Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lenin về vấn đề dân tộc và giai cấp và cách tiếp cận của chủ tích hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.58 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

Nội dung

Trang

Mở đầu
Phần I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về vấn đề dân tộc và giai cấp và cách tiếp
cận của chủ tích Hồ Chí Minh
1. Vấn đề dân tộc và giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin
1.1 Vấn đề dân tộc
1.2 Vấn đề giai cấp
2. Vấn đề dân tộc và giai cấp theo quan điểm Hồ Chí Minh
2.1 Vấn đề dân tộc
2.2 Vấn đề giai cấp
Phần II: Vấn đề dân tộc và giai cấp theo quan điểm của Hồ Chí Minh áp dụng vào từng
thời kỳ của cách mạng Việt Nam
1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
2. Thời kỳ 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc
3. Thời kỳ 1921- 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
4. Thời kỳ 1930- 1945: Vượt qua thử thách , kiên trì giữ vững lập trường cách mạng
5. Thời kỳ 1945- 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện
Phần III: Quan điểm các nhân về việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
1. Tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp
2. Nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
3. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Kết luận

1




LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ chiến đấu chống thực dân của nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng
Cộng sản Việt Nam quang vinh do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đất nước ta đã có
những bước nhảy vọt vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Trên nền tảng giá trị văn hoá tư
tưởng truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp biến, tổng hồ và phát
triển biện chứng tinh hoa văn hố tư tưởng phương Đông và phương Tây, đặc biệt lấy học
thuyết cách mạng của Mác - Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận, xây dựng
được một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo về lý luận giải phóng và phát triển làm
kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Sau khi lựa chọn
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh
đã nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp. Trên cơ sở đó, Người đã từng bước giải quyết thành cơng những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam.

Phần I: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về vấn đề dân tộc và giai cấp và cách tiếp
cận của chủ tích Hồ Chí Minh
1. Vấn đề dân tộc và giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin
1.1 Vấn đề dân tộc
-

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là cộng đồng xã hội - tộc

người ổn định, bền vững, là sự kết tinh độc đáo của các cộng đồng ngôn ngữ; lãnh thổ;
kinh tế; văn hóa, tâm lý, tính cách; nhà nước và pháp luật. Ở châu Âu, dân tộc được hình
thành gắn liền với sự ra đời và phát triển của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đóng vai trị
quyết định đối với việc xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài chính dân
cư, đưa đến sự tập trung về chính trị. Cịn đối với các nước phương Đơng, trong đó có
Việt Nam thì lại có những điểm khác biệt về sự hình thành dân tộc, do đó vấn đề dân tộc

và giải quyết những vấn đề dân tộc cũng như vấn đề giai cấp ở phương Đông sẽ khác so
với phương Tây. Cụ thể ở Việt Nam, sự hình thành dân tộc vốn diễn ra từ rất sớm do
nhu cầu đấu tranh chống giặc ngoại xâm và chinh phục tự nhiên chứ không gắn liền với

2


sự ra đời của giai cấp tư sản.
-

Do điều kiện của lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ đề cập, xem xét, nghiên cứu và

giải quyết vấn đề dân tộc trong điều kiện lịch sử các nước tư bản chủ nghĩa ở Châu Âu.
Còn vấn đề dân tộc đối với các nước phương Đơng, trong đó có Việt Nam, các ơng chưa
đi sâu vào giải quyết, do điều kiện lịch sử các nước phương Tây, vấn đề dân tộc không
nổi nên gay gắt như vấn đề giai cấp, vấn đề mâu thuẫn giai cấp nổi trội cần được giải
quyết trước. Vì vậy, các ông quan tâm nhấn mạnh nhiều về vấn đề giai cấp và nêu cao
khẩu hiệu vô sản tất cả các nước đoàn kết lại.
1.2 Vấn đề giai cấp
- Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện về giai cấp như
sau: Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một
hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải của xã hội ít
hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đồn người, mà tập đồn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất
định.
- Như vậy, theo quan điểm mácxít, sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành lợi ích giai cấp khác nhau.
Lợi ích đó do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên. Giai cấp và đấu tranh giai cấp là hiện tượng lịch
sử, tồn tại khách quan, chứ không phải là kết quả của một cách tiếp cận xã hội, không phải là sản phẩm của ý

thức. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt của giai cấp công nhân sẽ giải phóng
bản thân họ và tồn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột và phân chia giai cấp.
2. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân dân tộc và giai cấp
2.1 Vấn đề dân tộc
- Trên cơ sở kế thừa quan điểm của Mác và Ăngghen, Lênin đề cập vấn đề dân tộc trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, Người cho rằng vấn đề dân tộc là vấn đề lớn mang tính quốc
tế mà thực chất đó là vấn đề dân tộc thuộc địa: “Vấn đề dân tộc phải là nội dung quan trọng trong chiến
lược, sách lược của các Đảng Cộng sản; phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân
tộc tư sản, của chủ nghĩa sô vanh; phải tăng cường chủ nghĩa quốc tế vô sản. Các Đảng Cộng sản cần phải
tăng cường quan tâm đến vấn đề dân tộc thuộc địa”
- Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng và phát triển dân tộc. Hồ Chí
Minh đã đứng dưới góc độ dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức để xem xét vấn đề dân tộc. Hay có thể nói
cách khác vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh xem xét là vấn đề dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhân dân các
3


nước thuộc địa 26 đang bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Người chỉ ra, thực chất của vấn đề dân tộc là độc lập
tự do, là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngồi, giành độc lập dân
tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập một nhà nước dân tộc
độc lập. Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, phát triển dân tộc ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đây là
một trong những nội dung cốt lõi về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi
hiểu”
- Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng và phát triển dân tộc. Hồ Chí
Minh đã đứng dưới góc độ dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp bức để xem xét vấn đề dân tộc. Hay có thể nói
cách khác vấn đề dân tộc mà Hồ Chí Minh xem xét là vấn đề dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhân dân các
nước thuộc địa 26 đang bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược.
2.2 Vấn đề giai cấp
- Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng giai cấp (giai cấp công nhân,

nông dân và các tầng lớp lao động khác...) khỏi tình trạng áp bức bóc lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh
phúc cho các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam. Trong điều kiện dân tộc bị xâm lược vấn đề giai cấp
luôn được Hồ Chí Minh đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống nhất
chặt chẽ với lợi ích dân tộc. Điều đó có nghĩa là chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp. Hội
nghị Trung ương lần thứ tám do Người chủ trì, đã khẳng định: Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai
cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể
quốc gia dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng
địi lại được.
- Khi đất nước giành được độc lập rồi thì giải phóng giai cấp chính là phải từng bước xố bỏ nghèo nàn và
lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đây là vấn đề
nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”

Phần II: Vấn đề dân tộc và giai cấp theo quan điểm của Hồ Chí Minh áp dụng vào từng thời kỳ của
cách mạng Việt Nam
1.Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
- Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột đến
cùng cực của đồng bào mình. Khi vào huế, người lại tận mắt nhìn thấy tội ác của thực dân Pháp và thái độ
ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều. Tất cả đã thôi thúc anh ra đi tìm một con đường để cứu dân cứu
nước.
4


- Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những hạn chế của những người đi trước như con đường cứu nước của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám...Người từ chối Đơng Du khơng phải vì đã hiểu bản chất của đế
quốc Nhật mà chỉ cảm thấy không thể dựa vào yếu tố nước ngồi để giải phóng Tổ quốc.
2. Thời kỳ 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
- Năm 1911: Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước. Qua cuộc hành trình đi
tới nhiều vùng đất, nhiều thuộc địa, người nhận thấy ở đâu nhân dân cũng mong muốn thốt khỏi áp bức

bóc lột. Từ lịng u thương đồng bào mình, Hồ Chí Minh càng đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ
trên toàn thế giới. Ở Người đã nảy sinh ý thức về sự cần thiết phải đoàn kết những người bị áp bức để đấu
tranh cho quyền lợi chung.
- Năm 1911, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi bản yêu sách của nhân
dân An Nam tới Hội Nghị Vecsxay đòi Chính phủ pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của
nhân dân Việt Nam . Bản yêu sách đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, làm cho nhân dân thế giới và nhân
dân Pháp phải chú ý tới tình hình Việt Nam và Đơng Dương.
- Những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê Nin đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường
giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào. Việc biểu quyết tán thành Đệ tam Quốc tế tham gia thành lập
Đảng cộng sản Pháp (1920), trở thành người Cộng Sản Việt Nam đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển tiến về
chất trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp , từ yêu nước trở thành
người cộng sản.
3, Thời kỳ 1921-1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
-

-

Trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong
phú và sôi nổi. Người viết nhiều bài tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối quan hệ mật thiết giữa
cách mạng thuộc địa và cách mạng vo sản ở chính quốc.
Các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927),
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) và nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự
phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc.

4, Thời kỳ 1930-1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường Cách mạng
-

-

-


Vào những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản bị chi phối nặng bởi khuynh
hướng tả. Khuynh hướng này đã trực tiếp tác động vào phong trào cách mạng Việt Nam. Biểu hiện rõ
nhất là những quyết định được đưa ra trong hội nghị lần thứ nhất ban chấp hành trung ương lâm thời
của Đảng. Hội nghị chỉ trích và phê phán đường lối của Nguyễn Ái Quốc đưa ra trong Chánh cương vắn
tắt và Sách lược vắn tắt.
Trên cơ sở xác định chính xác con đường cần phải đi của Cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên
trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc
thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả khuynh.
Tháng 7,-1935, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã phê phán khuynh hướng tả trong phong trào cộng sản
quốc tế, chủ trường mở rộng mặt trận dân tộc và thống nhất vì hịa bình. Sự chuyển hướng của quốc tế

5


-

-

-

cộng sản đã chứng tỏ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, về mặt trận dân tộc thống
nhất là hoàn toàn đúng đắn.
Trước khi về nước, trong thời gian cịn hoạt động ở nước ngồi, người vẫn luon theo dõi tình hình trong
nước, kịp thời có những chỉ đạo để cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên. Người viết tám điểm xác định
đường lối chủ trương cho cách mạng Đông Dương trong thời kỳ 1936-1939. Khi tình hình thế giới có
những biến động mới, Người đã chủ động đề nghị quốc tế cộng sản cho về nước hoạt động.
Được Quốc tếCộng sản chấp thuận, Nguyễn Ái Quốc từMatxcơva vềTrung Quốc (tháng 10 –1938).
Tại đây, Người đã có những quan điểm chỉđạo sát hợp gửi cho các đồng chí lãnh đạo trong nước. Ngày
28 -1 -1941, sau 30 năm hoạt động ởnước ngoài, Nguyễn Ái Quốc trởvềtổquốc. Tại Hội nghịTrung ương

lần thứVIII, dưới sựchủtrì của Nguyễn Ái Quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương
đã hồn chỉnh việc chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2 -9 –45, khai sinh nước Việt Nam Dân chủCộng hịa, HồChí Minh đã
nhấn mạnh các quyền cơ bản của các dân tộc trên thếgiới, trong đó có Việt Nam. Bản tuyên ngôn nêu
rõ: ‘Tất cảcác dân tộc trên thếgiới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tựdo”, “nước Việt Nam có quyền hưởng tựdo và độc lập, và sựthật đã thành một nước
tựdo độclập. Toàn thểdân tộc Việt Nam quyết đem tất cảtinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tựdo, độc lập ấy”.

5, Thời ký 1945-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn thiện
-

-

-

Về đối nội, Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nền tài
chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn bớt thù, “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu dài. Chính nhờ đó,
ngày 19 -12 –1946, với tư thế sẵn sàng và lòng tin sắt đá vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ
nhưng nhất định thắng lợi Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến tồn quốc chống thực dân
Pháp. Từ đây, Người là linh hồn của cuộc kháng chiến, đề ra đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Năm 1951, do yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn
toàn, Trung ương Đảng và chủ tịch HồChí Minh đã triệu tập Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II
của Đảng, đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam. Đại hội đã chủ trương
thành lập đảng riêng ở Lào và Campuchia,kịp thời lãnh đạo các nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước. Đại
hội cũng thông qua Cương lĩnh và Điều lệ mới của Đảng, đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, giải
quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, nhằm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Năm 1954, dưới sựlãnh đạo của Trung ương Đảng và chủtịch Hồchí Minh, cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi.
Xuất phát từthực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng HồChí Minh vềnhiều
vấn đềđãtiếp tục được bổsung và phát triển, hợp thành một hệthống những quan điểm lý luận
vềcách mạng Việt Nam, đó là: tư tưởng vềchủnghĩa xã hội và con đường quá độlên chủnghĩa xã hội; tư
tưởng vềnhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng và chiến lược vềcon người; tư tưởng vềĐảng
Cộng sản và xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền...

6


Phần III: Quan điểm cá nhân về việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
1. Tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Thứ nhất, xuất phát từ sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản của Hồ Chí Minh. Có thể nói, sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển của dân tộc và thời đại, và nó
được biểu hiện một cách thống nhất, biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và chính đây là một trong
những nhân tố quy định tính tất yếu việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam đòi hỏi giải quyết vấn đề dân tộc gắn với vấn đề giai cấp.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp là một tất yếu khách quan. Hay nói cách khác, theo quan điểm của Người chính yếu tố
thực tiễn đã quy định tính tất yếu phải giải quyết vấn đề dân tộc gắn với vấn đề giai cấp. Người khẳng định:
“Trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng
vơ sản trong phạm vi tồn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”.
Thứ ba, giải quyết được vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để xác lập được đúng đắn đường lối cho
cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
hai phạm trù không thể tách rời, dân tộc là địa bàn tồn tại của giai cấp, dân tộc chứa đựng nó trong lịng nó
các giai cấp và các cuộc đấu tranh giai cấp. Hệ thống giai cấp là kết cấu bên trong dân tộc. Chính vì vậy, để

giải quyết vấn đề dân tộc bao giờ cũng được giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định.

2. Nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Từ việc khẳng định giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một tất yếu khách
quan, phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc và thời đại, thì Hồ Chí Minh cũng chỉ ra những vấn đề có
tính ngun tắc trong giải quyết vấn đề trên, nó là cơ sở quan trọng để có định hướng đúng đắn, khoa học
cho việc nhận thức và giải quyết hợp lý mối quan hệ dân tộc và giai cấp ở nước ta trong từng giai đoạn, từng
điều kiện cụ thể của cách mạng, góp phần thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Quan điểm của Hồ Chí
Minh về vấn đề này được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân.
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề chiến lược gắn liền với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.

7


giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải đảm bảo thống nhất, hài hịa về
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài giữa giai cấp cơng nhân với các giai tầng trong nội bộ dân tộc.
trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp cần phải sáng tạo, linh hoạt và khéo léo
trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo huy động được mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng.

3. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
3.1 Đa dạng hóa các hình thức sở hữu nhằm thực hiện phát triển kinh tế thị trường gắn liền với giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta hiện nay
là thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó sẽ khơng có kết

quả nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng “tụt hậu”, hoặc “chệch hướng” xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không chỉ trong chủ nghĩa xã hội mà ngay ở các nước tư bản chủ
nghĩa vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước là hết sức cần thiết. Sự tác động của nhà nước đối với kinh tế
là sự tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở hạ tầng, kinh tế, là sự tác động của nhân tố
chủ quan đối với nhân tố khách quan. Sự tác động đó có thể có tác dụng tích cực (nếu như phù hợp với yêu
cầu phát triển khách quan của nền kinh tế, phù hợp với những quy luật phát triển của kinh tế), hoặc tiêu cực
(nếu can thiệp một cách chủ quan, thơ bạo vào nền kinh tế). Nói về vai trò của Nhà nước đối với sự phát
triển kinh tế nước ta trong điều kiện hiện nay Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều
tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
lực lượng vật chất” [51, tr.18]. Để phát được vai trị đó của Nhà nước phải: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính
trị. ... Hồn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân định rõ
hơn vai trị và hồn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường.
3.2 Tăng cường đồn kết dân tộc trên nền tảng liên minh cơng - nơng - trí gắn liền với xây dựng hệ thống
chính trị trong sạch vững mạnh
-

Tăng cường đồn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng

Đồn kết dân tộc vừa là động lực, vừa là mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đi ngược lại với mục
tiêu ấy là khuynh hướng chia rẽ, gây mất đoàn kết, cản trở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu
tranh chống các khuynh hướng chia rẽ để xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất là quy luật tồn tại, phát
triển của dân tộc ta.

8


Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cường đoàn kết dân tộc phải nắm vững những quan điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, đoàn kết dân tộc phải lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm mục
tiêu cơ bản của mọi đường lối và chính sách. Thứ hai, đồn kết phải trên cơ sở tăng cường khối liên minh
giữa giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động hiệu quả đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới.
Để củng cố tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí dưới sự
lãnh đạo của Đảng, một trong những vấn đề cốt yếu chính là xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống
chính trị trong sạch vững mạnh.
Thứ nhất, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp cơng
nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cần phải xây dựng được hệ thống pháp lý minh bạch, rõ ràng, hợp lý,
nghiêm minh.
Thứ ba, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ngày càng vững
mạnh.
3.3 Không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài đưa đất
nước phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, trên cơ sở nắm vững xu thế của thời đại cần xác định đúng đắn đường lối đối ngoại, bảo đảm
lợi ích quốc gia dân tộc. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng quan hệ quốc tế ở nước ta hiện
nay, bởi vì chúng ta chỉ khai thác được tối đa sức mạnh của thời đại khi và chỉ khi chúng ta có một đường lối
đối ngoại đúng đắn, có những đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, mở rộng quan hệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, bảo vệ thành quả của chủ
nghĩa xã hội, đưa nước ta không ngừng phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước.
Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối
ngoại.
Thứ tư, trong quan hệ đối ngoại kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược.
3.4 Giải quyết các xung đột xã hội tạo ra sự thống nhất, đồng thuận xã hội và ngược lại
Giải quyết xung đột xã hội và xây dựng đồng thuận xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giải quyết
xung đột xã hội là cơ sở để tạo ra sự đồng thuận xã hội và ngược lại đồng thuận xã hội cũng giải pháp cơ bản
để giải quyết thấu đáo vấn đề xung đột xã hội. Giải quyết xung đột xã hội tạo sự đồng thuận xã hội cũng

chính là biểu hiện của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện
mới, được xây dựng trên phạm vi quốc gia, dân tộc, bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo,
cả người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
9


3.5 Thực hiện tốt chính sách xã hội và an sinh xã hội nhằm giải quyết một cách hài hòa giữa lợi ích các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội
Thực hiện tốt các chính sách xã hội và an sinh xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế đảm bảo tiến bộ và
công bằng xã hội, theo quan điểm của Đảng ta: “những vấn đề xã hội bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự
phát triển của con người và xã hội như: Dân số và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, thu nhập và mức
sống, giáo dục và y tế, đạo đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá
nhân và cộng đồng”

KẾT LUẬN
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng chính trị của
Hồ Chí Minh. Đây cũng là một sáng tạo lớn nhất (sáng tạo gốc) của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Trung tâm của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Trong đấu tranh dân tộc có đấu tranh giai cấp; đấu tranh giai cấp phải thực hiện được nhiệm vụ
giành và bảo vệ độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải tiến tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc
lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ
XX, một thế kỷ vận động và phát triển nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự
đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, việc vận dụng và
phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và hết sức cấp thiết. Bởi vì, trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên
đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến
lợi ích các giai cấp, tầng lớp khơng được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hồ, sức mạnh dân tộc khơng được

phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất.

10



×