Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.48 KB, 11 trang )

Chủ đề:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘNG LỰC CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
BÀI LÀM1
I. MỞ ĐẦU
Trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng đã
không nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội. Thế hệ các
nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được điều đó, song cái ý thức
hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương Tây. Hồ Chí Minh khơng
chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp
thu được hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới của dân,
do dân, vì dân và mang một nội dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ
nghĩa, vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho một nền
độc lập thật sự và đưa lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.
Hồ Chí Minh cịn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã hội, về công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ cập, nhưng lại rất
sâu sắc và thiết thực: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh"; “chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do
nhân dân tự xây dựng lấy", "xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả thiên nhiên, làm cho xã hội không cịn người bóc lột người, khơng cịn đói rét, mọi
người đều được ấm no và hạnh phúc". Người còn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa
xã hội phù hợp với từng đối tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có
thuốc chữa", "già yếu thì được nghỉ", "ai cũng được học hành", "những phong tục
tập quán khơng tốt dần dần được xóa bỏ",...
Cơng cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đạt được những thành
tựu quan trọng, tạo ra thế và lực mới cho con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Cùng với tổng kết thực tiển, quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong q trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối
đầu với hàng loạt thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ các


điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí

1


Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội, để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi
mới tồn diện và đồng bộ, phát triển sáng tạo, để phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về động lực của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, em chọn vấn đề: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ
nghĩa xã hội và những yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay” làm nội dung viết
thu hoạch.
II. NỘI DUNG
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Với cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu, dễ nhớ, khái niệm “chủ nghĩa xã hội”:
được Hồ Chí Minh tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau bằng cách chỉ ra những đặc
trưng quan trọng nhất ở một lĩnh vực cụ thể nào đó, cụ thể:
- Ở góc độ khát vọng của dân tộc khi đất nước còn là thuộc địa: Chỉ có chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức;
- Ở góc độ chính trị: chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ của nhân dân, do nhân
dân làm chủ;
- Ở góc độ kinh tế: chủ nghĩa xã hội có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện
đại;
- Ở góc độ quan hệ giữa người với người: chủ nghĩa xã hội đem lại tự do, bình
đẳng, bác ái, xóa bỏ “những bức tường dài” ngăn cản con người đoàn kết, yêu thương
nhau…
Song tất cả những cách tiếp cận ấy đều ảnh hưởng đến mục tiêu cơ bản của chủ
nghĩa xã hội mà theo Hồ Chí Minh: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã
hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi
người có cơng ăn việc làm, được ấm no và được sống một đời hạnh phúc”.

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ở giai đoạn đầu
của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy còn tồn đọng tàn dư của q khứ nhưng xã hội xã
hội chủ nghĩa khơng cịn áp bức, bóc lột, do nhân dân lao động làm chủ, trong đó
con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc; quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống
nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.
1.2. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh đã tiếp thu vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về sự phát
triển tất yếu của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội. Quan điểm của

2


Hồ Chí Minh là: Tiến lên chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu ở Việt Nam sau
khi nước nhà đã giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản.
Nhận định của Người được dựa trên các lý do lịch sử - văn hóa mang tính
truyền thống của các dân tộc phương Đông; của phương thức sản xuất châu Á, đặc
biệt là sự tàn bạo, lỗi thời của chủ nghĩa tư bản, mà hình thức xấu xa, tồi tệ nhất của
nó là chủ nghĩa thực dân.
Đây là một luận điểm rất quan trọng, là cơ sở lý luận để khẳng định tính quy
luật của con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong luận điểm trên, Hồ Chí
Minh khơng dựa trên cơ sở phân tích sự chín muồi của cơ sở kinh tế làm xuất hiện
chủ nghĩa xã hội như là một phương thức cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản, mà Người bổ sung một yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội, đó chính là sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, Người còn
chỉ rõ những khuyết tật bẩm sinh phi nhân tính khơng thể khắc phục được của chủ
nghĩa tư bản, đó là cơ sở để người lao động ý thức, giác ngộ sứ mạng lịch sử của
mình trước vận mệnh quốc gia dân tộc, sẵn sàng vùng lên đấu tranh thủ tiêu xiềng
xích thực dân, thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân thốt
khỏi áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân. Đó là những lý do lịch sử chủ yếu, mà
dựa vào đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Chủ nghĩa cộng sản thích ứng với các nước

châu Á, thậm chí cịn dễ hơn với các nước châu Âu. Luận điểm đó hồn tồn chính
xác cả về mặt lịch sử và lơgíc.
Chủ nghĩa xã hội - kết quả tất yếu của quy luật vận động nội tại của cách mạng
Vỉệt Nam. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu không chỉ đối
với các nước đã qua chủ nghĩa tư bản, mà cũng là tất yếu mang tính quy luật vận
động nội tại của cách mạng Việt Nam. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
được luận chứng trên nhiều góc độ khác nhau, trước hết là từ góc độ khát vọng độc
lập dân tộc của toàn thể các tầng lớp nhân dân.
Về phương diện lý luận, Hồ Chí Minh tìm thấy nhiều câu trả lời cho tình thế
cách mạng Việt Nam trong lý luận của V.I.Lênin, đặc biệt là những vấn đề về dân tộc
và thuộc địa, về khả năng và triển vọng tương lai của các dân tộc phương Đông.
Về phương diện thực tiển - lịch sử, khẳng định của Hồ Chí Minh về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam được đặt trên nền hiểu biết sâu rộng
lịch sử các cuộc cách mạng đã từng diễn ra trên thế giới.
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, cơ sở để đánh giá tính triệt để của một
cuộc cách mạng không phải chỉ là những lý tưởng, khẩu hiệu được nêu ra, mà còn là
3


quy mơ và tính chất giải phóng quần chúng lao động bị áp bức.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chỉ có Cách mạng Tháng Mười là cuộc
cách mạng triệt để. Tính chất triệt để và nội dung nhân đạo của Cách mạng Tháng
Mười được Hồ Chí Minh khẳng định, nhờ cuộc cách mạng đó mà nhân dân lao động
đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu giành được độc lập, ruộng đất trở về tay
người cày.
Vì vậy, cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi một cách triệt để, khơng có
con đường nào khác là đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh
xây dựng đường lối cách mạng: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản” và khẳng định: “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, con đường Cách mạng

Tháng Mười.
Lựa chọn con đường cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một cống hiến lý luận quan trọng của Hồ
Chí Minh. Con đường đó phản ánh sự phát triển liên tục, thông qua nhiều giai đoạn
của quá trình cách mạng Việt Nam. Mỗi giai đoạn giải quyết những nhiệm vụ và
những mục tiêu cụ thể, từng bước thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giai cấp, xã
hội và con người. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đi tới cuộc sống ấm no, tự
do - hạnh phúc là khát vọng của cả dân tộc Việt Nam.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội

- Về chính trị: Đó là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ; Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đồn kết tồn dân mà nịng cốt là
liên minh cơng - nơng - lao động trí óc do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

- Về kinh tế: Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển
cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Đó là xã hội có một nền kinh
tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn phát triển
với nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những thành tựu
khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
Trong chủ nghĩa xã hội khơng cịn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ
sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, họp lý.

- Về văn hóa - xã hội: Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn
hóa, đạo đức; là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình
đẳng; trong chế độ xã hội chủ nghĩa “khơng có người bóc lột người”, một xã hội bình
4


đẳng...

- Về quan hệ quốc tế. Chủ nghĩa xã hội có quan hệ hịa bình, hữu nghị, hợp tác
với nhân dân lao động các nước trên thế giới.
Các đặc trưng nêu trên thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa các di sản văn
hóa của dân tộc, nhân loại và lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện sự sáng tạo
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa xã hội từ lý tưởng, mục tiêu... là một chế
độ xã hội tốt đẹp, thể hiện tính hơn hẳn tất cả các chế độ xã hội đã có trong lịch sử.
Bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng mục tiêu phục vụ lợi ích
của Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
1.4. Quan điểm Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội
1.4.1. Về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
- Mục tiêu chung
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu
của Người là một, đó là: độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao
đời sống nhân dân. Theo Người, muốn nâng cao đời sống nhân dân, phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
- Mục tiêu cụ thể
+ Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, chế độ chính trị phải là do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ
con đường và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức
dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
+ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội
chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế
mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp hiện

đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản được bỏ dần, đời
sống vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện.
+ Mục tiêu văn hóa - xã hội:
5


Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội,…
Về bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người khẳng định
"phải xã hội chủ nghĩa về nội dung"; để có một nền văn hóa như thế ta phải phát huy
vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn hóa tiên tiến của thế giới. Phương
châm xây dựng nền văn hóa mới là: “Dân tộc, khoa học, đại chúng”.
Hồ Chí Minh ln ln nhấn mạnh đến trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng;
đồng thời, Người cũng rất quan tâm đến mặt tài năng, luôn tạo điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội.
1.4.2. Về động lực của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh hệ thống động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội là: đồn
kết, đồng thuận, lợi ích, cơng bằng, dân chủ, khoa học kỹ thuật... Những động lực đó
biểu hiện ở các phương diện: vật chất và tinh thần; nội sinh và ngoại sinh. Người
khẳng định, động lực quan trọng và quyết định nhất là con người, là khối đại đồn kết
dân tộc, nịng cốt là cơng – nơng – trí thức. Để xây dựng được khối đại đồn kết tồn
dân, phải thường xun quan tâm đến lợi ích của tất cả các tầng lớp nhân dân; chăm
lo bồi dưỡng sức dân, quan tâm đến lợi ích chính đáng, khơi dậy khát vọng cống hiến
xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi người dân.
Nhìn nhận yếu tố con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn nữa là động
lực quan trọng nhất, Hồ Chí Minh đã nhận thấy sự kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân
với xã hội (sức mạnh cộng đồng). Người cho rằng, khơng có chế độ xã hội nào coi
trọng lợi ích chính đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Truyền
thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng tạo của nhân
dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội. Nhà
nước đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực

hiện chức năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng
lợi.
Cùng với khơi dậy, phát huy động lực về con người, về lợi ích vật chất và tinh
thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục,
coi đó là động lực tinh thần khơng thể thiếu của chủ nghĩa xã hội. Tất cả những nhân
tố, động lực nêu trên là nguồn lực tiềm tàng của sự phát triển. Vậy làm thế nào để
những khả năng, năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và khơng ngừng phát
triển? Hồ Chí Minh nhận thấy, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ thống động lực
6


của chủ nghĩa xã hội. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, muốn xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại (ngoại lực); tăng cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành tựu khoa
học – kỹ thuật thế giới... Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định rất rõ nội
lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng. Chính vì thế, Người hay nêu cao
tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng ln chú trọng tranh thủ sự
giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành
sức mạnh tổng hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở bảo đảm các
quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
chung sống hịa bình và phát triển.
Về các trợ lực (rào cản) trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh lưu ý, cảnh báo về các yếu tốt kìm hãm, triệt tiêu nguồn năng lượng vốn có của
chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng, khơng có sức hấp
dẫn, đó là những “căn bệnh” giáo điều, tham ơ, lãng phí, quan liêu... Người gọi đó là
chủ nghĩa cá nhân “giặc nội xâm” cần phải hết sức cảnh giác và tiêu diệt nó.
2. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Qua

35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn
thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, tồn diện hơn so với những năm trước
đổi mới”. Sức mạnh của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền của đất nước
được giữ vững. Quan hệ đối ngoại rộng mở và đang đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một nâng cao. Đó là tiền đề quan trọng để
chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện và đồng bộ, phát triển sáng
tạo, để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng
cịn khơng ít hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình
phát triển đất nước. Những năm qua, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
còn chậm, đời sống nhân dân ở nhiều nơi vẫn cịn khó khăn; mơ hình phát triển chưa
đổi mới, sáng tạo; hồn thiện thể chế, đổi mới mơ hình tăng trưởng chưa tạo được
chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
7


tế chưa cao; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển; khoa học và
công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội; văn hoá, xã hội, môi trường chưa được quan tâm đầy đủ, đúng mức; quốc phòng,
an ninh, đối ngoại còn một số mặt bất cập; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân
chủ xã hội chủ nghĩa chưa được phát huy đầy đủ; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý
đất nước trong tình hình mới; cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cịn một số hạn
chế.
Vì vậy, để tạo đột phá chiến lược đưa nước ta thành nước phát triển, có thu
nhập cao, củng cố cơ đồ, tăng cường vị thế đất nước cho phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đòi hỏi chúng ta

phải tạo ra động lực mới cho sự phát triển đất nước.
Trên cơ sở kế thừa và bổ sung quan điểm về những nhân tố tạo thành động lực
theo tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh và của các kỳ Đại hội Đảng trước đó, Đại hội
XIII của Đảng đã xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất
nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt
Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó
nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Với tư tưởng
trên, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với những yêu cầu đặt ra hiện
nay mà chúng ta cần phải thực hiện:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức
mạnh đại đồn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc.
Yêu nước là truyền thống quý báu, là hệ giá trị nổi bật của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống ấy là mẫu số chung, là nguồn lực nội sinh của cộng đồng dân tộc. Ngày
nay, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, vượt
qua khó khăn, thử thách, hợp tác trong lao động, sản xuất; sáng tạo, hăng say để xây
dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.

8


Để phát huy cao độ lịng u nước phải có tinh thần đồn kết, chỉ có đồn kết
sâu, rộng chúng ta mới tập hợp được sức mạnh của quần chúng nhân dân trong xây
dựng và kiến thiết đất nước. Mới đây, trong Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiển về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí

thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đại đồn kết tồn dân tộc là nguồn sức mạnh
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách
mạng ở Việt Nam”.
Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
đất nước.
Khi coi khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là động lực chủ
yếu của sự phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hướng vào nguồn lực nội
sinh, sức mạnh dân tộc là lòng u nước, tinh thần đồn kết, ý chí tự lực, tự cường,
lịng tự tơn và tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, tâm hồn… những giá trị cốt
lõi của văn hóa, con người Việt Nam. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn năng lượng to
lớn, sống động thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, văn hoá là những hoạt động sáng tạo của con người hướng tới
những giá trị nhân văn, nhân bản, là khát vọng hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhằm
hoàn thiện con người, hồn thiện xã hội. Nói tới văn hố là nói tới con người, do vậy,
phát huy vai trị của văn hố trong phát triển chính là phát huy những năng lực, bản
chất của con người. Trong Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiển về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng khẳng định: “Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát
triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới”.
Với tư cách là động lực của sự phát triển, văn hoá khơi dậy sức sống, sức sáng
tạo vươn tới các giá trị nhân văn, tiến bộ của con người. Mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội là nhằm giải phóng và phát triển tồn diện con người. Vì vậy, bản chất của văn
hố thống nhất với mục tiêu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta hướng tới.
Ba là, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) có
những tác động to lớn đối với đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia. Có thể nói, cách
mạng cơng nghiệp đang tác động mạnh mẽ và sâu sắc đối với mọi lĩnh vực của cuộc

9


sống con người, tạo động lực cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Tuy vậy, chúng ta
cần phải ý thức rằng, khoa học và cơng nghệ tự nó khơng trở thành động lực phát
triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định
hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu
phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy
cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững
của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố cản trở sự tiến bộ xã hội. Do vậy, cùng với
việc tiếp thu những thành tựu của khoa học cơng nghệ, thì việc đổi mới năng lực sáng
tạo của con người là yếu tố căn bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước
ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các
khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước
hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả
về kinh tế và xã hội. Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền
vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ cơng ích khác, nâng cao hơn
nữa đời sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn
chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt
hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Năm là, phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, khơng

can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.
Sáu là, luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp cơng nhân
và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những
người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ cịn tiếp tục phát triển và có sức sống
trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học.
10


Có thể nói, việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược chúng ta đã đặt ra
theo tinh thần Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mà còn đảm bảo sự phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3. KẾT LUẬN
Cùng với việc xác định và định hướng phát huy sức mạnh những động lực của
chủ nghĩa xã hội đối với nước ta, quan điểm của Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản vô
giá, cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên trì, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của Đảng, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và
bước đi phù hợp với những đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Cả lý luận và thực tiển đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một
kiểu xã hội mới về chất, hồn tồn khơng hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, khơng thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò
sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân, tạo nên nội lực mạnh mẽ vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, nắm bắt, tận dụng tốt mọi thuận lợi, thời cơ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh, hạnh phúc vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”.
Tóm lại, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về động lực của chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay,

cho thấy những câu trả lời cho hiện tại - tương lai - triển vọng của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, của nhân dân và dân tộc ta là: Chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong đường lối cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội, của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại
của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tường Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam, xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là xây dựng một “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Từ thực tiển xây dựng chủ nghĩa xã
hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Bác Hồ
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội trong thời đại ngày nay./.
11



×