Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tình hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền núi phía Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.8 KB, 43 trang )

Phần mởđầu
Trong vài năm gần đây, kinh tế Việt Nam đều có mức tăng trưởng khá vàổn
định khoảng trên 7%/năm. Từđóđời sống của nhân dân trong cả nước đãđược cải
thiện rất nhiều. Đặc biệt làở những vùng sâu vùng xa ,những vùng cóđiều kiện kinh
tếđặc biệt khó khăn ,thu nhập của các gia đình đều tăng.
Cùng với sự phát triển chung của cả nước ,vùng trung du và miền núi phía bắc
đã vàđang có những bước chuyển mình rõ rệt.Các vùng này đã dựa vào những lợi
thế của mình để phát triển nông lâm nghiệp và thuỷ sản...Chính vì lẽđó ,vùng ngày
càng đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước.
Một trong những mô hình kinh tếđược vùng ưu tiên phát triển vàđãđạt được
thành tựu khá lớn ,đó là mô hình kinh tế trang trại . Có thể nói đây là mô hình kinh
tế mới ra đời và phát triển ở Việt Nam nói chung và vung trung du và miền núi phía
bắc nói riêng .Tuy còn khá mới mẻ song tầm quan trọng của nóđối với đời sống
kinh tế xã hội trong vùng là rất lớn .Nhất làđôí với một vùng còn nhiều khó khăn
như vùng trung du và miền núi phía bắc hiện nay.
Có thể nói ,kinh tế trang trại ra đời và phát triển đã tạo điều kiện để những
người nông dân tự làm giàu trên mảnh đất của mình bằng sức lực của chính
mình .Trên cơ sởđó ,họđã góp phần làm cho quê hương của mình ngày càng phát
triển .Đồng thời, nhờ sự giao lưu học hỏi giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ trang trại
,các hộ còn khó khăn đã cóđiều kiện gia tăng sản xuất ,giải quyết vấn đề việc làm
cho người dân .Từđó góp phần không nhỏ vào chương trình xoáđói giảm nhgèo
135...của chính phủ.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quảđạt được ,còn khá nhiều những vấn đề cần
quan tâm xung quanh việc phát triển mô hình kinh tế trang trại vùng trung du và
miền núi phía bắc. Trong đó cần phải xem xét việc lựa chọn mô hình kinh tế trang
trại phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội vàđiều kiện tự nhiên của vùng .Có như
1 1
vậy ,các trang trại của vùng mới đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất .Trong phạm
vi bài viết này em xin lí giải ý kiến cá nhân trong việc lựa chọn một mô hình kinh
tế trang trại mà theo em là có khả năng phù hợp nhất với điều kiện riêng của vùng.
Bài viết này hoàn thành nhờ giúp đỡ tận tình của cô Trần Mai Hương .Song do


thời gian có hạn và khả năng còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót
.Rất mong cô sẽ giúp đỡđể em có thể hoàn thành tốt hơn đềán của mình .Em xin
chân thành cảm ơn cô.
Hà Nội ngày 9 tháng 11 năm 2003
Sinh Viên
Nguyễn Thị Kim Liên.
2 2
Phần nội dung
CHƯƠNG 1: MỘTSỐLÍLUẬNCHUNG
1/ Các khái niệm cơ bản và tính tất yếu khách quan của sự ra đời mô hình kinh
tế trang trại ở nước ta:
1.1/Các khái niệm :
1.1a Khái niệm vềđầu tư , đầu tư phát triển:
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quảđầu tư ,chúng ta có thể
có những cách hiểu khác nhau vềđầu tư.
Thuật ngữđầu tư ,có thể hiểu đồng nghĩa với sự bỏ ra ,sự hi sinh từđó ,có thể
coi đầu tư là sự bỏ ra ,sự hi sinh những cái gìđóở hiện tại ( tiền ,sức lao động ,của
cải vật chất ,trí tuệ) nhằm đạt kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai .Đầu
tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản
mới cho nền kinh tế .
Từđây ta cóđịnh nghĩa vềđầu tư phát triển như sau:
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính ,nguồn lực vật
chất , nguồn lực lao động và trí tuệđể xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ
tầng ,mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng lên nền bệ ,bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực , thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạđộng của các tài sản
nhằm duy trì tiềm lực họat động của các cơ sởđang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho
nền kinh tế xã hội ,tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã
hội.
1.1b/Kinh tế trang trại:
Tuy trang trại ra đời rất sớm ở Việt Nam ,song các khái niệm và nhận dạng đầy

đủ về kinh tế trang trại còn nhiều ý kiến khác nhau .Theo quan điểm của một số nhà
nghiên cứu ,khái niệm về kinh tế trang trại :“trang trại là hình thức tổ chức kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hoá với qui mô tương đối lớn ,hoạt động chủ yếu trong
lĩnh vực nông ,lâm ,ngư nghiệp”.
3 3
Ngoài lao động mang tính huyết thống , các trang trại còn thuê lao động dưới
hình thức qui hoạch vàđầu tư xây dựng phù hợp với mục tiêu kinh doanh lâu dài.
ở nước ta, kinh tế trang trại được hình thành chủ yếu từ sự phát triển của kinh tế
hộ gia đình .Bởi vì hầu hết chủ trang trại đều là người trực tiếp quản lí ,điều hành
sản xuất kinh doanh ,lao động chủ yếu là người trong gia đình .Quá trình tích tụ và
tập trung đất đai để hình thành trang trại không phải do tước đoạt và mua bán đất
đai , mà chủ yếu thông qua sựđiều tiết thông qua quyền sử dụng đất ,giao khoán đất
,đấu thầu ,cho thuê...đất đai thường là gòđồi ,cằn cỗi và các đầm phá hoang hoá.
Kinh tế trang trại là loại hình tổ chức sản xuất rất linh hoạt cả về qui mô và tổ
chức sản xuất .Trang trại là hình thức tổ chức lao động hàng hoá dựa trên cơ sở lao
động ,đất đai tư liệu sản xuất cơ bản của hộ gia đình hoàn toàn tự chủ sản xuất kinh
doanh ,bình đẳng với các tổ chức kinh tế khác ,sản phẩm làm ra là chủ yếu làđể bán
và tạo nguồn thu nhập cho gia đình.
1.2/Tính tất yếu khách quan sự ra đời mô hình kinh tế trang trại ở nước ta nói
chung và vùng kinh tế trung du và miền núi phía bắc nói riêng:
Từđầu thập kỉ 90 lại đây, nền nông nghiệp của chúng ta đã có những bước
chuyển mình “vĩđại” ,tổng sản lượng lương thực cũng như số lượng và chủng loại
các loại gia súc ,gia cầm ,thuỷ sản ,các loại rau ,hoa quảđều có sự tăng trưởng vượt
bậc ,năm sau cao hơn năm trước .Từ một đất nước luôn phải nhập khẩu lương
thực , chúng ta đã vươn lên tự cung cấp đủ nhu cầu trong nước và có một lượng
xuất bán .Sự chuyển mình vĩđại ấy do nhiều nguyên nhân ,song có một nguyên
nhân rất chủ yếu ,rất quan trọng là hộ nông dân được quyền tự chủ trong sản xuất
và trong kinh doanh .Tuy nhiên Đảng và nhà nước ta đã sớm nhận ra rằng tiềm
năng và khả năng sản xuất của hộ nông dân sẽ bị kìm hãm và sản xuất dẫu có phát
triển hơn trước ,song cũng mang tính tự cung ,tự cấp ,khó tạo ra nhiều sản phẩm

hàng hoá vì nó bị bó hẹp tổng diện tích canh tác 400-600m2/khẩu như thường thấy
ở các hộ nông dân đồng bằng bắc bộ và trung bộ .Khắc phục tình trạng này ,Đảng
4 4
và Nhà nước đã chủ trương giao đất ,giao rừng ,giao vùng đất hoang hoá, vùng đầm
phá soi, bãi...cho hộ nông dân có nhu cầu cũng như cho phép họ chuyển nhượng và
tích tụ ruộng đất (có giới hạn ) để phát triển sản xuất . Kết quả là một loại hình sản
xuất mới ra đời, sản xuất theo hướng hàng hoá ,tiếp cận với thị trường ,gắn liền với
quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá .Đó chính là hình thức sản xuất trang trại.
Ra đời từ thế kỉ 18 ở châu Âu màđiển hình làở Anh, Pháp, Nga kinh tế trang
trại dựa trên một nền nông nghiệp có sự hỗ trợđắc lực của tiến bộ khoa học, công
nghệ, tạo ra năng suất lao động cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng của xã hội.
Trong lịch sử nông nghiệp ,kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên là sản xuất tự
cấp tự túc .Những sản phẩm được sản xuất ra nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của
chính bản thân người sản xuất ,chưa dùng để trao đổi ,mua bán nên sản xuất trong
tái sản xuất gồm hai khâu :sản xuất xong thì tiêu dùng .Quá trình sản xuất có tính
khép kín .
Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây ,kinh tế hộđã có sự chuyển dịch từ tiểu
nông –sản xuất tự cấp tự túc lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá vốn là nhân tố
không thể thiếu được để thúc đẩy hiên đại hoá-công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn ,mà thực chất là hiện đại hoá nông nghiệp ,văn minh hoá nông thôn ,tri thức
hoá nông thôn .
Có thể nói đây là do sự tất yếu khách quan của quá trình phát triển sản xuất
từđơn giản đến phức tạp ,từ qui mô nhỏđến qui mô lớn ,đặc biệt là do sự phân công
lao động trong xã hội diễn ra mạnh mẽ .Khi qui mô sản xuất tăng lên ,nhu cầu về
lao động tăng .Do đó các hộ sản xuất kinh tế phải thuê thêm lao động bên ngoài
.Thêm vào đó ,các hộ gia đình đã từng bước chuyển sang kinh tế sản xuất hàng hoá
tạo ra khối lượng sản phẩm ngày càng nhiều...Vì lẽđó ,kinh tế sản xuất hộ gia đình
đã từng bước chuyển dần sang các hộ sản xuất hàng hoá .Những hộ sản xuất giỏi
,tha thiết với nghề nông đã trở thành những chủ trang trại gia đình ,hoặc trang trại

5 5
tư nhân .Nó phản ánh xu hướng vận động tất yếu của nông nghiệp từ sản xuất nhỏ
sang sản xuất lớn .
Sự phát triển kinh tế xã hội theo nhu cầu khách quan đã hình thành một hình
thái sản xuất nông lâm ngư nghiệp để sản xuất hàng hoá ,với qui mô lớn ,đầu tư cao
hơn và hiệu quả kinh tế xã hôị cũng cao hơn so với kinh tế sản xuất cá thể ,hộ gia
đình ,đó là kinh tế trang trại.
Kinh tế trang trại một cách tất yếu, cũng có nhu cầu về hợp tác cả về chiều
rộng và chiều sâu, cả về chiều ngang lẫn chiều dọc .Nó cũng cần có cả một hệ
thống chính sách ,biện pháp ở tầm quản lí vĩ mô ,đóng vai trò là bàđỡ ,tạo môi
trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng ,lành mạnh của nó theo hướng
chuyên môn hoá ,hợp tác hoá ,để trở thành nền nông nghiệp sản xúât lớn đủ sức là
cơ sở nông nghiệp cho quá trình CNH-HDH.
*Sự cần thiết phải đầu tư phát triển theo mô hình kinh tế trang trại vùng trung
du và miền núi phía bắc:
Có thể nói, so với cả nước, kinh tế vùng trung du và miền núi phía bắc chỉở
mức trung bình . Đời sống nhân dân chưa cao, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số. Bên cạnh đó, trong cơ cấu ngành kinh tế thìnông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng cao, công nghiệp và dịch vụ tuy mấy năm gần đây đều tăng nhưng vẫn còn
thấp.
Tuy nhiên,cũng như các vùng kinh tế khác trong cả nước, vùng trung du và
miền núi phía bắc có chính sách hỗ trợ và khuyến khích nông nghiệp phát triển
hướng tới xuất khẩu nông sản ra nước ngoài.
Như chúng ta đã biết, nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đầu tư không
được các nhàđầu tư muốn đầu tư lắm, do những hạn chế của nó như phụ thuộc vào
điều kiện tự nhiên, thị trường nông sản hay biến động, giá cả thay đổi phụ thuộc
vào thị trường nông sản thế giới .. Do vậy để có thể thu hút các nhàđầu tưđầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, nhà nước đã có chính sách khuyến khích đầu tư, thực
6 6
hiện việc miễn giảm thuế… cho các dựán nông nghiệp, đặc biệt làở vùng sâu, vùng

xa, vùng kinh tếđặc biệt khó khăn.
Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên và vị tríđịa lí của vùng cũng rất thích hợp cho
nông lâm nghiệp và thuỷ sản phát triển.Như vậy nông lâm nghiệp và thuỷ sản trong
vùng có rất nhiều điều kiện thuận lợi đểđầu tư phát triển.
Song trong điều kiện hiện nay, do sự phát triển của khoa học công nghệ, do yêu
cầu của thị trường ...nên các chủđầu tư phải nghiên cứu mô hình đầu tư thích hợp
nhất với vùng và phù hợp với điều kiện hiện nay.
Như ta đã biết, kinh tế trang trại ra đời và phát triển là tất yếu khách quan và rất
cần thiết đối với nông nghiệp .Chính vì lẽđó, việc đầu tư phát triển mô hinh này đối
với các chủđầu tư là một hướng đi đúng đắn . Đồng thời, đối với vùng nói chung
thìđầu tư phát triển mô hinh kinh tế trang trại là rất phù hợp và cần thiết, cần phải
được ưu tiên để mở rộng mô hình hơn nữa.
2/Vai trò của kinh tế trang trại đối với đời sống kinh- tế xã hội của vùng:
2.1/Về kinh tế:
Qua tìm hiểu thực tế sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp những năm gần đây, có
thể khẳng định; hiện nay kinh tế trang trại là loại hình tổ chức kinh tế nông thôn có
hiệu quả hơn kinh tế hộ nông dân , thậm chí tạm thời có thể , có nơi hiệu quả hơn
cả kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp . Chính
vì vậy ,kinh tế trang trại đã có chỗđứng và luôn phát triển một cách tích cực ,góp
phần giải quyết việc làm ở nông thôn ,nâng cao năng suất lao động xã hội ,phủ
xanh đất trống đồi núi trọc và những vùng hoang hoáở nông thôn.
Kinh tế trang trại đã chứng tỏ là một trong những loại hình tổ chức sản xuất
quan trọng ,có vai trò và vị trí tiên phong trong tiến trình thực hiện các mục tiêu
kinh tế-xã hội của Đảng và nhà nước trong kinh tế nông nghiệp và xã hội nông
thôn.
7 7
Kinh tế trang trại là một bộ phận của nền sản xuất hàng hoáđược vận hành theo
cơ chế thị trường ,có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
,nên nó cũng được hưởng tất cả các chính sách đổi mới của đảng và nhà nước đối
với nông nghiệp ;đồng thời ,kinh tế trang trại cũng phải làm tất cả các nghĩa vụ mà

các thành phần kinh tế khác trong nôngn nghiệp phải làm .Ngoài ra kinh tế trang
trại mang nhiều yếu tố sản xuất hàng hoá lớn ,sẽ phải gánh vác vai trò lịch sử của
nó là thực hiện phân công sâu hơn và hợp tác rộng hơn ,cùng với các thành phần
,lĩnh vực kinh tế khác trong phát triển sản xuất nông ,lâm ngư nghiệp ,chế biến thực
phẩm ,mở mang nghề dịch vụở nông thôn theo một cơ cấu hợp lí ,góp phần đẩy
nhanh tiến trình công nghịêp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn .
Bên cạnh đó, kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng sản xuất hàng
hoá ,tạo ra các vùng sản xuất tập trung ,làm tiền đề cho công nghiệp và các ngành
nghề dịch vụ vào nông thôn ,tăng tốc độ phủ xanh đất trống ,đồi trọc ,cải thiện môi
trường sinh thái.
Ngoài ra ,kinh tế trang trại góp phần khai thác thêm diện tích lớn đất trống ,đồi
trọc, diện tích đất còn hoang hoá (khoảng 20-30 vạn ha) ,đưa vào sản xuất nông
,lâm ,ngư nghiệp ,nâng cao hiệu quả sử dụng đất,nhất làở các vùng trung du ,miền
núi và ven biển.
Hơn nữa ,kinh tế trang trại góp phần huy động lượng vốn đầu tư khá lớn trong
dân(có thể tới 2000 tỷđồng) đểđầu tư cho phát triển sản xuất nông ,lâm ,ngư
nghiệp. Sự phát triẻn của kinh tế trang trại đã góp phần khai thác thêm nguồn vốn
trong dân ,mở mang thêm diện tích đất trống ,đồi núi trọc ,đất hoang hoá ,tạo thêm
việc làm cho lao động nông thôn ,góp phần xoáđói ,giảm nghèo ,tăng thêm sản
phẩm hàng hoá cho xã hội.
Trang trại miền núi phía Bắc phát triển đã khai thác tiềm năng thế mạnh của
miền núi( dất trống ,đồi núi trọc) tạo thành các vùng sản xuất hàng hoá .Tăng thêm
8 8
nhiều việc làm ,thu nhập ,tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản
xuất hàng hoá ,từng bước giúp đồng bào dân tộc thiểu số thoát ra khỏi nền kinh tế
tự cấp ,tự túc. Qui mô sản xuất hàng hoáđược mở rộng dựa trên việc áp dụng khoa
học công nghệ hiện đại phù hợp với tiến trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn. Kinh tế trang trại ở miền núi phía Bắc phát triển mạnh là tiền đề quan trọng
để thúc dẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tăng trưởng và

phát triển kinh tế xã hội miền núi vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Thực tiễn của sản xuất vàđời sống đã chứng minh phát triển kinh tế trang trại
theo mô hình sinh thái VAC-R là một hướng đi đúng ,là con đường làm giàu chính
đáng ,vững chắc nhằm khai thác tiềm năng lao động ,đất đai và thế mạnh riêng của
mỗi địa phương.
2.2/Về xã hội:
Vai trò của kinh tế trang trại gia đình ở các vùng nghèo , xã nghèo không chỉ
giới hạn ởý nghĩa kinh tếđơn thuần ,mà quan trọng hơn là mở ra khả năng xoáđói
giảm nghèo ngay tại các vùng nghèo trên cơ sởp khai thác hợp lí tiềm năng đất đai ,
rừng ,nguồn nước và lao động tại chỗ với sự hỗ trợ của nhà nước về cơ chế và
chính sách là chủ yếu.
Kinh tế trang trại phát triển góp phần giải quyết việc làm cho lao động ở nông
thôn ,ngoài 30 vạn lao động của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường
xuyên và 20 triệu ngày công lao động thời vụ/năm.
Mặc dù mức dóng góp của vùng kinh tế trang trại còn thấp song nóđược tạo ra
trên những vùng đất xấu ,khí hậu khắc nghiệt và chủ yếu bằng nguồn vốn đầu tư
của các chủ trang trại gốc nông dân ,trong đó có nhiều xã nghèo thuộc chương trình
135. Mặt khác do phần lớn các trang trại thuộc loại tròng cây lâu năm và trồng và
chăm sóc rừng nên tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc , bãi bồi ven sông nhanh
hơn . Đây chính làđiều vô giá của mô hình kinh tế trang trại nói chung và của vùng
nói riêng rất đấngtrân trọng và khuyến khích .
9 9
3/Một số mô hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại của vùng:
Thực tế cho thấy kinh tế trang trại là mô hình tổ chức sản xuất tiên tiến thích
hợp với điều kiện vùng trung du và miền núi phía bắc. Đó là mô hình xoáđói , làm
giàu của kinh tế hộ nông dân ở vùng đất rộng người thưa , có hệ sinh thái cây trồng
vật nuôi đa dạng . Trang trại không chỉ phát triển cảở vùng nghèo ,xã nghèo và hộ
nghèo ,trong đó có nhiều xãđặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135 .Vai trò của
kinh tế trang trại gia đình ở các vùng nghèo, xã nghèo không chỉ giới hạn ởý nghĩa
kinh tếđơn thuần ,mà quan trọng hơn là mở ra khả năng xoáđói ,giảm nghèo ngay

tại các vùng nghèo trên cơ sở khai thác hợp lí tiềm năng đất đai ,rừng ,nguồn nước
và lao động tại chỗ với sự hỗ trợ của nhà nước về cơ chế và chính sách là chủ
yếu .Bài học rút ra từ thực tế vùng trung du và miền núi phía bắc trong phát triển
kinh tế hộ và kinh tế hợp tác ở nông thôn trong những năm đổi mới vừa qua ,thành
công nhất là xây dựng mô hình kinh tế trang trại gia đình lấy sản xuất nông ,lâm
nghiệp làm hướng chính.
Đối với các tỉnh TDMNPB ,đất đai vẫn còn nhiều ,nhất là các vùng cao núi đá ,
vùng biên giới .Vì vậy có thể coi hướng chủ yếu để phát triển kinh tế của vùng
trong những năm tới là phát triển kinh tế trang trại.
Tuy nhiên vấn đềđặt ra là ai là người được làm trang trại .Theo chủ trương của
Đảng về việc phát triển đa hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sởđa hình
thức sở hữu trong nền kinh tế ,bất kì ai có nguyện vọng phát triển sản xuất và làm
giàu bằng kinh doanh trang trại đều được khuyến khích .Nhà nước công nhận và
bảo hộ các quyền của họ về tài sản và thu nhập hợp pháp do kinh doanh mang lại.
10 10
Như chúng ta đã biết ,vùng TDMNPB có thể phát triển mô hình kinh tế trang
trại nông ,lâm nghiệp (cây ăn quả ,cây công nghiệp ,cây lấy dầu ,chăn nuôi gia súc
gia cầm...)
Thực tế cho thấy ,vùng đã hình thành 3 dạng trang trại chủ yếu mang tính đặc
thù riêng :
_Trang trại của hộ gia đình nông dân địa phương hoặc hộ gia đình xây dựng
kinh tế mới ,có vốn ,có lao động ,có kiến thức sản xuất kinh doanh ,nhận đất trồng
rừng , cây ăn quả ,chăn nuôi đàn gia súc.
_Trang trại của hộ gia đình vốn là thành viên của các nông ,lâm trường .Sau khi
thực hiện giao khoán vườn cây ,lô rừng ,đàn gia súc,gia đình đã trở thành đơn vị
kinh tế gia đình độc lập ,tự chủ sản xuất ,tự chủ trách nhiệm về kết quả sản xuất
kinh doanh.
_Trang trại của một số tư nhân thuộc dân cưđô thị ,khu công nghiệp .Họ có vốn
và muốn kinh doanh nên đãđến xin nhận đất hoặc mua lại theo hình thức chuyển
nhượng ở miền núi lập trang trại để sản xuất kinh doanh .

Các loại trang trại trên có hình thức kinh doanh khác nhau .Có loại trang trại
kinh doanh tổng hợp theo phương thức nông lâm kết hợp .Có loại trang trại chuyên
trông cây ăn quả .Có loại trang trại chuyên trồng cây cà phê và có loại trang trại hộ
gia đình chuyên chăn nuôi bò sữa.
Như vậy xét về chủ trang trại ,bao gồm :
Chủ trang trại là các hộ nông dân .Trên cơ sởđất đai trước đây của từng gia
đình, các hộ nông dân đã tăng về qui môđầu tư cao hơn , áp dụng khoa học công
nghệ kĩ thuật vào trong sản xuất .Nhược điểm của những người nông dân là trình
độ chủ trang trại chưa cao ,nhất là về thị trường ,về tiến bộ khoa học kĩ thuật ,khả
năng thích ứng với nhu cầu của khách hàng .Đặc biệt đối với thị trường nước
ngoài ,vì tiêu chuẩn kĩ thuật của các nước nhất là Mỹ và Châu Âu là rất cao .Chính
vì vậy ,để có thể xuất khẩu sản phẩm vào các nước này các chủ trang trại phải cập
11 11
nhật thông tin về thị trường cũng như phải có trình độ sản xuất kinh doanh giỏi.Đây
làmột trở ngại lớn đối với các hộ nông dân .Thực tế cho thấy hộ nông dân làm trang
trại là chủ yếu .
Chủ trang trại là những cán bộ công nhân viên chức về hưu...Họ nhận đất giao
rừng của nhà nước để tiến hành sản xuất theo mô hình trang trại .Tuy nhiên tỉ lệ
chủ trang trại thường thấp .Các chủ trang trại này có trình độ nhung do họ trước
kia chưa chăn nuôi ,trồng trọt nên sẽ khá khó khăn trong việc trực tiếp lao động
công việc nông nghiệp.
Chủ trang trại là những người bỏ tiền ra thuêđất ,lao động...để thành lập trang
trại.
Tuy nhiên do vùng có diện tích tự nhiên không lớn và kinh tế xã hội của vùng
chưa cao cũng như thị trường trong vùng chưa phát triển nên tỉ lệ loại hình này còn
thấp .
_Xét về qui môđất đai ,thì có trang trại qui mô vừa và nhỏ ,qui mô lớn.
Tuỳ theo từng vùng mà cách xác định qui mô khác nhau.Với qui mô vừa và nhỏ
,các trang trại chỉđầu tư một lượng vốn không lớn ,sản phẩm dễ dàng tiêu thụ hơn
nhất làđối với thị trường nhỏ hẹp ,chưa phát triển .Tuy nhiên lợi nhuận thu về sẽ

không cao lắm.
Trong khi đó ,với qui môđất lớn đòi hỏi lượng vốn lớn ,trình độ quản lí ,sản
xuất kinh doanh phải cao ,chuyên sâu hơn và thị trường tiêu thụ rộng lớn .Song nó
có thể mang lại cho chủ trang trại mức lợi nhuận rất lớn khi kinh doanh của họ hiệu
quả.
4/Các nhân tốảnh hưởng đến việc đầu tư phát triển mô hình kinh tếtrang trại
vùng trung du và miền núi phía Bắc:
Có thể nói trong những năm gần đây, trang trại là mô hình kinh tếđược ưu tiên
và khuyến khích phát triển đặc biệt ở những vùng còn nhiều khó khăn như vùng
trung du và miền núi phía Bắc. Để phát triển mô hình này cần phải thu hút được
12 12
nhiều nhàđầu tư bỏ vốn thành lập cũng như mởrộng các trang trại. Tuy nhiên việc
đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, bao gồm
cả chủ quan nhàđầu tư và yếu tố khách quan tác động.
Trong bài viết này em xin đưa ra một số nhân tố có thểảnh hưởng đến đầu tư
phát triển kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc hiện nay.Đó là:
Do mô hình này còn khá mới mẻở Việt Nam nói chung và vùng trung du và
miền núi phía Bắc nói riêng nên các nhàđầu tư còn chưa quen với việc đầu tư vào
mô hình này. Điều đóđã hạn chế việc thu hút vốn và các dựán đầu tư vào mô hình
này.Bên cạnh đó, các nhàđầu tư còn nhiều e ngại khi đầu tư vào mô hình này vì bản
thân ngành nông nghiệp đã không hấp dẫn với các chủđầu tư bằng công nghiệp và
dịch vụ, những lĩnh vực được coi là thu được lợi nhuận cao...Như vậy, để hấp dẫn
các nhàđầu tư phải có cơ chế quảng bá các chủ trang trại làm ăn có hiệu quả, thực
hiện chương trình các chủ trang trại giao lưu học hỏi kiến thức, kinh nghiệm sản
xuất kinh doanh, cách tiếp cận thị trường... Hay nói cách khác,việc đầu tư vào mô
hình kinh tế trang trại trước hếtphụ thuộc vào bản thân nhàđầu tư.
Như trên đã phân tích, vùng trung du và miền núi phía Bắc chủ yếu phát triển
trang trại qui mô hộ gia đình. Do vậy mô hình này phụ thuộc vào nhận thức cũng
như khả năng của chủ trang trại. Các chủ trang trại sẽ quyết định đầu tư mô hình
trang trại với qui mô lớn hay nhỏ, sản xuất kinh doanh cây, con gì...tuỳ thuộc vào

qui mô vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn của mỗi chủđầu tư và nhu cầu thị
trường đối với hàng hoá nông sản đó. Song do mức vốn của gia đình thường không
lớn nên họ phải vay vốn của ngân hàng và của nhà nước.Tuy nhiên, hiện nay các
chủđầu tư chưa thực sự yên tâm khi vay vốn ở ngân hàng do cơ chế cho vay còn
nhiều bất cập.
Ngoài vấn đề về vốn, việc đầu tư vào mô hình kinh tế này còn phụ thuộc vào
lao động, công nghệ, khoa học kỹ thuật...của vùng. Cũng giống các lĩnh vực khác
của nền kinh tế, các trang trại muốn đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh cần có
13 13
lực lượng lao động khá lớn, bao gồm cả lao động thời vụ và lao động thường
xuyên. Bên cạnh đó, yếu tố khoa học công nghệđối với các trang trại là rất quan
trọng. Các nhàđầu tư thường muốn đầu tư vào những lĩnh vực có trình độ khoa học
công nghệ cao, tiên tiến.Về vấn đề khoa học công nghệ, có thể nói rằng, mô hình
này chưa thực sự hấp dẫn các nhàđầu tư do trình độ chưa cao,đôi khi còn lạc hậu.
Không chỉ các yếu tố trên màđiều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới
việc đầu tư vào mô hình kinh tế trang trại vùng trung du và miền núi phía Bắc.Các
yếu tốđịa lí, khí hậu, hệđộng thực vật... sẽ góp phần để nhàđầu tư quyết định đầu tư
vào giống cây con gì, ở vùng nào là thích hợp nhất với sự tăng trưởng của nó...Nếu
chủđầu tư sản xuất kinh doanh cay, con không thích hợp với điều kiện vùng đó thì
khóđạt hiệu quả cao.
Thêm vào đó, các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội, các chiến lược phát triển
kinh tế xã hội ,chỉ tiêu kinh tế...của nhà nước, địa phương ảnh hưởng rất lớn tới
quyết định của các nhàđầu tư. Có thể thấy, mô hình kinh tế trang trại rất được nhà
nước ưu tiến phát triển ,đã vàđang tạo điều kiện thuận lợi cho các chủđầu tư khi
đầu tư vào mô hình này.
Hiện nay, Đảng và nhà nước có chính sách khuyến khích đằu tư vào lĩnh vực
nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng nhất làở những vùng miền
núi, vùng còn khó khăn. Bên cạnh đó, chính phủ còn có chủ trương hỗ trợ các chủ
trang trại về vốn với lãi suất vay ưu đãi, giống, kĩ thuật, một số nơi còn bao tiêu sản
phẩm cho các trang trại hoặc hỗ trợ các chủđầu tư khi giá sản phẩm quá thấp.

Không chỉ các nhân tố trong nước mà những tác động của thị trường quốc tế
cũng ảnh hưởng tới việc đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại của cả nước nói
chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nói riêng. Mặc dù nước ta là một
nước nông nghiệp nhưng nhiều hàng nông sản phụ thuộc rất lớn và cung cầu trên
thị trường thế giới. Đặc biệt chúng ta chủ yếu chỉ xuất khẩu nông sản dạng thô chưa
qua chế biến nên gía trị thấp hơn nhiều so với sản phẩm chế biến. Mặt khác, sản
14 14
phẩm thường bị kiểm tra rất chặt chẽ khi vào thị trường các nước Mỹ, Châu Âu kết
hợp giá cả thị trường biến động gây khó khăn rất lớn cho các chủđầu tư khi tiêu thụ
sản phẩm. Do vậy nhà nước cần có chính sách hỗ trợ xuất khẩu cho hàng hoá nông
sản và cung cấp đầy đủ kịp thời thông tin thị trường , có dự báo chính xác về cung
cầu trên thế giới và trong nước nhằm giúp các nhàđâu tư yên tâm hơn khi đầu tư
vào mô hình này.
Chương 2:Tình hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền
núi phía Bắc:
1/Tổng quát vềđiều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội chung của vùng:
Với vị trí nằm ở phía Bắc ,thuộc miền khí hậu nhiệt đới gió mùa ,với địa hình
chủ yếu làđồi núi thấp, sườn thoai thoải, đặc biệt là năm cánh cung phía đông bắc
nên vùng có mùa đông lạnh, thích hợp cho cây ôn đới và cận nhiệt đới phát triển.
Bên cạnh đó, vùng có hệ thống đường giao thông khá phát triển ở miền đông
bắc. Đó là hệ thống đường sắt từ HN -Đồng Đăng, HN – Thái Nguyên, HN-Lào
Cai ...Và một hệ thống đường bộ lối liền các tỉnh trong vùng, nhưđường 4 lối liền
các tỉnh biên giới phía bắc, quốc lộ 1B: HN-Lạng Sơn...rất thuận lợi cho việc cho
việc luân chuyển hang hoá nhất là nông sản giữa các tỉnh, cũng như với các vùng
kinh tế khác trong cả nước.Hơn thế, vùng có hệđộng thực vật rất phong phú vàđa
dạng đặc biệt là thuộc miền ôn đới,trong đó có nhiều loài quí hiếm của thế giới.
Đặc bịêt, miền là nới tiếp giáp với biên giới Trung Quốc, Lào. Do vậy, rất
thuận tiện trong việc giao thương với các nước này ,cũng như làđầu mối quan trọng
buôn bán giữa nước ta với các nước bạn. Hiện nay, kinh tế TQ phát triển mạnh, tốc
độ tăng trưởng cao vàổn định. Vì vậy, việc phát triển quan hệ hợp tác với TQ còn

15 15
tạo điều kiện để thâm nhập vào thị trường thế giới.Điều đó càng khẳng định vị trí
quan trọng của vùng đối với việc phát triển kinh tếđất nước.
Miền núi phía Bắc với diện tích tự nhiên trên 9,3 triệu ha , chiếm 28% diện tích
đất trống , đồi núi trọc còn gần 6 triệu ha, trong đó có 67% có thể sử dụng ngay vào
sản xuất nông nghiệp , có gần 9 triệu người gồm 42 dân tộc , chiếm 50 % đồng bào
các dân tộc ít người của cả nước .Miền núi phía Bắc có nhiều tiềm năng phát triển
kinh tế nông nghiệp.
Vùng trung du và miền núi phía bắc (bao gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La,Hoa
Bình,Phú thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Giang, Lạng Sơn,
Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên và Quảng Ninh), là một vùng có tiềm năng phát
triển kinh tế hàng hoá nông nghiệp . Đây là vùng có tới 1,2 triệu hađất nông
nghiệp , 2,8 triệu ha đất lâm nghiệp( có 2,1 triệu ha rừng tự nhiên) . Đây là vùng có
mật độ dân số thấp thứ hai trong cả nước :gần 100 người/1km2( sau Tây Nguyên).
Dân số trong toàn vùng 11.303 nghìn người( 14% số dân số cả nước) trong đó có
42 dân tộc anh em sinh sống, chiếm gần 50% đồng bào dân tộc ít người của cả
nước, đất nông nghiệp bình quân 1.182 m2/người.
Là vùng có vị tríđịa lí từ 20 đến 23 vĩđộ bắc, hình thành các tiểu vùng sinh thái
tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá. Lợi thế của vùng là
phát triển tốt nhiều loại cây công nghiệp ( chề, đỗ tương, mía, đường...); nhiều loại
cây dược liệu(quế ,hồi) các loại cây ăn quả( nhãn, vải thiều,cam quýt, mạn mơ..)
;trồng rừng và phát triển chăn nuôi: trâu, bò, lợn, gà, gia cầm đặc biệt là chăn nuôi
trâu bò là lợi thế của vùng trung du và miền núi phía bắc nước ta.
Vùng trung du và miền núi phía bắc là vùng cóđường biên giới dài 2.300km
giáp với Trung Quốc ,Lào; có 250km bờ biển với các cảng lớn ,cảng nước sâu:
Cảng Cái lân, Cảng Hải Phòng...Cóđường sắt liên vận nối liền Việt Nam với Trung
Quốc, tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới,
đặc biệt là thị trườngTrung Quốc rộng lớn tạo những lợi thế trong việc khai thác thị
16 16
trường đầu vào vàđầu ra cho việc phát triển kinh tế trang trại. Mặt khác, khu vực

các tỉnh trung du và miền núi phía bắc còn là khu vực có các trung tâm công nghiệp
,trung tâm đô thị và khu vực kinh tế cửa khẩu sôi động. Đây cũng là những điều
kiện hết sức quan trọng giúp cho nền kinh tế nói chung , kinh tế trang trại nói riêng
phát triển thuận lợi.
Với địa hình đồi núi , vùng tập trung khá nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số
có nền văn hoáđa dạng giàu bản sắc dân tộc. Đồng thời còn có sự giao thoa giữa
các nền văn hoá tạo nên nét riêng, đặc sắc của vùng.Bên cạnh đó, giữa các dân tộc
có sựđoàn kết cao cùng nhau phát triển kinh tế xã hội của cả vùng.Cũng nhưđồng
bào cả nước, nhân dân trong vùng rất cần cù, chịu khó.
Tuy có khá nhiều dân tộc sinh sống songnhân dân đều tin vào đường lối phát
triển của Nhà nước , nền chính trịổn định.
Với mật độ dân số thấp, dân cư trong vùng còn thưa thớt, tập trung theo làng
bản dọc triền đồi núi.Các thị xã tập trung kháđông các đồng bào trong vùng,có
trình độ phát triển khá cao.
Nhìn chung , trong mấy năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế của vùng khá
cao vàổn định. Về cơ cấu ngành, đã có sự chuyển dịch tỷ trọng giữa các ngành,
tăng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Song, nông nghiệp của
vùng vẫn đóng một vai trò quan trọng và tăng về sản lượng.
2.Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư vào việc phát triển mô hình kinh tế
trang trại của vùng:
Để kinh tế trang trại phát triển cần có nhiều yếu tố như vốn, đất đai, khoa học kĩ
thuật, giống cây trồng vật nuôi...trong đó vốn là yếu tố rất quan trọng.
Bảng1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại
đến 1 tháng 10 năm 2001
17 17

×