Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.58 KB, 102 trang )

Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
LỜI MỞ ĐẦU:
Bước sang thiên nhiên kỷ mới, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến vững
chắc trên con đường hội nhập nền kinh tế thế giới. Mà việc chúng ta là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới( WTO) thể hiện sự đánh giá cao và những tình cảm nồng hậu
mà bạn bè quốc tế dành cho nước Việt nam ta. Đặc biệt, Đây là sự ghi nhận về những
thành quả to lớn mà chúng ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế -
xã hội và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh” cũng như những đóng góp của chúng ta trong xu thế hợp
tác và phát triển trên thế giới.
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Trong giai đoạn hội nhập hiện nay khi những bước tiến kỳ diệu và những thành tựu
to lớn của khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn lực
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức được vài trò chiến lược của KHCN,
Đảng ta ngay từ đại hội đảng IX đã khẳng định: “Cùng với giáo dục và đào tạo, đầu tư
cho phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế
xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.”. Cũng từ nhận thức đó, trong những năm qua, chi ngân sách nhà nước cho
KH - CN không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Tuy vậy, Chi Ngân sách
cho đầu tư phát triển KH – CN vẫn gặp một số những khó khăn nhất định trong quá trình
trển khai như các thủ tục hành chính, việc thẩm định chi tiêu nhiều khi còn chưa thực sự
hợp lý; chưa có được những tiêu chí cụ thể đánh giá về tính hợp lý hiệu quả… Vì vậy
việc chọn đề tài: Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa
học công nghệ của Việt Nam” là cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu và làm rõ quan điểm, vai trò của
chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ đối với sự phát triển
kinh tế xã hội đất nước. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để xem xét, đánh giá qui trình
1
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
quản lý, sử dụng các khoản chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa học công
nghệ của nước ta hiện nay từ đó đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân


sách cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ.
3- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: Thực trạng quản lý chi ngân sách
cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ của nước trong giai đoạn hiện nay (2003 –
2008) trong đó chủ yếu đề tài đi sâu nghiên cứu tình hình quản lý nguồn chi của ngân
sách trung ương thông qua Bộ Khoa học Công nghệ.
4- Phương Pháp nghiên cứu: Trên cở sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong thực hiện
đề tài: Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.
Về nội dung , ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về tăng cường quản lý chi Ngân sách nhà nước cho đầu
tư phát triển khoa học công nghệ.
Chương 2: Thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa
học công nghệ của Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát
triển khoa học công nghệ.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện luận án, mặc dù bản thân có nhiều cố gắng
nhiêm túc nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi, sáng tạo. Nhưng do thời gian có hạn và kiến thức
còn nhiều hạn chế, Vì vậy luận án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong
các thầy, cô và toàn thể các bạn đọc thông cảm góp ý để luận án ngày càng hoàn thiện.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG
2
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
VỀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
1.1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ.
Để nắm bắt được vấn đề cần nghiên cứu trước hết ta cần nắm được thực chất của
Khoa học Công nghệ:
1.1.1. Khái niệm chung về khoa học công nghệ
a- Khái niệm chung về Khoa học.

Hiện tại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Khoa học: khoa học theo cách hiểu
thông thường là một hình thái ý thức xã hội, tư duy và nó sẽ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp khi được đem vào áp dụng trong sản xuất và cuộc sống của con người. còn theo
định nghĩa của luật Khoa học và Công nghệ được quốc hội thông qua vào ngày 9-6-2000
thì Khoa học được hiểu là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên xã hội và tư duy. khoa học ra đời bắt nguồn từ cuộc đấu tranh của con người với
tự nhiên nhằm làm chủ cuộc sống và được thể hiện trước hết trong sản suất. Như vậy về
bản chất Khoa học là sự khám phá các hiện tượng, các thuộc tính vốn tồn tại một cách
khách quan. Sự khám phá này sẽ làm thay đổi nhận thức của con người, tạo điều kiện
nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn. như vậy khoa học đứng mình nó chỉ là những tri
thức không thể trực tiếp áp dụng vào thực tiễn mà chỉ có thể phổ biến rộng rãi,nâng cao
nhận thưc của con người.
Phân loại khoa học cũng có nhiều cách khác nhau, ở đây trong nội dung đề tài
đưa ra 2 cách phân loại sau:
- Phân loại theo đối tượng nghiên cứu thì Khoa học gồm có Khoa học tự nhiên và
Khoa học xã hội. Trong đó, Khoa học tự nhiên: nghiên cứu các sự vật hiện tượng quá
trình trong tự nhiên, phát hiện các quy luật, xác định các phương thức chinh phục tự
nhiên và cải tạo nó. Còn Khoa học Xã hội nghiên cứu các hiện tượng, quá trình và quy
3
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
luật vận động, phát triển của xã hội để làm cơ sở để thúc đẩy tiến bộ xã hội và phát triển
nhân tố con người.
- Phân loại theo phương thức tổ chức và mục tiêu nghiên cứu Khoa học thì khoa
học bao gồm khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng. Trong đó Khoa học cơ bản: xác
định quy luật, phương thức và phương pháp để triển khai khoa học ứng dụng. Còn Khoa
học ứng dụng: đưa ra phương pháp để ứng dụng khoa học cơ bản vào hoạt động cải biến
các đối tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
b- Khái niệm chung về Công nghệ.
Cũng như khoa học, Công nghệ cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau: theo D.L.
Spencer cho rằng công nghệ là sách giáo khoa trình bày cách thức kết hợp các yếu tố đầu

vào để tạo ra một đầu ra tốt nhất cho nền kinh tế. Còn theo E.H. Hawthorn thì Công
nghệ được định nghĩa là sự vận dụng khoa học để giải quyết các vấn đề đã được xác
định cụ thể. Còn theo K.Galraith thì công nghệ được xem là sự áp dụng một cách hệ
thống khoa học và kiến thức liên quan vào các nhiệm vụ thực tế.
Còn theo giới sản xuất kinh doanh thì công nghệ được hiểu là gồm tất cả những gì
bao gồm cả tài năng, trí tuệ cũng như các thiết bị, phương pháp được sử dụng trong sản
xuất kinh doanh cung cấp dịch vụ và có thế mua bán trao đổi trên thị trường. Với quan
điểm này thì công nghệ được coi như là một phương tiện cần thiết tác động vào quá trình
sản xuất để tạo ra hàng hoá và dịch vụ cho xã hội.
Còn theo Luật Khoa học và Công nghệ, Công nghệ được định nghĩa là: Tập hợp
các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm.
Tuy cách định nghĩa có khác nhau, nhưng về bản chất họ đều cho rằng Công nghệ
gồm 4 thành phần cơ bản:
4
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
- Trang thiết bị máy móc( đây là yếu tố phần cứng của Công nghệ.): bao gồ các
trang thiết bị cầm tay hoặc cơ giới hoá, trang thiết bị đa dạng hoặc chuyên dụng, trang
thiết bị được máy tính hoá và trang thiết bị liên kết.
- Kĩ năng, kĩ xảo, tay nghề, kinh nghiệm của người lao động(yếu tố con người):
bao gồm năng lực vận hành và khởi động , năng lực sửa chữa và tái sản xuất, năng lực
thích nghi và hoàn thiện, năng lực phát minh sáng tạo.
- Thông tin: bao gồm các thông tin dữ liệu và các bí quyết liên quan đến việc sử
dụng thành thạo và khai thác các trang thiết bị, các chi tiết kỹ thuật chuyên môn, các chi
tiết cấu tạo và cách đánh giá.
- Yếu tố tổ chức, quản lý: thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp điều phối, quản lý
nhằm vận hành, liên kết các yếu tố, duy trì tính ổn định và khai thác tiềm năng
Bốn yếu tố này có quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau cùng thực hiện quá trình sản
xuất. Và sự kết hợp chặt chẽ của 4 thành phần trên là điều kiện cơ bản đảm bảo cho hoạt
đống sản xuất đạt hiệu quả cao, trong đó mỗi thành phần có một chức năng nhất định.

Thành phần trang thiết bị máy móc được coi là xương sống, cốt lõi của quá trình hoạt
động, nhưng nó lại do con người lắp đặt và vận hành. Thành phần con người được coi là
yếu tố chìa khoá của hoạt động, nhưng con người lại thực hiện theo các hướng dẫn do
phần thông tin cung cấp. Thành phần thông tin là cơ sở hướng dẫn người lao động vận
hành các máy móc, thiết bị và đưa ra các quyết định. Thành phần tổ chức có nhiệm vụ
liên kết các thành phần trên, động viên người lao động năng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất.
c-
M
Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Khoa học được nói đến là việc tìm kiếm các quy luật điều chỉnh hiện tượng tự
nhiên, không phụ thuộc vào bất cứ sự quan tâm nào đến khả năng áp dụng trên giác độ
kinh tế. Về bản chất khoa học chính là sự tìm kiếm chân lý. Trong khi đó, công nghệ lại
5
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
có mục đích áp dụng trực tiếp các nguyên tắc và quy luật khoa học vào cuộc sống của
con người hay vào một quá trình sản xuất. Vì vậy Chúng ta có thể hiểu đơn giản là Khoa
học tập trung vào việc giải thích tại sao có hiện tượng, còn công nghệ cho ta biết cách áp
dụng các điều chúng ta biết tại sao dể áp dụng vào thực tế như thế nào.khoa học cho ta
kiến thức còn công nghệ giúp tạo ra của cải vật chất. phát triển khoa học tạo ra những
thông tin mang tính tiềm năng được sử dụng để sáng tạo công nghệ. giữa chúng có mối
liên hệ mật thiết. “khoa học của hôm nay là công nghệ của ngày mai”. Rõ ràng, tri thức
dựa trên cơ sở khoa học đang thúc đẩy sự tiến bộ công nghệ và chất xám chính là nguồn
tạo ra công nghệ.
d- Hoạt động Khoa học - Công nghệ.
Sau khi nghiên cứu hiểu rõ mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ, Câu hỏi đạt
ra cho chúng ta là hoạt động Khoa học Công nghệ là gì? Ta có thế định nghĩa hoạt động
Khoa học Công nghệ bao gồm: nghiên cứu Khoa học, nghiên cứu và phát triển Công
nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật. Hợp lý hoá sản xuất và các hoạt
động khác nhằm phát triển Khoa học Công nghệ.

Cụ thể:
- Nghiên cứu khoa học: là hoạt động phát hiện, tìm kiếm các hiện tượng, sự vật,
quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực
tiễn. Nghiên cứu Khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.
- Phát triển công nghệ: là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công nghệ mới.
Phát triển Công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thực nghiệm.
- Triển khai thực nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học để
lam thực nghiệm nhằm tạo ra Công nghệ mới, sản phẩm mới.
6
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
- Sản xuất thực nghiệm: là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để
sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện Công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi
đưa vào sản xuất và đời sống.
Dịch vụ Khoa học và Công nghệ: là các hoạt động vụ việc nghiên cứu Khoa học và
phát triển Công nghệ, các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao Công
nghệ, các dịch vụ về thông tin tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức
Khoa học và Công nghệ và kinh nghiệm vào thực tiễn.
1.1.2. Đặc điểm của khoa học công nghệ.
Với những đặc trưng riêng có của Khoa học Công nghệ, mà hoạt động Khoa học -
Công nghệ có những đặc điểm riêng so với các hoạt động Kinh tế - Xã hội khác. Để có
thể đưa ra các giải pháp đúng đắn để thúc đẩy phát triển Khoa học - Công nghệ thì cần
thiết cần nắm được các đặc điểm đó.
- Hoạt động Khoa học Công nghệ đòi hỏi trình độ cao và khả năng đáp ứng các
nhu cầu cho nghiên cứu và phát triển.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh khác đều cần những cơ sở vật chất như máy
móc, thiết bị, vốn, con người và Hoạt động Khoa học Công nghệ cũng cần các yếu tố đó
nhưng yêu cầu trình độ cao hơn, đó là con người phải được đào tạo, có khả năng sáng
tạo, vốn lớn, máy móc trang bị hiện đại.
- Hoạt động Khoa học Công nghệ đòi hỏi phải có chi phí lớn và chứa đựng nhiều
rủi ro trong việc thu hồi vốn. Đặc điểm này là do khi nghiên cứu Khoa học Công nghệ

không biết trước có phát hiện được những ứng dụng hiệu quả hay không. Hơn nữa, sản
phẩm Khoa học Công nghệ có tính chất hàng hoá công cộng không thuần thuý và việc
phổ biến sản phẩm đó đem lại lợi ích cho xã hội nhưng người sáng tạo ra nó lại khó thu
lại được chi phí bỏ ra hay nói cách khác lợi nhuận thu được từ việc tạo ra sản phẩm
KHCN rất thấp so với lợi ích xã hội thu được.
7
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
Như vậy, để hoạt động Khoa học Công nghệ được phát triển và tạo ra những sản
phẩm KHCN có hiệu quả kinh tế xã hội cao nhà nước cần phải có sự hướng dẫn, điều
chỉnh để đưa ra những chính sách hợp lý.
1.1.3. Vai trò của Khoa học Công nghệ với sự phát triển Kinh tế Xã hội.
Một trong những đặc điểm quan trọng của thời đại ngày nay là sự phát triển năng
động của khoa học công nghệ hiện đại và ảnh hưởng to của nó tới các mặt đời sống kinh
tế xã hội loài người đặc biệt là đối với lĩnh vực kinh tế. Càng ngày vai trò của công nghệ
đối với sự phát triển kinh tế xã hội càng quan trọng và được cộng đồng thế giới công
nhận, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như đất nước ta. Kinh tế học đã chính
thức xem công nghệ như là một nhân tố sản xuất như vốn, lao động trong mô hình hàm
sản xuất tổng quát Cobb – douglas:
Y = F (Xi)
Trong đó Y là giá trị đầu ra của nền kinh tế và Xi

là giá trị những biến số đầu vào.
có liên quan đến tổng cung. Thông thường và cũng với ý nghĩa cổ điển, nói đến giá trị
các biến số đầu vào tác động đến tăng trưởng kinh tế là nói đến 4 yếu tố nguồn lực chủ
yếu là: vốn (K), lao động (L), tài nguyên,đất đai (R) và công nghệ kỹ thuật (K). Hàn sản
xuất tổng quát được mô tả như dưới đây:
Y = F(K,L,R,T)
(1) Vốn (K): là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Vốn sản xuất đứng trên góc độ vĩ mô có liên quan trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế được đặt ra ở khía cạnh vốn vật chất chứ không phải dưới dạng tiền (giá

trị), nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của nền kinh tế và bao gồm: nhà máy,
thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào
trong sản xuất. ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng
kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Đó là sự thể hiện của tính chất tăng trưởng theo
8
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
chiều rộng. Tuy vậy tác động của yếu tố này đang có xu hướng giảm dần và được thay
thế bằng các yếu tố khác.
(2) Lao động (L): là một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây, chúng ta chỉ
quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định
bằng số lượng dân số nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể tính bằng đầu người hay
thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh
đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực đó là các lao động có kỹ
năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao
động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu yếu tố lao
động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai
trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và các nước đang
phát triển. Hiện nay tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp
nhiều bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình
độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp.
(3) Tài nguyên, đất đai (R) được coi là yếu tố đầu vào của sản xuất. Đất đai là
yêú tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong
việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công nghiệp, dịch vụ. Tài nguyên
thiên nhiên từ trong lòng đất, không khí, từ rừng và biển được chia ra làm : tài nguyên
vô hạn và không thể thay thế, tài nguyên có thể taí tạo và tài nguyên không thể tái tạo.
Các nguồn tài nguyên dồi dào phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản lượng
đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát triển; một số tài
nguyên quý hiếm là những đầu vào cần thiết cho sản xuất song lại có hạn không thay thế
được và không thể tái tạo được hoặc nếu tái tạo được thì thì phải có thời gian và phải có
chi phí tương đương với quá trình tạo sản phẩm mới. Từ những tính chất đó, các tài

nguyên được đánh giá về mặt kinh tế và được tính giá trị như các đầu vào khác trong quá
trình sử dụng. Nguồn tài nguyên phong phú hay tiết kiệm nguồn tài nguyên trong sử
dụng cũng có một ý nghĩa tương đương như việc tạo ra một giá trị gia tăng so với chi phí
9
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
đầu vào khác để tạo ra nó. Trong nền kinh tế hiện đại người ta đã tìm cách thay thế để
khắc phục mức độ khan hiếm của tài nguyên và đất đai trong quá trình tăng trưởng kinh
tế, hơn nữa sản phẩm quốc dân và mức tăng của nó không phụ thuộc nhiều vào dung
lượng tài nguyên thiên nhiên và đất đai. Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên và đất đai vẫn là
nhân tố không thể thiếu được của nhiều quá trình sản xuất, nhất là các nước đang phát
triển.
(4) Công nghệ kỹ thuật (T) được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh
đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại. Yếu tố công nghệ kỹ thuật cần được hiểu đầy
đủ theo hai dạng: thứ nhất, đó là những thành tựu kiến thức tức là nắm bắt kiến thức
khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, quy
trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên
cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. yếu
tố công nghệ hiểu theo nghĩa toàn diện như thế đã được K. Marx xem như là " chiếc đũa
thần tăng thêm sự giầu có của cải xã hội". còn Solow thì cho rằng " tất cả các tăng
trưởng bình quân đầu người trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật", Kuznets
hay Samuelson đều khẳng định: công nghệ kỹ thuật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
tăng trưởng kinh tế bền vững.
Đứng trên góc độ quan điểm hàm sản xuất, các mô hình tăng trưởng hiện đại
thường không nói đến nhân tố tài nguyên đất đai với tư cách là biến số của hàm tăng
trưởng kinh tế, họ cho rằng đất đai là yếu tố cố định còn tài nguyên thì có xu hướng
giảm dần trong quá trình khai thác. Mặt khác, những yếu tố tài nguyên và đất đai đang
được sử dụng có thể gia nhập dưới dạng yếu tố vốn sản xuất( K ). Yếu tố công nghệ kỹ
thuật trong hàm sản xuất truyền thống hiện nay cũng được mở rộng ra theo nghĩa là các
yếu tố còn lại ngoài vốn và lao động tác động đến tăng trưởng kinh tế, gọi là năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP- total factor producctivity). Năng suất nhân tố tổng hợp là: (i)

hiệu quả sử dụng các thành tựu của tiến bộ công nghệ, kết quả nghiên cứu triển khai
khoa học kỹ thuật vào hoạt động kinh tế; (ii) tác động của các yếu tố thể chế, chính sách,
10
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
quá trình mở cửa, hội nhập, vốn nhân lực; (iii) tất cả tạo nên hiệu quả, năng suất sử dụng
lao động cao hơn và tạo nên “phần dư” còn lại của thu nhập sau khi loại trừ tác dộng của
yếu tố vốn và lao động.
Như vậy, theo quan điểm hiện nay, Vì vậy, 3 yếu tố trực tiếp tác động đến tăng
trưởng kinh tế được nhấn mạnh là: vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP).
Y = F(K,L,TFP)
Vốn (K) và lao động (L) được xem như là các yếu tố vật chất có thể lượng hoá
được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi là những nhân tố tăng
trưởng theo chiều rộng. TFP được coi là yếu tố phi vật chất tác động đến tăng trưởng,
được coi là yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu. Ngày nay, tác động của thể chế, của chính
sách mở cửa, hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực đẫ giúp cho các nước đang phát
triển tiếp cận được nhanh chóng những công nghệ hàng đầu thế giới đã tạo nên "sự rượt
đuổi dựa trên năng suất"và sự đóng góp của TFP ngày càng cao trong qúa trình thực hiện
mục tiêu tăng trưởng nhanh của các nước trên thế giới. TFP là một yếu tố tổng hợp phản
ánh tác động của yếu tố khoa học công nghệ, vốn nhân lực, các khía cạnh thể chế, cơ chế
tác động đến khả năng tiếp nhận, nghiên cứu và vận hành khoa học công nghệ và vốn
nhân lực vào hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế.
Đánh giá vai trò của TFP trong tăng trưởng kinh tế dựa vào:
- Tỷ trọng đóng góp của yếu tố này trong kết quả tăng trưởng
- Các điều kiện cần thiết cho vận hành yếu tố công nghệ mới vào hoạt động kinh
tế như: trình độ công nghệ trong các đơn vị sản xuất kinh doanh, quy mô đầu tư vốn
cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển, sự phát triển hoạt động giáo dục đào tạo và
kết quả là sự gia tăng quy mô của nguồn vốn nhân lực, thể chế chính sách phù hợp để
tạo ra các nhân tố cần thiết cho quá trình tích tụ công nghệ
11
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423

- Năng lực cạnh tranh công nghệ của nền kinh tế nói riêng và năng lực cạnh tranh
tăng trưởng nói chung.
Như vậy, phân tích trên cho thấy rằng KHCN có ảnh hưởng và tác động đến mọi
hoạt động Kinh tế - Xã hội. chính KHCN là chìa khoá của sự phát triển. Bởi vậy, quốc
gia nào nhận thức rõ được vai trò của KHCN và có chính sách đầu tư đúng đắn để thúc
đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển Công nghệ; quốc gia đó sẽ đạt được một nền kinh tế
- Xã hội tăng trưởng cao và ổn định, bền vững. Nhận thức rõ vai trò của KHCN trong sự
nghiệp phát triển kinh tế -Xã hội, ngay trong nghị quyết của Bộ Chính trị về khoa học
công nghệ trong sự nghiệp đổi mới - tháng 3/1991 đã nhấn mạnh “ Khoa học và Công
nghệ là một động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển
Kinh tế - Xã hội theo định hướng XHCN”. Điều này lại một lần nữa được khẳng định
trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - Xã hội 10 năm 2001 - 2010 của đảng ta
trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX: “ Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực Khoa học và Công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng
lên.”. Đồng thời, Luật khoa học công nghệ cũng xác định rõ: “Khoa học - Công nghệ là
quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp cây dựng và bảo vệ tổ quốc,
là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển nhanh và bền
vững đất nước”.
1.2. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ.
1.2.1 Tổng quan về chi ngân sách Nhà nước
1.2.1.1 Khái niệm chi ngân sách Nhà nước
12
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
Về mặt pháp lý, chi ngân sách Nhà nước là những khoản chi tiêu do chính phủ
hay các pháp nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu công ích.

Về mặt bản chất, chi ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ phân phối
lại các khoản thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang các sự
nghiệp văn hoá - xã hội, duy trì hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước và đảm bảo an
ninh quốc phòng.
Chi ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của Nhà
nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.2.1.2Đặc điểm của chi ngân sách Nhà nước
Chi ngân sách nhà nước gắn với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ.
Chi ngân sách Nhà nước phải đảm bảo các hoạt động của Nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực. Nhưng nguồn NSNN có được trong từng năm, trong từng thời kỳ lại có hạn
làm hạn chế phạm vi hoạt động của Nhà nước, buộc Nhà nước phải lựa chọn để xác định
rõ phạm vị chi NSNN. Nhà nước không thể bao cấp tràn lan qua chi NSNN, mà cần tập
trung nguồn tài chính vào phạm vi đã hoạch định để giải quyết các vấn đề lớn của đất
nước.
Chi Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách
nhiệm. Quốc hội quyết định dự toán ngân sách Nhà nước, phân bổ ngân sách trung
ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước và quyết định cơ cấu chi Ngân sách
theo từng lĩnh vực. Chính phủ có nhiệm vụ quản lý và điều hành các khoản chi NSNN.
13
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
Chi ngân sách Nhà nước là những khoản chi không hoàn trả trực tiếp. Các khoản
cấp phát từ NSNN cho các ngành, các cấp, cho các hoạt động văn hoá, xã hội, giúp đỡ
người nghèo, không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Tuy vậy, có những khoản
chi cho việc thực hiện chương trình mục tiêu mà thực chất là các khoản cho vay ưu đãi
có hoàn trả gốc với lãi suất rất thấp hoặc không có lãi (như xoá đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm…)

Chi ngân sách là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn liền với
sự vận động của các phạm trù giá trị khác nhau như giá cả, tiền lương, tín dụng, thuế, tỷ
giá hối đoái...
Chi ngân sách có quy mô lớn, phức tạp, có tác động mạnh mẽ đến môi trường tài
chính vĩ mô, đến tổng cung, tổng cầu về vốn tiền tệ
Hiệu quả chi NSNN khác với hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp, nó
được xem xét trên tầm vĩ mô và dựa vào việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng… mà các khoản chi Ngân sách đảm nhận. Tuy vậy, trong đầu tư cũng
phải chú ý tới hiệu quả kinh tế, nhất là các khoản nợ vay để đầu tư.
1.2.1.3 Vai trò của chi ngân sách Nhà nước
Thông qua vai trò của Nhà nước, chi ngân sách có vị trí rất quan trọng, được thể
hiện thông qua các lĩnh vực như ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách tài chính và
tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá công cộng, chống ô nhiễm môi
trường, phát triển giáo dục và nâng cao phúc lợi xã hội, định hướng cạnh tranh một cách
có hiệu quả…
Chi ngân sách được thể hiện thông qua các vai trò sau:
Thứ nhất, chi NSNN đối với việc củng cố, tăng cường sức mạnh của Nhà nước
trong việc củng cố quốc phòng và việc sản xuất, tiêu dùng các hàng hoá công cộng.
14
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
NSNN là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến xã, phường. Nguồn NSNN là nguồn duy
nhất phục vụ cho các hoạt động của bộ máy Nhà nước từ các cơ quan quyền lực, cơ quan
hành chính Nhà nước đến các cơ quan tư pháp. Ngân sách nhà nước bảo đảm cân đối
kinh phí hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Kinh
phí hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm, ngân sách nhà nước hỗ
trợ trong một số trường hợp cụ thể theo quy định của Chính phủ.
-Thứ hai, Nhà nước thực hiện việc phân bổ các nguồn tài chính quốc gia, định
hướng phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

phát bằng việc chi Ngân sách.
Chi ngân sách đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tầng kỹ
thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ
tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển làm thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả
nước, một số đô thị mới ra đời, nhiều khu công nghiệp được hình thành, nhiều sân bay,
bến cảng được hiện đại hoá. Giao thông đường bộ (quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh,
bệnh viện, trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các trường đại học, cao đẳng…được xây
dựng khang trang hơn. Chính phủ có thể tạo điều kiện và hướng nguồn vốn đầu tư của
các doanh nghiệp vào những lĩnh vực, những vùng cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế
mới, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh. Các khoản chi này của NSNN
không thu hồi trực tiếp nhưng đã góp phần rất quan trọng vào tốc tăng GDP hằng năm,
tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
15
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Hải Anh – CH150423
-Thứ ba, Nhà nước có thể điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm
phát thông qua chi ngân sách.
Quy luật cung cầu chi phối thị trường rất mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường.
Mọi sự biến động của giá cả đều có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung cầu. Có thể nói,
vai trò của Nhà nước rất quan trọng đối với việc tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, đặc biệt là trong việc tạo lập, duy trì khung pháp lý và xử lý những vi phạm. Sự
can thiệp của Nhà nước vào thị trường được thể hiện dưới các hình thức trực tiếp và gián
tiếp. Hình thức gián tiếp là ban hành các quy định về chế độ gia nhập cũng như rút lui
khỏi thị trường. Hình thức trực tiếp là việc Nhà nước đưa ra các chương trình, chính
sách hỗ trợ, khuyến khích, hoặc điều chỉnh hoạt động của một bộ phận doanh nghiệp nào
đó theo mục tiêu mà Nhà nước đang hướng tới.
Nhà nước tác động vào nền kinh tế thông qua chính sách thuế và chi tiêu ngân
sách của Nhà nước nhằm điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá

cả và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế.
Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kíchcầu
và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập
quốc dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu dùng.
Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá nóng", chính phủ làm ngược lại. Để cân
bằng lại những biện pháp tài chính này, Nhà nước tạo ra những biện pháp cân bằng như
thuế thu nhập luỹ tiến và phụ cấp thất nghiệp. Chính sách tài chính được điều hành một
cách độc lập với chính sách tiền tệ là chính sách nhằm điều tiết hoạt động kinh tế bằng
cách kiểm soát việc cung ứng tiền. Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và
lạm phát thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng
tiền), nhờ đó ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được
tăng lên. Điều đó có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn
định nhất của tổng cầu. Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh
16

×