng sản phẩm.
2.2.2 Cung về lương thực giữa các vùng
Trong những năm gần đây, sản lượng lúa cả nước tính bằng thóc tăng gần 3,4 ngàn tấn
(từ trên 32,5 triệu tấn lên 35,9 triệu tấn) (Bảng 3). Bình quân lương thực đầu người giai
đoạn 1996-2001 tăng từ 430,3 kg/năm lên 501,1 kg/năm (tăng 3,29%), giai đoạn 2002-
2006 tăng từ 540,5kg/năm lên 551,2 kg/năm (tăng 1,95%). Tuy nhiên, trong khi tất cả các
vùng đều tăng, đồng bằng sông Hồng lại có sản lượng giảm tới 288 nghìn tấn. Hai vùng
ĐBSCL và ĐBSH chiếm gần 70% tổng sản lượng lúa cả nước (24,9 triệu tấn / 35,9 triệu
tấn). Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm 52 - 55% sản lượng và hơn 90% sản
lượng lúa gạo xuất khẩu của cả nước. Các vùng như Đông Bắc, Bắc Trung Bộ, Đông Nam
Bộ mức cung về lương thực đủ tiêu dùng tại chỗ, có thể thiếu hụt vào những trường
hợp thời tiết không thuận lợi đối với nông nghiệp. Các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên có sản
lượng lúa thấp nhất, xét về cung cầu lúa gạo tại chỗ thì cung chưa đáp ứng được cầu, tình
trạng thiếu hụt lúa gạo có thể là thường xuyên. Do đấy, giải quyết vấn đề an ninh lương
thực-thực phẩm phải tiếp cận theo từng vùng.
Bảng 3. Sản lượng lúa cả nước và từng vùng giai đoạn 2000 – 2007 Đơn vị: 1000
tấn
Năm Cả nước
Vùng
ĐBSH
Đông
Bắc
Tây

Bắc
Bắc.T
Bộ
Nam.T
Bộ
Tây.
Nguyên
Đông.
N Bộ
ĐB
SCL
2000 32.529,5 6.586,6 2.065,0 403,6 2.824,0 1.681,6 586,8 1.679,2 16.702,7
2002 34.447,2 6.752,2 2.475,3 488,1 3.221,1 1.711,0 606,6 1.679,7 17.707,6
2004 36.148,9 6.710,2 2.490,6 548,8 3.377,8 1.890,8 781,4 1.782,1 18.567,2
2006
35.849,5
6.522,6
2.512,3
590,0
3.484,6
1.934,4
880,5
1.691,6
18.229,2
2007 35.867,5 6.298,1 2.517,3 574,0 3.239,3 1.911,8 858,4 1.831,5 18.637,1
2007/2000
+3.374,0 -288,5 +452,3 +296,4 +415 +230,2 +271,6 +152,3 +1.934,4
L. thực
BQĐN (kg)
(2007)

421 342 263 216 302 266 174 129 1.106
Nguồn: Niên giám thống kê 2007, TCTK, NXB Thống kê
2008;

2.2.3 Tình hình lưu thông và tiêu dùng lương thực của Việt Nam
Lương thực mà chủ yếu là lúa gạo của Việt Nam sản xuất ra hàng năm được dùng vào: tiêu
dùng của người dân cả nước, để làm giống, làm thức ăn chăn nuôi, dự trữ quốc gia và
xuất khẩu. Trong đó, lượng lúa gạo tiêu dùng trong nước chiếm khoảng 75-80%, xuất
khẩu khoảng 20-25% sản lượng thóc hàng năm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn, 2008).
Lượng gạo xuất khẩu: Gạo Việt Nam đã được xuất khẩu sang hơn 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới. Châu Á là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam. Tuy
nhiên, các nước nhập khẩu ở châu Á phần lớn thuộc những nhóm nước có thu nhập thấp và
là các nước đang phát triển. Các thị trường tiêu thụ gạo chất lượng cao và rất cao là
6
Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, nhưng thị phần rất nhỏ và chưa có dấu hiệu tăng (Trung tâm
Thông tin PTNNNT, 2008). Tình hình xuất và nhập khẩu gạo của Việt Nam thể hiện ở
Hình 1 dưới đây. Năm 2005, đạt sản lượng xuất khẩu là cao nhất (5,25 triệu tấn).
Hình 1: Xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1976-2007
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0
Năm
XK gạo (1000 tấn) NK gạo (1000 tấn)
Nguồn: Trung tâm Thông tin PTNNNT, 2008.
Lượng thóc tiêu thụ trong nước: Lượng lương thực tiêu thụ trong nước hàng năm vào

khoảng 29,2 triệu tấn. Trong đó: người ăn khoảng 20,2 triệu tấn (73,6%), dự trữ (1,3 triệu
tấn), dùng chăn nuôi 6,4 triệu tấn (21,9%), để làm giống 1,1 triệu tấn (3,6%), chế biến 0,2
triệu tấn (0,7%). Mức lương thực tiêu dùng sản phẩm gạo bình quân đầu người ở nước ta ở
mức trung bình so với các nước trong vùng (Bảng 4). So với Thái Lan, giai đoạn 199-2001
tăng hơn 57%. Mức tiêu dùng lương thực một người tăng từ 157 kg/người/năm những năm
1970-72 tới 167 kg những năm 1999-2001nhưng lại có xu hướng giảm xuống còn 150 kg
giai đoạn 2005 - 2008 và theo dự báo có khả năng giảm xuống 110 kg giai đoạn 2015 -
2020. Điều này có thể tương đồng với mức tiêu dùng của Thái Lan giai đoạn 1999- 2000.
Đến nay, cơ bản toàn quốc đã giải quyết được vấn đề thiếu đói. Tuy nhiên, theo số liệu
Tổng cục Thống kê, cả nước hiện có khoảng 6,7% số hộ thiếu đói lương thực. Trong đó
khu vực nông thôn chiếm 8,7% và thành thị là 2,2%. Bình quân mức tiêu thụ calo của
người tiêu dùng Việt Nam khoảng 2.200 kCalo. Điều đáng chú ý là ở nông thôn 60% năng
lượng dinh dưỡng vẫn từ lương thực.
7
Bảng 4. Tiêu dùng gạo ở một số nước châu Á
Nước
Tiêu dùng gạo
1999-2001
(tấn)
Tiêu dùng bình quân đầu
người
(kg/người/năm)
Thay đổi dân số (%)
1970-1972 1989-1991 1999- 2001 1970-2000 2000-2030
Các nước ASEAN
Inđônêxia
31.62
105 147 149 77 33
Việt nam
13.03

157 154 167 82 41
Mianma
9.71 160 209 203 78 31
Philíppin
7.65 86 96 101 107 49
Thái lan
6.83 152 110 109 74 27
Campuchia
2.03 163 158 155 89 82
Malaixia
1.96 123 81 88 105 48
Các nước châu Á khác
Trung Quốc 113.51
79 93 89 54 17
Ấn Độ 76.45
69 79 76 82 40
Bănglađét 21.37
150 153 155 94 43
Nhật Bản
7.53 89 65 59 22 -5
Hàn Quốc
4.12 119 104 88 46 12
Nêpan
2.27 82 106 99 94 81
Pakítxtan
1.78 29 14 13 128 93
Sri Lanca
1.77 95 93 94 54 21
CHDCND
Triều Tiên

1.73 82 73 78 55 19
Iran 1.89 25 31 27 144 49
Các tiểu vương
quốc Ả Rập
0.79 23 27 39 254 120
Nguồn: FAOSTAT database, FAO, 2004
Dân số nước ta tiếp tục tăng đòi hỏi tăng nguồn cung lương thực-thực phẩm. Năm 2007,
dân số toàn quốc trên 85,1 triệu người, theo dự báo dân số nước ta tiếp tục tăng bình quân
khoảng 1,0-1,2%/năm trong vài thập niên tới. Đến năm 2020, dân số nước ta khoảng 100
triệu người và ổn định khoảng 120 triệu người sau năm 2030. Bình quân lương thực đầu
người giai đoạn 1996-2001 tăng từ 430,3 kg/năm lên 501,1 kg/năm (tăng 3,29%), giai đoạn
2002-2006 tăng từ 540,5kg/năm lên 551,2 kg/năm (tăng 1,95%) (Đào Thế Anh, 2008).
8
Thóc gạo dự trữ: được hình thành ở cấp quốc gia và cấp hộ gia đình. Ở cấp hộ gia
đình, thóc được dữ trữ chủ yếu ở các hộ nông dân sản xuất lúa, nhưng đồng thời cũng là
thóc
để tiêu dùng tại chỗ, rất khó bóc tách riêng thóc ăn và thóc dự trữ. Dự trữ cấp quốc
gia do Chính phủ trực tiếp quản lý dưới hình thức thóc và gạo. Năm 2005-2006 dự trữ
quốc gia tính bằng thóc vào cuối năm đạt khoảng 1,3 triệu tấn, năm 2007 chỉ còn trên 1,0
triệu tấn. Đến cuối Quý I năm 2008, khi xảy ra biến động giá gạo, dự trữ quốc gia chỉ
còn khoảng trên 107 ngàn tấn. Do đó, cần tính mức dự trữ quốc gia một cách hợp lý để
đảm bảo có đủ lương thực trang trải cho nhu cầu trước những cú sốc bất thường.
2.3. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO CHÍNH SÁCH AN NINH LƯƠNG
THỰC -THỰC PHẨM CHO VIỆT NAM
2.3.1 Quan điểm về an ninh lương thực-thực phẩm
- Ở tầm quốc gia, chiến lược an ninh lương thực đòi hỏi phải có tầm nhìn tổng thể, dài
hạn về sự gia tăng về dân số, quỹ đất nông nghiệp của quốc gia, mức độ ảnh hưởng của
sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự giảm diện tích nông nghịêp do nước biển dâng lên để
từ đó tính đến chiến lược sử dụng quỹ đất cho phát triển các khu công nghiệp và đô thị.
Ở tầm quốc gia, có định huớng quy hoạch các vùng sản xuất lương thực, thực phẩm

theo lợi thế so sánh của vùng, không phân bổ bình quân các chỉ tiêu quy hoạch. Từ đó,
có chiến luợc đầu tư cho hình thành sản xuất hàng hoá về lương thực, thực phẩm.
- Ở phạm vi từng hộ và người tiêu dùng, chiến lược an ninh lương thực phải tập trung
vào tạo việc làm, tăng thu nhập, phát triển thị trường để tạo điều kiện cho mọi người có
khả năng tiếp cận đủ lương thực-thực phẩm mà họ cần.
- Lương thực - thực phẩm bao gồm cả lương thực, cả thực phẩm, cả phát triển trồng trọt,
chăn nuôi, thuỷ sản. Do đó, chiến lược an ninh lương thực, thực phẩm phải góp phần
tập trung vào các ngành sản xuất đó, không nên hoàn toàn tập trung vào lương thực.
- Chiến lược an ninh về lương thực - thực phẩm phải toàn diện, không chỉ tập trung vào
sản xuất mà còn vào điều tiết cung cầu trong nước, tăng khả năng tiếp cận của người
tiêu dùng tới lương thực, thực phẩm
2.3.2 Cầu về lương thực, thực phẩm
Dự báo với dân số 5,7 tỷ người vào năm 1995 thì trong khoảng 50 - 60 năm nữa, dân số thế
giới còn tăng gấp đôi, nhu cầu lương thực cũng tăng trên mức đó. Trước đây, lương thực
chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu lương thực trực tiếp để ăn và nhu cầu gián tiếp thông qua
thực phẩm về thịt, trứng, sữa cho người, ngày nay lương thực lại còn dùng để sản xuất
nhiên liệu sinh học (Mạng thông tin khoa học công nghệ Việt Nam, 2008). Hiện nay, có tới
41 nước khuyến khích sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học để giảm bớt phụ thuộc vào
dầu mỏ. Việc sử dụng lương thực theo hướng trên đây đã làm cho sản lượng ngũ cốc dù
tăng, chẳng hạn năm 2007, sản lượng ngũ cốc trên thế giới đạt hơn hai tỷ tấn, tăng 4,3%,
nhưng có tới 33 nước trên thế giới vẫn thiếu lương thực.
9
Ở Việt Nam, với dân số hiện nay là 86.2 triệu người (2008), có thể tăng lên 100 triệu người
trong tương lai không xa, nhưng diện tích đất nông nghiệp của nước ta không nhiều. Cả
nước chỉ có hơn 9 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có trên 4 triệu ha đất trồng lúa mà
diện tích đất nông nghiệp, kể cả đất trồng lúa đang giảm dần trong quá trình đô thị hóa,
công nghiệp hóa. Vấn đề đáng lo ngại trong tương lai không xa là sự biến đổi khí hậu có
thể tác động nặng nề đến nước ta. Trong tương lai gần, lương thực ở nước ta sẽ chi dùng
vào các mục đích:
- Lương thực ăn cho người, chủ yếu dựa vào lúa gạo. Trong tương lai, mức tiêu dùng

bình quân đầu người giảm đi, nhưng tổng nhu cầu lương thực vẫn còn tăng, nhưng sản
lượng lúa gạo của nước ta vẫn đủ nuôi khoảng 120 triệu người trong năm 2030.
- Thức ăn cho chăn nuôi. Chủ yếu dựa vào ngô làm thức ăn tinh, phục vụ nhu cầu thịt,
trứng, sữa tăng do mức sống và dân số tăng. Sản lượng ngô ở Việt Nam rất thấp, khó
tăng thêm nhiều, Việt Nam vẫn là một nước nhập khẩu lớn về ngô, đậu tương để sản
xuất thức ăn tinh cho chăn nuôi.
- Về sản xuất nhiên liệu sinh học: Nước ta cũng có thể dựa vào phát triển mía đường để
sản xuất ethanol nhưng quy mô không lớn, giá thành cao. Nhưng nước ta có tiềm lực to
lớn về khí hậu, đất đai, lao động để phát triển cây diesel sinh học, chủ yếu ở vùng đồi
núi, dựa vào quỹ đất hơn 4 triệu ha đất đồi núi chưa sử dụng, một phần diện tích đất
quy hoạch để trồng rừng phòng hộ chuyển một phần sang đất nông - lâm nghiệp và đất
nương rẫy có độ dốc cao, không tranh chấp với đất trồng cây lương thực, tạo nguồn
nguyên liệu dồi dào phát triển sản xuất ngành kỹ nghệ lớn về diesel sinh học (Mạng
thông tin khoa học công nghệ Việt Nam, 2008).
2.3.3 Cân đối cung và cầu lương thực
Theo dự thảo của Chiến lược an ninh lương thực quốc gia của Việt Nam do Bộ nông
nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng thì cung và cầu lương thực của Việt Nam
đến năm 2020 được thể hiện ở Bảng 5. Xoay quanh con số dự thảo này có một vài bình
luận sau:
- Nếu chỉ quan tâm đến cân đối cung cầu của lúa gạo thì chưa thật bao quát các vấn đề
lương thực, thực phẩm. Bởi lẽ các loại lương thực-thực phẩm có thể thay thế cho nhau.
Vì thế, cần xem xét thêm các diện tích ngô, rau đậu, cây ăn quả, thuỷ sản vào cân đối
thì sẽ hợp lý hơn.
- Số liệu ở Bảng 4 chỉ ra rằng trong vòng 30 năm, mức tiêu dùng gạo của người Việt
Nam không giảm. Trong 30 năm tới, xu hướng chung là mức tiêu dùng lương thực trên
đầu người sẽ giảm. Tuy nhiên mức giảm này sẽ chưa đạt đến ngay mức như dự báo
trong dự thảo. Như vậy, khả năng xuất khẩu gạo là mỏng manh.
- Không nên coi xuất khẩu gạo là giải pháp chiến lược lâu dài. Mức xuất khẩu gạo vào
những năm 2020 sẽ thấp hơn 3,3 triệu tấn.
Bảng 5. Dự kiến cân đối cung cầu thóc gạo

(
*
)
của Việt Nam đến năm 2020
Chỉ
tiêu 2007 2010 2015 2020
1. Dân số (triệu người)
85,2 88,5 93,6 98,6
2. DT. Đất lúa (triệu ha)
4,1 4,0 3,8 3,5
10
3. DT.trồng lúa cả năm(triệuha)
7,2 7,1 6,9 6,8
4. Năng suất lúa (tấn/ha/vụ)
4,98 5,14 5,40 5,65
5. SL. Thóc cả năm(triệu tấn)
35,8 36,5 37,2 38,5
6. Nhu cầu (triệu tấn thóc)
29,2 31,1 32,1 35,2
- Thóc giống
1,1 1,1 1,0 1,0
- Chăn nuôi và hao hụt
6,4 7,0 7,5 8,5
- Chế biến
0,2 0,3 0,5 1,0
- Để ăn và dự trữ quốc gia
Trong đó, riêng để ăn
21,5 22,7 23,1 24,7
19,97 17,98 17,55 16,95
7. Cân đối thóc

+
6,6
+ 5,4 + 5,1 + 3,3
8. Dự kiến xuất khẩu (triệu tấn gạo)
4,3 3,5 3,3 2,1
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2008, Chiến lược an ninh lương thực quốc gia đến năm
2020, Dự thảo lần 9.
(
*
)
Tỷ lệ quy đổi từ thóc sang gạo khoảng 64%.
2.3.4 Một số định hướng giải pháp cho chiến lược an ninh về lương thực-thực phẩm
1) Chiến lược sản xuất lương thực-thực phẩm và bền vững
Chiến lược sản xuất lương thực – thực phẩm bền vững được đặt ra ở phạm vi quốc gia.
Trong điều kiện, kinh tế thị trường, không nên đặt chiến lược sản xuất lương thực ở tất cả
các huyện, các tỉnh. Nếu yêu cầu tất cả các địa phương đều quy hoạch làm lương thực thì
đó là tụt lùi lại chế độ sản xuất kế hoạch tập trung kém hiệu quả. Công tác quy hoạch sản
xuất lương thực, thực phẩm phải được dựa trên lợi thế so sánh của từng vùng. Ở phạm vi
quốc gia, chiến lược này bao gồm các nội dung sau:
- Làm tốt công tác quy hoạch sử dụng đất. Công tác quy hoạch sử dụng đất hiện nay do
nhiều bộ ngành tiến hành, dẫn đến tình trạng chồng chéo, lãng phí tài nguyên đất (nhiều
đất màu mỡ đang bị chuyển đổi thành mục đích phi nông nghiệp). Do vậy, công tác quy
hoạch đất cho các mục đích sử dụng khác nhau chỉ nên quy vào một mối - do Bộ Tài
nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm. Từ quy hoạch tổng thể, tiến hành chi tiết các
quy hoạch về cồng nghiệp, nông nghiệp, giao thông Tuy nhiên quy hoạch về nông
nghiệp phải đi trước một bước so với quy hoạch công nghiệp và đô thị. Cần có sự cân
nhắc và lựa chọn chiến lược giữa phát triển các khu công nghiệp và đô thị với việc bảo
tồn quỹ đất nông nghiệp. Cần tính toán thận trọng hơn về quỹ đất nông nghiệp (không
thuần thuý chỉ quan tâm đến diện tích trồng lúa) đến giai đoạn 2020 và 2030 đảm bảo
cho Việt Nam có đủ mức cung về lương thực và thực phẩm.

- Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, thực hiện tốt quy hoạch nông nghiệp. Trong quy
hoạch nông nghịêp, cần tập trung vào quy hoạch vùng sản xuất lương thực-thực phẩm
trọng điểm: Trên cơ sở tính toán lợi thế so sánh của từng vùng, hình thành các vùng
quy hoạch tập trung. Tập trung đầu tư cho Đồng bằng Sông Cửu Long là vùng trồng
lúa và cây ăn trái nhiệt đới. Dựa trên khả năng áp dụng công nghề để tăng năng suất,
cần ổn định diện tích khoảng 4 triệu ha. Cần xây dựng quy hoạch tổng quan về sản xuất
lúa trên phạm vi toàn quốc và theo từng vùng để trình Quốc hội phê duyệt và cần có
pháp lệnh quy hoạch đất đai để ổn định diện tích đất trồng lúa và một số cây trồng
khác; đồng thời thiết lập hệ thống thông tin an ninh lương thực nhằm nắm chính xác
11
tình hình sản xuất, thu hoạch, sản lượng lúa để chủ động lượng lúa gạo dự trữ và xuất
khẩu. Thực hiện chính sách đầu tư công cho thuỷ lợi, giao thông, chế biến, cơ sở hạ
tầng, nghiên cứu khoa học, chuyển giao, giảm thiểu rủi ro và thiên tai cho các vùng
được quy hoạch cho hình thành nông nghiệp hàng hoá. Thực hiện quy hoạch sản xuất
thực phẩm như rau, quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản theo lợi thế so sánh vùng, tập
trung đầu tư chiều sâu để hình thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung, tăng sức cạnh
tranh của mặt hàng nông sản.
- Tăng cường đầu tư áp dụng công nghệ và kỹ thuật tiên tiến để tăng năng suất, sản
lượng và chất lượng sản phẩm. Đây là hướng đi chủ đạo của vấn đề an ninh lương
thực, thực phẩm trong những thập kỷ tới nhất là ở các vùng trọng điểm về lúa như đồng
bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Thực hiện các chương trình khuyến
nông, bảo vệ thực vật, giảm thiểu rủi ro để giúp nông dân tăng được năng suất và chất
lượng sản phẩm. Áp dụng giống tốt và các biện pháp canh tác để tăng hiệu quả sản xuất
kinh doanh lương thực - thực phẩm. Triển khai đề án cơ giới hóa trong nông nghiệp,
trọng tâm là áp dụng cơ giới hóa trong các khâu làm đất, gieo cấy, thu hoạch, bảo quản,
chế biến lúa ngô. Đi đôi với đó là phát triển nguồn nhân lực, tăng cường hợp tác quốc tế
về phát triển lúa gạo, nâng cao chất lượng dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
- Cần có chính cách hỗ trợ nông dân ở vùng quy hoạch về chuyển giao công nghệ,
đầu tư hạ tầng, công nghệ sau thu hoạch, tiêu thụ sản xuất lương thực - thực phẩm;
- Khuyến khích và hướng dẫn những hộ nông dân không nằm trong vùng quy hoạch

phản ứng hiệu quả với các tín hiệu thị trường để chuyển sang cây trồng khác cho giá
trị kinh tế cao hơn cây lúa.
2) Thực hiện dự trữ và vận hành xuất, nhập khẩu hợp lý
Tiếp tục duy trì quỹ bình ổn về lương thực - thực phẩm. Mức dự trữ lương thực phải đảm
bảo cho quốc gia ổn định được giá lương thực trong cả lúc mất mùa và được mùa, vượt qua
được các cú sốc về kinh tế- rủi ro về tự nhiên. Cần có chiến lược xuất nhập khẩu linh hoạt
và hợp lý. Sự phản ứng nhanh nhạy trong điều hành xuất - nhập khẩu có tác dụng lớn tới an
ninh lương thực và thực phẩm. Sử dụng linh hoạt nguồn dự trữ lúa gạo quốc gia để cung
cấp trực tiếp cho nhóm hộ dễ bị tổn thương, bị thiên tai, vùng sâu vùng xa có khó
khăn về lương thực khi xảy ra mất mùa, thiên tai hay dịch bệnh.
3) Tạo việc làm và tăng thu nhập cho mọi người
Tạo việc làm là điều kiện đủ cho người tiêu dùng có được lương thực. Chiến lược về an
ninh lương thực cần gắn chặt chẽ với việc tạo việc làm. Cần xây dựng các chương trình
việc làm để mọi người lao động có việc làm, từ đó tăng được thu nhập và tiếp cận đủ lương
thực - thực phẩm mà họ cần.
4) Tạo môi trường để cho thị trường lương thực - thực phẩm phát triển lành mạnh
An ninh lương thực - thực phẩm chỉ được đảm bảo khi có thị trường phát triển, có cạnh
tranh lành mạnh, với giá hợp lý. Do vây, Chính phủ cần đầu tư công vào phát triển hạ tầng
cho thị trường như đường giao thông, cầu cống, bến cảng, kho bãi, cung cấp thông tin, tạo
điều kiện cho các tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào kinh
12
doanh, phân phối lương thực-thực phẩm. đầu tư phát triển thị trường cần được hướng vào
các vùng nông thôn, các vùng sâu và vùng xa.
KẾT LUẬN
Vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm là nội dung trọng tâm của của chính sách nông
nghiệp của các quốc gia. Hoạch định chiến lược và chính sách cho an ninh lương thực và
thực phẩm, cần có quan điểm và giải pháp toàn diện cả về lương thực và thực phẩm, chú ý
đến sản xuất lương thực thực phẩm, cơ chế xuất khẩu và nhập khẩu kinh hoạt, phát triển hệ
thống thị trường, tạo việc làm và thu nhập để tăng sức mua của người tiêu dùng.
Để đảm bảo cho Việt Nam thực hiện được an ninh về lương thực-thực phẩm, cần thiết phải

xây dựng chiến lược sản xuất lương thực-thực phẩm và bền vững, thực hiện dự trữ và vận
hành xuất, nhập khẩu hợp lý, tiếp tục duy trì quỹ bình ổn về lương thực - thực phẩm đảm
bảo cho quốc gia ổn định được giá lương thực trong cả lúc mất mùa và được mùa, vượt qua
được các cú sốc về kinh tế- rủi ro về tự nhiên, tạo việc làm và tăng thu nhập cho mọi người
và tạo môi trường để cho thị trường lương thực - thực phẩm phát triển lành mạnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2008, Chiến lược an ninh lương thực quốc
gia đến năm 2020, Dự thảo lần 9, FAO, 2004, FAOSTAT database
2. Tổng cục thống kê, 2007, Niên giám thống kê 2007, Nhà xuất bản thống kê 2008
3. Đỗ Kim Chung, 1997, Vì sao được mùa mà vẫn còn nhiều người đói, Khoa học và đời
sống, số 42, 14-20-10-1997
4. Vneconomy, 2008, Việt Nam: Chấm dứt thiếu đói lương thực vào năm 2012,
Vnecono.vn, />5. 5.IRRI (International Rice Research Institute). 2008. Background Paper: The rice
crisis: What needs to be done? Los Banos (Philippines): IRRI. 12 p. www.irri.or g

.
6. Mạng thông tin khoa học công nghệ Việt Nam, 2008, Cách tiếp cận mới về ngành sản
xuất lương thực, , trích lúc 11h22’ ngày 19 tháng 11 năm 2008.
7. Đào Thế Anh, 2008, Thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển ngành hàng
lúa gạo để đảm bảo an ninh lương thực đến năm 2015 và năm 2010, Viện cây lương
thực và thực phẩm.
13

×