Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Một số vấn đề về giới hạn xét xử " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.93 KB, 5 trang )



nghiên cứu - trao đổi nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 6/2003 47




TS. Nguyễn Văn Huyên *
iu 170 B lut t tng hỡnh s
(BLTTHS) v gii hn ca vic xột x
s thm quy nh: "To ỏn ch xột x nhng
b cỏo v nhng hnh vi theo ti danh m
vin kim sỏt truy t v tũa ỏn ó quyt nh
a ra xột x". õy l ch nh mi c
a vo BLTTHS. Vic ỏp dng iu lut
ny vo thc tin xột x cũn cú nhiu khú
khn bi s nhn thc v hiu bit v ni
dung ca iu lut cha thng nht. Mi
ngi u hiu ni dung th nht ca iu
lut l tũa ỏn ch xột x nhng b cỏo m
vin kim sỏt ó truy t v tũa ỏn ó quyt
nh a ra xột x. Khụng cú ý kin no cho
rng tũa ỏn cú quyn xột x c ngi m vin
kim sỏt cha truy t. Nhng ni dung th hai
ca iu lut l tũa ỏn ch xột x nhng hnh
vi theo ti danh m vin kim sỏt truy t v
tũa ỏn ó quyt nh a ra xột x thỡ cũn
nhiu ý kin khỏc nhau. í kin thỡ cú nhiu
nhng tp trung vo hai loi.
Loi ý kin th nht cho rng to ỏn ch


cú quyn xột x v kt ti b cỏo theo ti danh
m vin kim sỏt ó truy t, khụng cú quyn
xột x v kt ti b cỏo theo ti danh nng hn
ti danh m vin kim sỏt truy t. Nu to ỏn
xột x theo ti danh nng hn l lm thay c
chc nng truy t ca vin kim sỏt. iu ny
trỏi vi chc nng, nhim v ca to ỏn ó
c ghi nhn trong Hin phỏp.
Loi ý kin th hai cho rng to ỏn c
xột x v kt ti b cỏo v bt c loi ti
phm no (c nng hn v nh hn) min sao
phự hp vi hnh vi phm ti ca
b cỏo. Nu khụng cho to ỏn c xột x ti
danh khỏc vi ti danh ó truy t thỡ to ỏn cú
th ra bn ỏn tuyờn b b cỏo khụng phm ti
nh vin kim sỏt ó truy t. Chớnh vỡ cũn
nhiu quan im khỏc nhau trong vic thc
hin gii hn ca vic xột x nờn To ỏn
nhõn dõn ti cao, Vin kim sỏt nhõn dõn ti
cao ó ra Thụng t liờn ngnh s 01/TTLN
ngy 8/12/1988 hng dn v vic thc hin
gii hn xột x. Thụng t nờu rừ: Tũa ỏn
khụng c xột x nhng ngi v nhng
hnh vi cha c vin kim sỏt truy t v
khụng c xột x b cỏo theo ti danh nng
hn ti danh m vin kim sỏt truy t
Trong trng hp to ỏn ngh vin kim
sỏt i ti danh nng hn v ó trao i m
vin kim sỏt khụng nht trớ thỡ c hai bờn u
phi bỏo cỏo ngay vi cp trờn ca mỡnh. Th

trng hai c quan cp trờn cn trao i ngay,
nu thng nht ý kin thỡ hng dn cp di
thi hnh, nu vn khụng thng nht ý kin thỡ
to ỏn cp di phi xột x theo ti danh m
vin kim sỏt ó truy t, khụng c tuyờn l
"b cỏo khụng phm ti m vin kim sỏt ó
truy t".
Vi hng dn trờn õy, nhỡn chung cỏc
to ỏn ó thc hin thng nht nhng vn


* Tr

ng

o t
o cỏc chc danh t

phỏp



nghiªn cøu - trao ®æi
48

T¹p chÝ luËt häc sè 6/2003

liên quan đến giới hạn xét xử sơ thẩm. Tuy
vậy, trong thực tiễn xét xử còn có trường hợp
toà án đề nghị viện kiểm sát chuyển sang tội

danh nặng hơn nhưng viện kiểm sát không
nhất trí, hai cơ quan đã báo cáo lên cấp trên
của mình nhưng vẫn không thống nhất được
quan điểm. Nếu theo hướng dẫn của Thông
tư số 01/TTLN ngày 8/12/1988 thì tòa án vẫn
phải xét xử theo tội danh mà viện kiểm sát đã
truy tố mà không được tuyên là "bị cáo
không phạm tội mà viện kiểm sát đã truy tố".
Thực tiễn xét xử trong thời gian qua đã
cho thấy quy định về giới hạn xét xử của toà
án có nhiều điểm không hợp lí:
Thứ nhất, giới hạn tòa án không được xét
xử theo tội danh khác nặng hơn tội danh mà
viện kiểm sát đã truy tố là gián tiếp thừa
nhận tội danh do viện kiểm sát truy tố là
đúng nên toà án chỉ xét xử theo tội danh đó
và lựa chọn mức hình phạt đã quy định trong
điều luật do viện kiểm sát đã viện dẫn. Điều
này trái với chức năng của viện kiểm sát
được pháp luật quy định vì như thế viện
kiểm sát đã thực hiện một phần chức năng
xét xử và xác định tội danh được tiến hành
trước khi xét xử là vi phạm nguyên tắc
"không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có
bản án kết tội đã có hiệu lực của tòa án".
Thứ hai, quy định về giới hạn xét xử
buộc tòa án phải xét xử theo tội danh mà
viện kiểm sát đã truy tố là trái với nguyên tắc
đã được Hiến pháp quy định "Khi xét xử,
thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật". Nguyên tắc này cho phép tòa
án xét xử độc lập mà không bị lệ thuộc, chi
phối theo ý kiến hoặc quyết định của bất kì
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào. Để quyết
định áp dụng hình phạt, tòa án không chỉ đơn
thuần căn cứ vào tội danh đã nêu trong bản
cáo trạng mà qua việc xét xử, tòa án phải
trực tiếp xem xét đánh giá toàn bộ các chứng
cứ của vụ án để xác định cho đúng tội danh
mà bị cáo đã thực hiện. Trên cơ sở đó mới áp
dụng hình phạt tương ứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Như vậy, tội danh do hội đồng xét xử xác
định cũng có thể trùng với tội danh nêu trong
bản cáo trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử
nhưng cũng có thể khác theo hướng nhẹ hơn
hoặc nặng hơn. Vì thế phải quy định cho tòa
án có quyền xét xử và kết tội bị cáo theo
đúng tội danh mà bị cáo đã thực hiện hành vi
phạm tội.
Thứ ba, quy định về giới hạn xét xử mâu
thuẫn với nguyên tắc "xác định sự thật của
vụ án", theo đó tòa án phải áp dụng mọi biện
pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Thế
mà, khi tòa án thấy có đầy đủ chứng cứ để
xác định bị cáo phạm tội này lại phải tuyên
án bị cáo phạm tội khác như truy tố của viện
kiểm sát thì sao còn gọi là xác định sự thật
vụ án nữa?

Thứ tư, quy định về giới hạn xét xử mâu
thuẫn với nhiều quy định khác của BLTTHS
hiện hành. Chẳng hạn, Điều 196 quy định:
"Các thành viên của hội đồng xét xử phải
giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng
cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề
một ", "khi nghị án chỉ được căn cứ vào các
chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại
phiên tòa"; Điều 173 quy định: "Bản án của
tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay
không phạm tội, hình phạt và các biện pháp


nghiªn cøu - trao ®æi nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc sè 6/2003 49

tư pháp khác"; Điều 198 quy định: "Trong
bản án phải trình bày việc phạm tội của bị
cáo, phân tích những chứng cứ xác định có
tội và chứng cứ xác định vô tội, xác định bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội và nếu
phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản
nào của BLHS". Các quy định trên đều cho
phép tòa án có quyền thảo luận và căn cứ vào
những chứng cứ của vụ án để quyết định bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội, nếu
phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào
của BLHS. Giới hạn xét xử buộc tòa án phải
xét xử theo tội danh mà viện kiểm sát đã truy
tố thì những quy định trên chỉ còn là hình

thức để tòa án hợp pháp hóa một tội danh đã
được viện kiểm sát xác định.
Thứ năm, quy định về giới hạn xét xử
không phù hợp với quy định tại khoản 3
Điều 221 BLTTHS: "Trong trường hợp viện
kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng
cáo yêu cầu thì tòa án cấp phúc thẩm có thể
tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về
tội nặng hơn ". Quy định này cho phép tòa
án cấp phúc thẩm được xét xử theo tội danh
nặng hơn tội danh mà tòa án cấp sơ thẩm đã
xét xử.
Với những bất cập trên, Điều 170
BLTTHS về "giới hạn xét xử" cần được sửa
đổi. Nhưng sửa đổi theo hướng nào để vừa
phù hợp với thực tiễn xét xử, vừa bảo đảm cơ
sở lí luận và không được trái hoặc mâu thuẫn
với các quy định khác trong BLTTHS. Theo
chúng tôi, ngoài việc xem xét những vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng còn phải xem
xét các quy định trước khi ban hành
BLTTHS về giới hạn xét xử và tham khảo
quy định của luật tố tụng hình sự nước ngoài.
Có thể thấy rằng trước khi ban hành
BLTTHS, trong pháp luật TTHS của Nhà
nước ta không có quy phạm riêng về giới hạn
xét xử nhưng như thế không có nghĩa là việc
xét xử không có giới hạn. Thông qua các quy
định cụ thể từ việc truy tố bị can, thay đổi
nội dung truy tố đến các quyền hạn của tòa

án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại
phiên tòa mà giới hạn xét xử được xác định.
Những vấn đề tòa án chưa thống nhất với
viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng,
số người bị đưa ra xét xử được giải quyết
trong cuộc họp trù bị với viện kiểm sát nhân
dân. Theo Thông tư số 16/TATC ngày
27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm hình
sự thì sau khi trao đổi ý kiến mà viện kiểm
sát nhân dân nhất trí với tòa án nhân dân về
việc phải điều tra bổ sung mới hoặc việc
phạm pháp mới thì tòa án vẫn quyết định đưa
vụ án ra phiên tòa xét xử và căn cứ vào các
chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, đối
chiếu với pháp luật mà quyết định bị cáo
phạm tội gì theo quy định của pháp luật hình
sự. Những trường hợp tòa án thấy cần phải
đưa bị cáo ra xét xử theo tội danh nặng hơn
tội danh đã truy tố thì trong quyết định đưa
vụ án ra xét xử phải ghi rõ tội danh mà bị cáo
đã bị viện kiểm sát nhân dân truy tố cùng với
tội danh nặng hơn mà họ có thể bị xét xử và
tống đạt quyết định này cho bị cáo để họ có
đủ thời gian chuẩn bị việc bào chữa về tội
danh bị xét xử tại phiên toà. Một thời gian
dài cho đến khi ban hành BLTTHS, các tòa
án đều áp dụng nguyên tắc trên và đạt được
hiệu quả trong xét xử. Rõ ràng với những
nguyên tắc đó bị cáo không bị định tội trước



nghiªn cøu - trao ®æi
50

T¹p chÝ luËt häc sè 6/2003

khi xét xử và tòa án có toàn quyền trong
việc quyết định bị cáo phạm tội gì trên cơ sở
các chứng cứ đã xem xét tại phiên toà mà
không bị ràng buộc bởi tội danh do viện
kiểm sát đã truy tố. Mặt khác, quyền bào
chữa của bị cáo vẫn được bảo đảm vì bị cáo
có đủ thời gian chuẩn bị bào chữa về tội
phạm sẽ bị xét xử được ghi trong quyết định
đưa vụ án ra xét xử.
Tham khảo luật TTHS của nước ngoài
mặc dù không thấy có điều luật riêng về giới
hạn xét xử nhưng rải rác ở các điều luật đều
quy định về giới hạn xét xử. Điều 167
BLTTHS Malaysia cho phép tòa án được kết
án bị cáo về một tội phạm khác mặc dù bị
cáo không bị buộc về tội phạm đó nhưng có
chứng cứ cho thấy bị cáo đã phạm tội này.
Điều 662 BLTTHS Canada quy định trong
trường hợp bị truy tố về một tội nhưng chứng
minh được bị cáo phạm tội khác thì bị cáo có
thể bị kết án về tội mà bị cáo đã thực hiện.
Điều 120 BLTTHS Trung Quốc quy định hội
đồng xét xử dựa trên những tình tiết và

chứng cứ đã được điều tra rõ, đối chiếu với
quy định của pháp luật mà tuyên bố bị cáo có
tội hay vô tội, phạm tội gì, áp dụng hình phạt
nào hay miễn hình phạt. Điều 192 BLTTHS
Thái Lan quy định: "Nếu tòa án cho rằng
những tình tiết nêu trong cáo trạng đã được
chứng minh trong đề nghị truy tố nhưng đề
nghị truy tố đó lại đề cập một tội phạm sai
hoặc trích dẫn sai các điều luật được áp
dụng, tòa án có quyền phạt bị cáo theo tội
thực tế mà bị cáo phạm phải".
Có thể thấy rằng luật tố tụng hình sự các
nước trên thế giới không có nước nào quy
định bắt buộc tòa án phải xét xử theo tội
danh đã truy tố mà đều cho phép tòa án trên
cơ sở các chứng cứ và tình tiết của vụ án
được thẩm tra tại phiên tòa để quyết định bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội, phạm
tội gì và áp dụng hình phạt tương xứng với
hành vi phạm tội.
Điều 170 BLTTHS của nước ta quy định
giới hạn của việc xét xử có nội dung khác
với các quy định của pháp luật TTHS trước
đây và cũng không phù hợp với pháp luật
quốc tế nên đã gây nhiều khó khăn cho việc
áp dụng. Quy định này cần được sửa đổi sao
cho không trái với các quy định của Hiến
pháp, các nguyên tắc cơ bản và những quy
định khác của BLTTHS, tạo điều kiện để tòa
án được độc lập, xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật. Cùng với việc sửa đổi
Điều 170 BLTTHS cũng cần sửa đổi Điều
153 BLTTHS hiện hành cho phù hợp. Hiện
nay điểm 2 Điều 153 BLTTHS quy định phải
ghi rõ trong quyết định đưa vụ án ra xét xử
tội danh và điều khoản BLHS mà viện kiểm
sát truy tố bị cáo. Nếu không sửa điều luật
này cho phép tòa án được ghi tội danh mà bị
cáo có thể sẽ bị kết án thì tòa án vẫn bị ràng
buộc bởi tội danh ghi trong quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Có ý kiến cho rằng chỉ cần
sửa đổi Điều 170 BLTTHS với nội dung "tòa
án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi
phạm tội đã bị viện kiểm sát truy tố" bỏ cụm
từ "và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử" là
tòa án được xét xử và kết án bị cáo theo tội
danh tương xứng với hành vi phạm tội đã
thực hiện. Theo ý kiến này tòa án vẫn phải
ghi tội danh mà viện kiểm sát đã truy tố
trong quyết định đưa vụ án ra xét xử như quy
định tại khoản 2 Điều 153 BLTTHS nhưng


nghiên cứu - trao đổi nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 6/2003 51

nh th b cỏo khụng cú thi gian chun b
vic bo cha v ti s b kt ỏn l vi phm
quyn bo cha ca h. Cng cú quan im
ngh gi nguyờn iu 170 BLTTHS hin

hnh v thờm vo ni dung: Nu tũa ỏn xột
thy cn x ti danh nng hn ti danh m
vin kim sỏt ó truy t thỡ tũa ỏn tr h s
v yờu cu vin kim sỏt truy t li. Chỳng
tụi thy ý kin ngh b sung vo iu lut
ni dung trờn l khụng cn thit vỡ theo iu
154 BLTTHS hin hnh, tũa ỏn vn cú quyn
tr h s cho vin kim sỏt iu tra b sung
khi cú cn c cho rng b cỏo phm mt
ti khỏc. Nu chng c ó y thỡ vin
kim sỏt cng ch lm th tc truy t li ch
khụng cn tin hnh iu tra. Vỡ th, cú thờm
mt on nh ý kin trờn thỡ bn cht vn
khụng cú gỡ thay i so vi lut hin hnh.
Theo chỳng tụi về giới hạn xét xử nên quy
định: "To ỏn ch xột x nhng b cỏo v
nhng hnh vi phm ti m Vin kim sỏt
truy t v to ỏn ó quyt nh a ra xột x"
l phự hp vi thc tin xột x. Đồng thời
cũng cần quy định thêm một nội dung vào
điều luật về quyết định đa vụ án ra xét xử,
không những đợc ghi tội danh và điều
khoản của BLHS mà viện kiểm sát áp dụng
đối với hành vi của bị cáo mà cần ghi thêm
ti danh m b cỏo cú th b kt ỏn. Khi ú,
tũa ỏn s ghi ti danh do vin kim sỏt truy
t và ti danh m b cỏo cú th b kt ỏn
trong quyt nh a v ỏn ra xột x. Nhn
c quyt nh ny chm nht l 10 ngy
trc khi m phiờn tũa, b cỏo cú thi

gian chun b vic t bo cha v ti danh
s b kt ỏn. Vic sa i nh trờn cho phộp
tũa ỏn cú quyn xột x v kt ỏn b cỏo ỳng
hnh vi phm ti v ti danh m b cỏo ó
thc hin ng thi vn bo m quyn bo
cha ca b cỏo, phự hp vi quy nh ca
Hin phỏp, cỏc nguyờn tc c bn v quy
nh khỏc ca BLTTHS cng nh lut phỏp
quc t.
BLTTHS năm 2003 đợc Quốc hội thông
qua ngày 26/11/2003 quy định tại Điều 196
về giới hạn của việc xét xử nh sau: "Toà án
chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi
theo tội danh mà viện kiểm sát truy tố và toà
án đ quyết định đa ra xét xử. To ỏn cú th
xột x b cỏo theo khon khỏc vi khon m
vin kim sỏt ó truy t trong cựng mt iu
lut hoc mt ti khỏc bng hoc nh hn ti
m vin kim sỏt ó truy t". Quy định này
thực chất không có gì thay đổi so với quy
định của BLTTHS hiện hành và Thông t liên
ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của
TANDTC, VKSNDTC. Theo đó, to ỏn vn
khụng c xột x ti danh khỏc nng hn
ti danh m vin kim sỏt ó truy t. Quy
định của BLTTHS năm 2003 nhằm sửa đổi
Điều 170 BLTTHS hiện hành về "gii hn
ca vic xột x" l khụng trit . Mt khỏc,
im 2 iu 178 BLTTHS năm 2003 vn
quy nh to ỏn ch c ghi "ti danh v

iu khon BLHS m vin kim sỏt áp dụng
i vi hnh vi ca b cỏo" trong quyt nh
a v ỏn ra xột x cng cú ngha l rng
buc to ỏn khụng c xột x theo ti danh
khỏc nng hn ti danh m vin kim sỏt ó
truy t. Nh vậy, khi BLTTHS năm 2003 có
hiệu lực thi hành thì việc áp dụng điều luật về
giới hạn của việc xét xử chắc chắn vẫn không
khắc phục đợc những vớng mắc, tồn tại mà
các toà án đ gặp trong thời gian qua./.

×