Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.95 KB, 9 trang )

Dự trữ bắt buộc - Từ lý thuyết đến thực tiễn
PGS.,TS.Nguyễn Thị Nhung
1
Để có thể thực hiện mục tiêu ổn định và tăng trưởng thông qua việc
cung ứng tiền và điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng Trung
ương (NHTƯ) các nước có thể sử dụng các công cụ khác nhau: lãi suất,
chính sách chiết khấu, thị trường mở Trong đó, dự trữ bắt buộc là công cụ
nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch
định chính sách - họ đã tốn không ít giấy mực để nói về dự trữ bắt buộc. Tuy
nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ nghiên cứu mang tính lý thuyết ở các
góc cạnh khác nhau của dự trữ bắt buộc và từ đó nhìn nhận lại thực tế với hy
vọng là nguồn tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Như một yêu cầu tất yếu, dự trữ bắt buộc ra đời: Dự trữ bắt buộc là
một phần số dư tiền gửi các loại mà các ngân hàng thương mại (NHTM)
phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHTƯ. Trong hoạt động
kinh doanh của mình, các NHTM sử dụng các khoản tiền gửi của khách
hàng để cho vay hoặc đầu tư một cách khá linh hoạt. Nếu như các khoản cho
vay đều có thời hạn, một ngày hay cho vay qua đêm cũng đều có thời hạn,
thậm chí thời hạn có thể còn kéo dài hơn dự kiến vì đến hạn thu nợ, có thể
ngân hàng vẫn không thu được nợ - trong khi đó, đối với nguồn tiền gửi của
khách hàng thì các ngân hàng lại rất khó khăn trong việc kiểm soát thời hạn,
ngay cả khi gửi tiết kiệm có kỳ hạn thì khách hàng gửi tiền vẫn có thể rút
tiền trước khi đến hạn; tình trạng tiền cho vay ra chưa thu hồi về nhưng
khách hàng gửi tiền lại có nhu cầu rút tiền trước hạn là hiện tượng luôn có
thể Điều này cho thấy rủi ro thanh khoản luôn là mối lo của các NHTM.
Mặt khác, trên thực tế, thời hạn cho vay còn dài hơn thời hạn của nguồn tiền
gửi, nói khác đi là kỳ hạn gửi tiền của mỗi loại tiền gửi không phải lúc nào
cũng là cơ sở để xem xét và quyết định thời hạn cho vay, mà ngân hàng có
thể khai thác tính ổn định tương đối của tổng số dư tiền gửi không kỳ hạn để
cho vay có thời hạn, dùng nguồn tiền gửi thời hạn ngắn để cho vay với thời
hạn dài hơn nên nguy cơ rủi ro cao hơn. Khi rủi ro thanh khoản xảy ra,


ngân hàng mất khả năng thanh toán - các khoản tiền gửi ở các ngân hàng sẽ
nhanh chóng “bay hơi”, không những thế nó còn làm “bay hơi” giá trị tài sản
và các khoản dự trữ của ngân hàng đó và theo phản ứng dây chuyền thì rủi
ro này sẽ làm chấn động toàn hệ thống ngân hàng. Vì thế, như một kết quả
cần phải có, các nhà phân tích đã chỉ ra rằng các NHTM phải để dự trữ bắt
1
Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh
buộc vì đây chính là kho dự trữ lỏng để trợ giúp cho các ngân hàng trong
thời kỳ hoảng loạn.
Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu
tiên được sử dụng ở Mỹ vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán của các NHTM. Vào những năm 30 của thế kỷ 20, sau
những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài, tỷ lệ dự trữ bắt buộc dần được sử
dụng phổ biến ở các nước khác. Và lúc này, người ta nhìn nhận dự trữ bắt
buộc trong một vai trò khác - dự trữ bắt buộc là công cụ để NHTƯ các nước
sử dụng để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế. Nói cách khác, dự trữ bắt buộc
làm tăng khả năng kiểm soát của NHTƯ đối với quá trình cung ứng tiền.
Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ có thể tác động vào
nguồn dự trữ, thay đổi vốn khả dụng của các ngân hàng để làm thay đổi tiềm
năng tín dụng của các ngân hàng - nhưng NHTƯ không phải là người quyết
định việc sử dụng các tiềm năng ấy.
Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế
kỷ 20, song ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng Việt Nam mới chỉ làm quen
với khái niệm này vào năm 1990. Tháng 5/1990, sau khi “Pháp lệnh Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam”, “Pháp lệnh Ngân hàng, các hợp tác xã
tín dụng và công ty tài chính” được ban hành thì các NHTM Việt Nam mới
bắt đầu thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc.
Tác động của dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn

vốn khả dụng của mỗi ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động
được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì phần chênh lệch còn lại - vốn khả
dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân
hàng càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một
đối tượng nào đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động này
mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá
trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng làm cho tổng
nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên nhiều lần so với số
tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua đó cho
thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của
hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng
tín dụng, còn thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không
lại phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp tín dụng của các ngân hàng và nhu
cầu tín dụng của nền kinh tế.
Dự trữ bắt buộc và lãi suất
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể thu mở rộng hay thu hẹp tiềm
năng tín dụng cho nên lãi suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống
hoặc tăng lên.
Thứ hai, hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt
buộc của các ngân hàng ở NHTƯ không được tính lãi hoặc mức lãi không
đáng kể. Khi dự trữ bắt buộc tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay
giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Điều này được các ngân
hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường tín
dụng.
Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi
tiềm năng tín dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối
cùng mà NHTƯ muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc sẽ được nâng lên nếu NHTƯ thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng

đến mục tiêu kiểm soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho
người lao động thì NHTƯ sẽ hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tác động ngược chiều đến khối lượng tiền cung ứng thể hiện qua công thức
tính hệ số nhân tiền:
1
Hệ số tạo tiền =
T l d tr b t bu cỷ ệ ự ữ ắ ộ
Có thể nói sự tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với khối lượng
tiền trong nền kinh tế là khá toàn diện, nó tác động rất mạnh mẽ không chỉ
đến quy mô, khối lượng tín dụng mà cả đối với lãi suất tín dụng. Mức độ tác
động không đơn giản chỉ làm tăng hay giảm đơn thuần mà làm thay đổi theo
số lần về tiền trong lưu thông.
Cơ sở xác định dự trữ bắt buộc
NHTƯ các nước thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là
công cụ điều hành chính sách tiền tệ, giúp NHTƯ kiểm soát hệ số nhân tiền
và trên cơ sở đó kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào mục tiêu
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định
khác nhau. Điều này được chứng minh rất rõ ở nước ta trong thời gian qua:
Bảng 01: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam
từ tháng 01/2008- 01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt bụôc
(VND)
Văn bản
11%
1
- 5%
2
187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008
10%

1
- 4%
2
2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008
8%
1
- 2%
2
2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
6%
1
- 2%
2
2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008
5%
1
- 1%
2
3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
3%
1
- 1%
2
379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009
(
1
): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng
(
2
): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên

Nguồn:
Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm
đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thông qua việc nâng cao hệ số
nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các ngân hàng
thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho nền
kinh tế.
Ngày nay, khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc, nghĩa là, NHTƯ đang
muốn điều chỉnh hệ số nhân tiền, mặc dù vậy nhưng mục tiêu đảm bảo khả
năng thanh khoản cho ngân hàng của dự trữ bắt buộc vẫn không bị mất đi ý
nghĩa của nó, không những thế, nó còn là cơ sở để xác định tỷ lệ dự trữ bắt
buộc.
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ
lệ dự trữ bắt buộc:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của
tiền gửi mà nghĩa vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng
dài thì mức độ ổn định càng cao và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì
thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi này thường thấp hơn so với
loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.
- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông
thường quy mô của các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao
và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi. Về
điều này, ta có thể tham khảo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của FED.
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh
khoản khác nhau nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi
của các đồng tiền khác nhau (Xem bảng 03).
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ
tháng 12/2010
Yêu cầu dự trữ
Loại trách nhiệm

Yêu cầu
% Của các
khoản nợ
Ngày có
hiệu lực
Tài khoản giao dịch thuần
$ 0 đến $ 10.700.000 0 30/12/2010
Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000
$
3 30/12/2010
Nhiều hơn $ 58.800.000 10 30/12/2010
Nonpersonal tiền gửi thời gian 0 27/12/1990
Eurocurrency nợ 0 27/12/2010
Nguồn:
Bảng 03: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định 379 và Quyết định 79
Loại hình tổ chức tín dụng
379/QĐ-NHNN 79QĐ-NHNN
Tiền gửi
VND không
kỳ hạn và
dưới 12
tháng
Tiền gửi
VND từ 12-
24 tháng
Tiền gửi
ngoại tệ
không kỳ
hạn và dưới
12 tháng

Tiền gửi
ngoại tệ từ
12-24 tháng
1. NHTM nhà nước,
NHTMCP đô thị, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, công ty cho
thuê tài chính.
3% 1% 4% 2%
2. Ngân hàng Nông nghiệp và 1% 1% 3% 1%
Phát triển Nông thôn Việt
Nam
3. NHTMCP nông thôn, ngân
hàng hợp tác, quỹ tín dụng
nhân dân.
1% 1% 3% 1%
4. Tổ chức tín dụng khác. 0% 0% 0% 0%
Nguồn:
Ngoài ra, tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn có thể quy định tùy theo quy mô và
mức độ an toàn chung của mỗi ngân hàng
Khi quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng căn cứ
vào quy mô của ngân hàng, NHTM lớn chịu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn
NHTM có quy mô nhỏ. Ngày 27/11/2010, để kiềm chế lạm phát, NHTƯ
Trung Quốc đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 17,5% áp dụng cho ngân hàng
lớn lên 18%; và từ 15,5% lên 16% áp dụng cho ngân hàng nhỏ. Đồng thời
với tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTƯ Trung Quốc cũng tăng lãi suất cơ bản
từ 5,56% lên 5,81%. (www.thesaigontimes.vn)
Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính
chất kỳ hạn, loại tiền gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi
bằng ngoại tệ phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự

khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa các ngân hàng cũng được quan tâm.
Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009
(đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với
ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau:
Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn
ngày 08/12/2010, NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460;
461 về việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ
trọng cho vay nông nghiệp và nông thôn cao theo Thông tư 20/2010/TT-
NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo đó, Quỹ tín dụng nhân dân Trung
ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam, NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long,
NHTM cổ phần Mê Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 so
với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường. (www.sbv.gov.vn). Với quy định này
NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư của các
NHTM.
Một số gợi ý khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc: Ngoài việc khai
thác các góc độ khác nhau của tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thiết nghĩ trong quá
trình sử dụng công cụ này để điều hành chính sách tiền tệ NHTƯ nên quan
tâm đến một số vấn đề sau:
Dự trữ bắt buộc có thể duy trì dưới dạng tiền mặt tại quỹ các NHTM.
Theo Điều 14 “Luật NHNN Việt Nam” ban hành năm 2010 thì “Dự trữ bắt
buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia”, với khái niệm này, toàn bộ dự trữ bắt buộc buộc phải
gửi tại NHNN. Trên thực tế, ngoài tiền gửi ở NHNN, các NHTM luôn phải
có dự trữ tiền dưới dạng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên
của khách hàng. Nhất là trong thời kỳ lạm phát cao, mặc dù dự trữ bắt buộc
theo quy định thường đã cao hơn bình thường nhưng ngoài dự trữ bắt buộc
thì đế đối phó với lạm phát, bản thân các ngân hàng còn phải đối phó với

tình trạng rút tiền bất thường của khách hàng, cho nên các ngân hàng còn
phải để dự trữ tiền mặt nhiều hơn. Thực ra tiền mặt tại các NHTM cũng là
một dạng dự trữ và mức độ dự trữ tiền mặt cũng có tác động đến hệ số nhân
tiền của toàn hệ thống ngân hàng không khác gì tiền dự trữ bắt buộc gửi ở
NHNN. Nếu khi tính toán hệ số nhân tiền gửi để kiểm soát mức độ mở rộng
quy mô tiền gửi chỉ căn cứ vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc gửi tại NHNN sẽ không
phản ánh đúng thực tế đang diễn ra - hệ số nhân tiền thực tế sẽ luôn nhỏ hơn
hệ số nhân tiền dự báo và như vậy, khối lượng tiền cung ứng thực tế thấp
hơn so với mức mong muốn.
Dự trữ bắt buộc chỉ là yếu tố quyết định hệ số nhân tiền tệ trong dự
báo, dự trữ thực của các NHTM mới thực sự quyết định hệ số nhân tiền
trong thực tế.
Trong tác động của dự trữ bắt buộc đối với khối lượng tiền cung ứng
có thể dễ dàng nhận ra rằng việc giới hạn cụ thể lượng tiền mỗi ngân hàng
muốn đưa vào lưu thông không phải là việc khó, bởi vì mỗi ngân hàng đơn
lẻ chỉ có thể cho vay trong phạm vi dự trữ của nó mà thôi. Trong khi đó, đối
với cả hệ thống ngân hàng thì việc tôn trọng giới hạn trên trở lên bấp bênh,
cho dù NHTƯ có thể thực hiện tốt vai trò phát hành nhưng lại khó có thể
kiểm soát được một cách chính xác mức độ tạo tiền của toàn hệ thống, bởi
lẽ, ngoài tỷ lệ dự trữ bắt buộc ra thì khả năng tạo tiền còn phụ thuộc vào một
số yếu tố khác. Mỗi ngân hàng có nhiều lý do để duy trì dự trữ của mình ở
mức độ cao hay thấp, đó là: đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng trong
từng thời kỳ; lý do về sự an toàn cần phải cân nhắc mỗi khi quyết định cho
vay; lý do quản lý nợ lành mạnh Ngoài những giới hạn xuất phát từ chính
bản thân ngân hàng thì những ràng buộc bên ngoài tác động đến quá trình
tạo tiền cũng rất đáng kể như: nhu cầu tín dụng của khách hàng có khả năng
hoàn trả; nhu cầu giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tê Một trong
những biểu hiện của vấn đề này là sự vượt trội quá mức về dự trữ ở các ngân
hàng so với dự trữ bắt buộc, với tình trạng này sẽ gần như vô hiệu hóa khả
năng chi phối quá trình cung ứng tiền của NHTƯ. Và ngược lại, trong

trường hợp nền kinh tế có xu hướng tăng trưởng, cầu về vốn có xu hướng
tăng, các ngân hàng thỏa mãn nhu cầu này bằng cách giảm mức dự trữ hiện
hữu và vì thế, khối cung tiền tệ được mở rộng nằm ngoài dự kiến của
NHTƯ. Vì khả năng gây ảnh hưởng của dự trữ bắt buộc là rất lớn cho nên,
một mặt, cần quan tâm đến những nhân tố tác động đến quá trình tạo tiền để
có những ứng xử kịp thời và hiệu quả, bên cạnh đó, cũng cần quan tâm và
tìm ra phương pháp thích hợp để quản lý dự trữ nói chung của các NHTM.
Dự trữ bắt buộc - công cụ khá hiệu nghiệm trong việc kiểm soát lạm
phát
Dĩ nhiên là các công cụ dù là lãi suất, tỷ giá, thị trường mở hay tỷ lệ
dự trữ bắt buộc thì việc sử dụng chúng đều nhằm đạt được mục tiêu của
chính sách tiền tệ, song mỗi công cụ có đặc điểm riêng và vì thế, nó có
những mặt mạnh và mặt yếu riêng. Khác với các công cụ khác, dự trữ bắt
buộc là công cụ luôn được khuyến cáo về mức độ tác động cực mạnh của nó
- làm thay đổi “số lần” khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông nên phải sử
dụng một cách thận trọng. Thận trọng nghĩa là không thay đổi một cách đột
ngột với một mức độ lớn chứ không đồng nghĩa với không sử dụng, chính
trong khi khai thác nó một cách thận trọng thì đây lại là một điểm mạnh của
dự trữ bắt buộc. Nếu quan sát diễn biến của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong quá
trình điều hành chính sách tiền tệ của Trung Quốc sẽ thấy được mức độ quan
tâm của NHTƯ Trung Quốc đối với công cụ này trong việc kiềm chế lạm
phát. Chỉ riêng năm 2010, Trung Quốc đã điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc
tới 6 lần, lần gần nhất trong năm này được điều chỉnh vào ngày 20/12/2010,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng lên 0,5% đạt mức 18,5% đối với
những ngân hàng có quy mô lớn. Tháng 01/2011, lần đầu tiên trong năm tỷ
lệ dự trữ bắt buộc được nâng thêm 0,5% (vào ngày 15/01/2011); ngày
18/2/2011, tỷ lệ dự trữ bắt buộc lại một lần nữa được nâng 0,5% để đối phó
với lạm phát hiện đang là 4,9%, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 19,5%.
(www.xaluan.com).
Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm

soát lạm phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm
2007 (từ 5% lên 10%) và năm 2008 - khi tình hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đã được điều giảm dần một cách linh hoạt. Tuy nhiên, gần
như suốt năm 2009 và 2010, kể cả những tháng đầu năm 2011 - lạm phát
không còn là nỗi lo mà là thực tế đang phải đối mặt thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với VND vẫn không thay đổi (Xem bảng 01). Nên chăng khai thác công
cụ này một cách thận trọng để kiểm soát lạm phát, nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách tiền tệ - điều chỉnh tăng từ từ, không cần tạo sự bất ngờ và
nếu cần, vẫn áp dụng việc trả lãi cho dự trữ bắt buộc.
TÀI LIÊU THAM KHẢO:
- Nguyễn Thị Nhung: “Có thể trả lãi cho dự trữ bắt buộc?”, Tạp chí
Ngân hàng số 29/2008
- www.sbv.gov.vn
- www.federalreserve.gov
- www.thesaigontimes.vn
- www.xaluan.com

×