Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.84 KB, 13 trang )

Chủ đề:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC
CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
BÀI LÀM
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Người đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta trở thành một Đảng cầm quyền
chân chính, cách mạng, đồng thời lãnh đạo dân tộc Việt Nam giành thắng lợi trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to
lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta. Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động”; kiên định con đường: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội”; dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của nhân dân ta đã giành được
“những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.
Trong tình hình hiện nay, cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng. Bởi vì tư tưởng Hồ Chí Minh với những giá trị khoa học, cách mạng, cao đẹp,
bền vững, là ánh sáng soi đường dẫn dắt cách mạng Việt Nam phát triển đi lên.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người là
một quá trình phát triển tự nhiên của sự thay đổi lần lượt các phương thức sản xuất.
Sự phát triển đó mang tính quy luật như một “tất yếu thép” được quyết định bởi sự
vận động không ngừng của lực lượng sản xuất xã hội. Trong Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản, Mác - Ăngghen khẳng định, sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bẩn và thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa là tất yếu: “Sự sụp đỗ của giai cấp tư sản và thắng
lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”. Tiếp thu tinh thần học thuyết Mác Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, Hồ Chí Minh diễn giải: “Cách sản xuất và sức
1



sản xuất phát triển và biến đổi mãi, do đó mà tư tưởng của người, chế độ xã hội,…
cũng phát triển và biến đổi. Chúng ta điều biết từ đời xưa đến đời nay, cách sản xuất
từ chỗ dùng cành cây, búa đá phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức nguyên tử.
Chế độ xã hội cung phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế dộ
phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần như một nửa loài người
đang tiến lên chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó khơng ai ngăn
cản được”.
Chủ nghĩa xã hội - kết quả tất yếu của quy luật vận động nội tại của cách
mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu không
chỉ đối với các nước đã qua chủ nghĩa tư bản, mà cũng là tất yếu mang tính quy luật
vận động nội tại của cách mạng Việt Nam. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam được luận chứng trên nhiều góc độ khác nhau, trước hết là từ góc độ khát vọng
độc lập dân tộc của toàn thể các tầng lớp nhân dân.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa
xã hội là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hồn chỉnh, trong đó
con người được phát triển toàn diện, tự do, một xã hội mọi thiết cơ, cơ cấu xã hội
đều nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người diễn đạt quan điểm của mình về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên một số mặt cụ thể như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội,…nhưng khơng nên tuyệt đối hóa từng mặt, hoặc tách rời các mặt riêng rẽ,
mà quan điểm của Người được đặt trong một tổng thể, được nhìn nhận một cách
khái quát.
Theo Hồ Chí Minh, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là độc lập, tự do cho dân
tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Người nhấn mạnh, chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “làm
sao cho dân giàu, nước mạnh”; là “làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung
sướng”; là nâng cao đời sống vật tinh thần của nhân dân; là “nước ta hoàn toàn độc
lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành”. Ở một góc độ tiếp cận khác, Hồ Chí Minh nêu quan điểm: Muốn xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì phải đánh bại chủ nghĩa cá nhân. Người chỉ rõ:
2



Tư tưởng thơng suốt thì mọi việc làm đều tốt. Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ
nghĩa hoàn toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”.
Khi nhấn mạnh đặc trưng về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh nêu chế độ công cộng
của chủ nghĩa xã hội về chế độ phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có phúc lợi xã hội. Tại Lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2, cấp 3 và Hội
nghị sư phạm, tháng 7/1956, Hồ Chí Minh nêu rõ “chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy,
xe lửa, ngân hàng,…làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai
khơng làm thì khơng ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”.
Khi nói về đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra
những quan điểm gắn với điều kiện thực tế của Việt Nam. Trong đó, đặc trưng tổng
quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được thể hiện ở các mặt về chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội.
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
3.1. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh ý thức được rõ ràng giá trị của chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận
là quan trọng, nhưng vấn đề quan trọng hơn là tìm ra con đường để thực hiện những
giá trị này. Điểm then chốt, có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí
Minh là đề ra các mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau ở nước ta. Chính thơng qua q trình đề ra
các mục tiêu đó, chủ nghĩa xã hội được biểu hiện với việc thỏa mãn các nhu cầu, lợi
ích thiết yếu của người lao động, theo các nấc thang từ thấp đến cao, tạo ra tính hấp
dẫn, năng động của chế độ xã hội mới.
Về mục tiêu chung của chù nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh, mục tiêu ban đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là “Làm cho người nghèo thì đủ
ăn. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết
đồn kết, u nước” Người cịn nói” “Chủ nghĩa xã hội là mội người cùng ra sức lao
động sản xuất để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”’; “xã hội ngày càng tiến,
vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Cụ thể hơn

Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa xã hội phải: “có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện
3


đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến”’ về chính trị, xã hội xã hội chủ nghĩa là do
nhân dân làm chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì nhân dân, ba nhiêu quyền hạn đều của
dân, quyền hành và lực lượng đều ở mội người dân, tất cả cán bộ, cơng chức nhà
nước đều là cơng bộc của dân.
Nói tóm lại, theo Người: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng
nâng cao mức sống của nhân dân” . Người nói: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là
gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Người diễn giải mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội qua các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
khơng lao động được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt dần dần được
xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày
càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Những mục tiêu đó được Hồ Chí Minh chỉ rõ trên
các lĩnh vực sau đây:
- Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: Dân chủ với nhân dân, chuyên
chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó khơng tách rời nhau, mà luôn đi đôi
với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh
hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản
động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường và
biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt động
của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng; củng có các hình thức dân chủ đại
diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.

Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội
chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế
mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện
4


đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần,
đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
Mục tiêu văn hóa, xã hội: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ
bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần
của xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí,
xây dựng phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh
phịng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập quán
lạc hậu,.... Để có nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, Người khẳng định: “phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung”; phải phát huy các giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, đồng thời
học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương chăm xây dựng nền văn hóa mới là:
“Dân tộc, khoa học, đại chúng”. Hồ Chí Minh nhắc nhở phải làm cho phong trào
văn hóa có bề rộng, đồng thời phảo có bề sâu. Trong khi đáp ứng mặt giải trí thì
khơng được xem nhẹ nâng cao tri thức của quần chúng, đồng thời Người ln nhấn
mạnh phải làm cho văn hóa gán liền với lao động sản xuất. Hồ Chí Minh đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo con người. Trong lý
luận xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết mặt tư
tưởng. Người cho rằng: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa”, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học
tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội.
3.2. Về động lực của chủ nghĩa xã hội
Để thực hiện những mục của chủ nghĩa xã hội, cần phát hiện những động lực
và những điều kiện bảo đảm cho động lực đó thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là những động lực bên trong, nguồn nội

lực của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, hệ thống động lực bên trong, nguồn
lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội là đoàn kết, đồng thuận, lợi ích, cơng bằng, dân
chủ, khoa học kỹ thuật,… Những động lực đó biểu hiện ở các phương diện: vật chất
và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người khẳng định, động lực quan trọng và
quyết định nhất là con người, là khối đại đồn kết dân tộc, nịng cốt là cơng - nơng trí thức. Để xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, phải thường xuyên quan tâm
5


đến lợi ích chính đáng, khơi dậy khát vọng cống hiến xây dựng đất nước, xây dựng
chủ nghĩa xã hội của mỗi người dân.
Nhìn nhận yếu tố con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là
động lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi
cá nhân với xã hội (sức mạnh cồng đồng). Người cho rằng, khơng có chế độ xã hội
nào coi lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống yêu nước của toàn dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng
tạo của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa
xã hội. Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng, thực hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ chức, bộ máy, tính
nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ,
công chức các cấp từ Trung ương tới địa phương. Hồ Chí Minh rất coi trọng động
lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản
xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, gắn liền kinh tế với kỹ thuật, kinh
tế với xã hội.
Cùng với khơi dậy, phát huy động lực về con người, về lợi ích vật chất và tinh
thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục,
coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Tất cả những nhân
tố động lực nêu trên là những nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Vậy làm thế
nào để những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và khơng ngừng
phát triển? Hồ Chí Minh nhận thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết

định đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực
của chủ nghĩa xã hội. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chỉ Minh muốn xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải kết hợp được với sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại (ngoại lực); tăng cường đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước phải
gắn liền Với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành
quả khoa học - kỹ thuật thế giới,... Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định
rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay
nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn chú trọng
6


tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ
sở bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào cơng việc
nội bộ của nhau, chung sống hịa bình và phát triển.
Về các trở lực (rào cản) trong sự nghiệp chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cịn
lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn
có của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng, khơng có
sức hấp dẫn, đó là tham ơ, lãng phí, quan liêu,... Người gọi đó là chủ nghĩa cá nhân
“giặc nội xâm” cần phải hết sức cảnh giác.
4. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Đó là các luận điểm về bản chất,
mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ
quá độ; về nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp
cuat thời kỳ quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó trở thành tiến hành
cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng đó trở thành tài sản vơ
giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ

nghĩa của Đảng, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và
bước đi phù hợp với những đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Trên cơ sở tổng kết những lý luận - thực tiễn, quan điểm của Đảng về chủ
nghĩa xã hội; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa,
tiếp tục đường lối đổi mới, kiên định theo con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội”. Nhận thức của Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội, hiện nay đất nước
đang phải đối đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng
như từ các điều kiện thực tế trong nước. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng xác định
trên những vấn đề cơ bản sau đây:
7


Một là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, kiên định đường lối đổi mới của Đảng, khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư.
II. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Đại hội XIII của Đảng đã đánh giá những kết quả đạt được cũng như những
khó khăn, tồn tại sau 35 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới.
1. Về ưu điểm
Về nhận thức lý luận: Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và
những quan hệ lớn mang tính quy luật trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hoá, phát triển với những nhận thức
quan trọng. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình phát triển

tổng qt của nền kinh tế Việt Nam. Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung
tâm; phát huy vai trị của văn hố - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực của sự phát triển. Khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới
phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân
chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; hồn thiện mơ hình tổ chức của Nhà
nước, phân cơng, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, coi trọng
kiểm soát quyền lực nhà nước; giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội, quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Nhận thức sâu sắc hơn
bản chất, tính cách mạng, tính tiên phong của Đảng; vai trò lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng; yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện cả về chính trị, tư
8


tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng trong điều kiện mới; đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ,...
Về thực tiễn: Trong những năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức
rất lớn, nhưng kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng,
khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở
mức độ khá cao. Đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có bước
chuyển biến tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ. Thể chế kinh tế thị trường
đầy đủ, hiện đại và hội nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác
lập. Giáo dục và đào tạo có bước đổi mới, đóng góp tích cực vào xây dựng con
người, phát triển nguồn nhân lực. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp
tục được phát triển. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an

ninh, trật tự, an toàn xã hội. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng; giữ vững mơi trường hồ bình để phát triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế
của Việt Nam tiếp tục được nâng cao.
2. Về khó khăn, tồn tại
Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cịn một số hạn chế. Cơng tác tư tưởng
có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục
chưa cao. Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng
mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt
lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy
cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng túng. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa
cao. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Các nguồn
9


lực, tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chưa được
phát huy tốt. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới,
chưa thật sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; chất lượng, hiệu quả hoạt động
giám sát, phản biện xã hội chưa đều.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc,
bất cập. Năng lực và trình độ cơng nghệ của nền kinh tế nhìn chung cịn thấp. Nhiều
doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện cơ cấu lại và đổi mới cơ chế quản trị; nhiều
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cơng nghệ trung bình, gia cơng, lắp ráp,
thiếu gắn kết, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển.
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác còn chậm, nhiều hợp tác xã chưa làm tốt vai
trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ. Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả có mặt chưa cao.

Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số
nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn định. Văn hoá chưa được
quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động
lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Chưa có giải pháp hữu hiệu để
ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hoá, đạo đức, lối
sống, gây bức xúc xã hội.
3. Một số giải pháp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức là nhiệm vụ trung tâm để từng buớc xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội, chất lượng, hiệu quả, khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế và
cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, phát triển mạnh các ngành, các sản phẩm
kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; phát triển công nghiệp và xây
dựng theo hướng hiện đại, nhất là những ngành có lợi thế so sánh và có ý nghĩa
chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững, nâng cao tính độc lập tự chủ của
nền kinh tế, có khả năng tham gia có hiệu quả vào dây chuyền sản xuất và mạng lưới
phân phối tồn cầu. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng
thơn; phát triển nơng - lâm - ngư nghiệp một cách toàn diện, hiệu quả, bền vững gắn
10


với giải quyết đồng bộ các vấn đề của nông dân, nông thôn. Phát triển nhanh các
ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch, các
dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao
thơng, điện, nước, các cơng trình xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng đồng
bằng, trung du và miền núi, ven biển, đảo và hải đảo, thành thị và nông thôn.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cơ
chế thị truờng được vận dụng đầy đủ để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn
lực nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Phát triển các hình thức sở hữu,

các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế đều được coi trọng, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể, ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội;
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa đói, giảm nghèo. Nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường, định hướng phát triển, phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế.
Chăm lo phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nền tảng,
giữ vai trò chỉ đạo trong đời sống tinh thần, xã hội. Kế thừa và phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao. Đấu tranh chống tư tưởng, văn hố hóa phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, thế trận
an ninh nhân dân vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phịng, an ninh; xây
dựng qn đội nhân dân và cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
11


bước hiện đại, lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu, có sức chiến đấu
cao; xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng, an ninh bảo đảm cho các lực lượng vũ
trang được trang bị ngày càng hiện đại; để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và trật tự
an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống

phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế
của đất nước; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ trên thế giới.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở tất cả
các cấp, trên tất cả các lĩnh vực; bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân,
mọi chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân; mọi cán bộ, công chức đều là công bộc của nhân dân.
Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hồ
bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân, đồng bào
các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngồi. Xây dựng, phát huy vai
trị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tập
hợp, đoàn kết toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm Nhà nước thực sự là của nhân
dân, nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế và đời sống xã hội, thực hiện các
cam kết quốc tế; giữ nghiêm trật tự, kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nuớc và
nhân dân; nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
12


Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có tổ chức bộ máy
tinh gọn, hợp lý, trong sạch, vững mạnh; có đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất

và năng lực cao; có cơ chế kiểm sốt, ngăn ngừa, trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, vơ trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng; thật
sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc; có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao,
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực
lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ
dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái.
Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực, có sức chiến đấu cao. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời
phát huy mạnh mẽ vai trị, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị. Đảng hoạt động trong khn khổ Hiến pháp và pháp
luật, liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Những phương hướng và nhiệm vụ trên là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo
của Đảng ta những tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
hiện nay và trong tương lai./.

13



×