Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp phát triển vùng nguyên liệu cho ngành mía đường.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.02 KB, 22 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng ra các nước trong khu
vực và trên thế giới thì cơ hội cho các doanh nghiệp cũng được mở rộng đồng
thời cũng gặp không ít khó khăn cần phải được khắc phục. Đặc biệt, chúng ta
đã gia nhập WTO, đa số các mặt hàng sẽ không phải chịu thuế suất trừ một số
mặt hàng chịu mức thuế suất thấp (5%) với việc hàng rào thuế quan được hạ
xuống mức rất thấp khiến cho mức độ cạnh tranh, đặt biệt là cạnh tranh về giá
ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp tìm mọi cách để hạ giá thành sản
phẩm. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế vẫn thuộc nhóm đang phát triển nên
chi phí nguyên vật liệu trong giá thành còn chiếm một tỷ trọng cao, đồng thời
vốn bỏ ra mua nguyên vật liệu chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong vốn lưu động
của doanh nghiệp (khoảng 40 - 60% tổng số vốn lưu động). Từ đó có thể nói
việc xác định đúng và phù hợp nguồn nguyên liệu cho doanh nghiệp là cực kỳ
quan trọng.
Như chúng ta đã biết, trong mấy năm gần đây vấn đề nguyên liệu mía
cho ngành mía đường là một vấn đề được báo chí, các nhà chức trách và
người dân quan tâm. Hiện tại giá thành đường thành phẩm của chúng ta đang
cao hơn so với các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiều nhà máy đang
làm ăn có lãi những ngành mía đường vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm
đặc biệt là sự ổn định vùng nguyên liệu mía chưa được thiết lập trên toàn
quốc.
Vấn đề được đề cập trong đề án này là tình hình của các vùng nguyên
liệu cho ngành mía đường hiện nay và giải pháp để phát triển vùng nguyên
liệu mía một cách ổn định và bền vững.
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Một số vấn đề lý luận về nguyên vật liệu.
Phần II: Thực trạng các vùng nguyên liệu của ngành mía đường Việt
Nam
1
Phần III: Một số giải pháp phát triển vùng nguyên liệu cho ngành mía
đường.


Mặc dù đã nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo
Nguyễn Thị Tứ nhưng do thời gian và trình độ còn hạn chế. Em rất mong
nhận được sự góp ý của thầy, cô để đề án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
1. Một số vấn đề lý luận về nguyên vật liệu.
1.1. Khái niệm và đặc điểm nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu (NVL) là phạm trù mô tả các loại đối tượng lao động
được tác động vào để biến thành sản phẩm (dịch vụ)
Thông thường, NVL được chia thành các loại sau:
- Nguyên liệu nếu nó mới chỉ được khai thác hoặc là nông, lâm, hải
sản..... chưa được chế biến.
- Vật liệu là những đối tượng lao động đã trải qua chế biến và được tiếp
tục sử dụng vào quá trình chế biến sản phẩm khác.
- Nhiên liệu là những đối tượng lao động được sử dụng để tạo ra nguồn
năng lượng phục vụ cho quá trình sản xuất.
NVL là một bộ phận trọng yếu của tư liệu sản xuất. C.Mác đã viết: " đối
tượng đã qua một lần lao động trước kia rồi....... thì gọi là nguyên liệu". Như
vậy tất cả nguyên liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối
tượng lao động đã trải qua sự tác động, nhưng không phải mọi đối tượng lao
động đã trải qua sự tác động của con người.
Mỗi loại NVL cụ thể có những đặc tính tự nhiên rất khác nhau (sắt, thép,
xi măng....) song chúng đều có đặc điểm chung là chỉ tham gia một lần vào
quá trình sản xuất sản phẩm (dịch vụ), sự tham gia này có thể dẫn đến sự biến
dạng NVL theo ý muốn của con người như mía cây bị ép thành nước mía.....
hoặc có thể bị tiêu biến đi về mặt chất như sử dụng ga làm nhiên liệu..... song
giá trị toàn bộ của mọi nguyên vật liệu không bị mất đi mà kết ting vào giá trị
sản phẩm (dịch vụ) được tạo ra từ nguyên vật liệu đưa vào sản xuất.
1.2. Vị trí của nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất công nghiệp nói
chung và ngành công nghiệp mía đường nói riêng.

Nội dung cơ bản nhất của quá trình sản xuất là quá trình lao động. Quá
trình lao động là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động làm thay đổi
hình dáng, kích thước, tính chất của đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm.
3
NVL là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất (sức lao động, tư liệu
lao động, đối tượng lao động), nội dung của đối tượng lao động là NVL.
Thiếu NVL thì quá trình sản xuất bị gián đoạn hoặc không thể tiến hành được.
Với sự phân loại ở trên, nguyên liệu, vật liệu gọi tắt là NVL. Đồng thời
căn cứ vào sự tham gia của chúng vào cấu thành sản phẩm mà chia thành
NVL chính và NVL phụ, sự phân chia này không chỉ ngày nay mới xuất hiện
mà nó được C.Mác chỉ rõ: " Nguyên liệu có thể hình thành thực thể chủ yếu
của sản phẩm hay chỉ ra nhập sản phẩm dưới hình thức vật liệu phụ". Nhiên
liệu, năng lượng thuộc về vật liệu phụ song chúng cũng rất quan trọng nên
được tác rời thành yếu tố riêng.
Vai trò của NVL trong quá trình sản xuất còn thể hiện: Nếu về mặt chất
thì NVL là yếu tố trực tiếp cấu thành thực thể của sản phẩm, chất lượng của
NVL ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Do đó, đảm bảo chất
lượng của NVL cho sản xuất là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất
lượng sản phẩm. Xét về mặt giá trị thì tỷ trọng của NVL chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu giá thành, còn về mặt tài chính thì vốn bỏ ra mua NVL cũng
chiếm tỷ lệ lớn trong vốn lưu động của các doanh nghiệp sản xuất.
Từ đó có thể đưa ra kết luận: NVL không những giữ vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất mà còn giữ vai trò quan trọng trong lĩnh vực quản lý
giá thành và tài chính trong doanh nghiệp. Do đó, vấn đề đặt ra là phải cung
ứng đúng tiến độ, số lượng, chủng loại, chất lượng và quy cách của NVL.
Trong ngành công nghiệp sản xuất đường ở nước ta thì mía là nguyên
liệu chính và chủ yếu trong quá trình sản xuất đường. Nếu không có cây mía
thì không thể tiến hành sản xuất đường. Do đó phải đảm bảo nguồn nguyên
liệu mía ổn định và đầy đủ đảm bảo cho sản xuất liên tục, tận dụng được hết
công suất nhà máy thì hiệu quả kinh doanh mới đạt được. Mặt khác trong cơ

cấu giá thành sản xuất đường thì chi phí cho nguyên liệu chiếm tỷ trọng rất
lớn (khoảng 70 %) vì vậy vấn đề nguồn nguyên liệu mía phải được coi là vấn
đề quan trọng hàng đầu. Trong cạnh tranh ngành đường thì chủ yếu là cạnh
4
tranh qua giá, nếu hạ thấp được giá thành thì khả năng thu lợi nhuận là rất
đảm bảo, nâng cao được khả năng cạnh tranh mà nguyên liệu mía là bộ phận
quan trọng nhất trong cơ cấu giá thành do đó nếu nâng cao được chất lượng
mía, nguồn cung ứng mía đầy đủ và ổn định với mức giá hợp lý thì nhà máy
đường sẽ có cơ hội giảm chi phí và phát triển bền vững.
2. Thực trạng vùng nguyên liệu mía.
2.1. Tình hình sản xuất hiện tại ở các nhà máy đường.
2.1.1. Nhiều nhà máy đang sản xuất kinh doanh có lãi nhưng phát triển
chưa ổn định.
Thực tế trong niên vụ 2006 - 2007 thì khoảng 90% nhà máy đường có
lãi, còn có tới 32/33 nhà máy đường trên tổng số 36 nhà máy đường làm ăn 3
năm đều có lãi. Tuy vậy nếu so với Thái Lan, một nước trong khu vực với
nhiều điều kiện tương tự thì giá thành đường của chúng ta còn cao hơn
khoảng 500đ/kg. nếu tổ chức quản trị nhà máy hợp lý hơn, chúng ta sẽ hạ
được giá thành xuống thấp như Thái Lan; hoặc nếu mở rộng công suất hơn
nữa sẽ kéo giá thành xuống, các nhà máy đường sẽ tồn tại và đủ sức cạnh
tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực tế là chúng ta có thể
hạ giá thành xuống mức thấp hơn nữa không chỉ nhờ hai phương pháp trên
bằng cách hạ thấp chi phí nguyên vật liệu đầu vào. Bởi vì vấn đề nguyên liệu
mía của các nhà máy đường vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn chưa được
giải quyết.
2.1.2. Giá cả và nguồn cung ứng nguồn cung ứng nguyên liệu mía còn
nhiều biến động.
Năm 2006, xét trong phạm vi cả nước ta có thể nêu ra một số ví dụ điển
hình về giá như sau: Sóc Trăng giá mía là 660.000 đồng/ tấn nguyên do là
trong những năm trước đó vùng nguyên liệu mía lớn ở Sóc Trăng là Cù Lao

Dung do giá mía xuống quá thấp nhân dân không những không có lãi mà
nhiều nhà còn phải chịu thua lỗ nên người dân và cán bộ địa phương khuyến
khích trồng cây ăn trái, đặc sản để tính đến chiến lược lâu dài. Năm nay, mía
5
được giá, mà diện tích nguyên liệu mía đã bị thu hẹp nên sản lượng mía
xuống thấp nên giá mía càng bị đẩy lên cao, người dân trồng mía thu được lãi
lớn. Theo cán bộ Phòng nông nghiệp huyện Cù Lao Dung, năm 2006 toàn
huyện có khoảng 6500 ha mía, dự kiến thời gian tới sẽ tăng lên 7000 ha do bà
con chuyển từ cây ăn trái sang trồng mía. Nếu cứ đà này, nay mai vùng
nguyên liệu mía sẽ phình to. Lúc đó khả năng thừa nguyên liệu, giá thấp rất
dễ xảy ra. Người dân cần có cách nhìn nhận đúng đắn để tránh tình trạng mía
ngọt thành mía đắng.
Ở Nghệ An giá mía 310.000 đồng/tấn. Những năm gần đây bà con nông
dân Nghệ An đã mạnh dạn đầu tư thâm canh để trồng mía nên năng suất tăng
cao 75 - 80 tấn/ha. Thế nhưng trừ chi phí đầu tư, người nông dân chỉ thu được
lãi xuất thấp, nguyên nhân vì trong khi các nhà máy mía nhiều tỉnh thành
trong cả nước đã nâng mức giá lên 560 - 600 đồng/kg, thì các nhà máy mía
đường trên địa bàn tỉnh lại thu mua với mức giá quá thấp 390 đồn/kg. Đặc
biệt ở huyện Con Cuông nhà máy Sông Lam chỉ thu mua với giá 310.000đ/
tấn. Bức xúc, bà con ở đây có nhiều ý kiến đề nghị chính quyền xã, nếu giá
mía nhà máy thu mua quá thấp, vụ ép năm tới không bán cho nhà máy nữa.
Hoặc nếu kéo mật để bán tính ra cũng đắt hơn, thậm chí chuyển đổi sang cây
trồng khác.
Bình Định: 700.000đ/ tấn. Giá mía leo thang là hậu quả của việc nhà
máy đường An Khê (Gia Lai) tranh mua nguyên liệu mía với nhà máy đường
Bình Định trên vùng nguyên liệu mía của nhà máy đường Bình Định. Do quy
hoạch vùng nguyên liệu mía nên đã thu mua với giá rất cao. Các thương lái đã
sang các vùng nguyên liệu mía lân cận thu mua mía để bán cho nhà máy
đường An Khê đó là nguyên nhân đẩy giá mía ở Bình Định lên cao.
Trong những năm qua chúng ta đã cố gắng ổn định tình hình cung ứng

nguồn nguyên liệu mía và thu được một số kết quả khả quan. Nhưng chúng ta
cần cố gắng hơn nữa không để bài toán mía đường rơi vào lối cũ những năm
trước đó, thời gian mà các nhà máy làm ăn thua lỗ, người dân rơi vào cảnh nợ
6
nần, thậm chí bà con phải chặt phơi khô rồi đốt cây mía do chính mình bỏ
công chăm sóc.
2.2. Các vùng nguyên liệu mía chính ở nước ta.
Bảng so sánh diện tích và sản lượng mía các vùng trong cả nước năm
2005
Vùng Diện tích (%) Sản lượng (%)
Đồng bằng sông Hồng
0,85 0,8
Đông Bắc
5,1 3,9
Tây Bắc
3,9 3,5
Bắc Trung Bộ
18,4 18,8
Duyên Hải Nam Trung Bộ 17,8 14,2
Tây Nguyên
10,0 8,0
Đông Nam Bộ
18,8 17,9
Đồng Bằng Sông Cửu Long 25,1 32,9
Cả nước
100 100
Quy hoạch vùng nguyên liệu mía dự báo đến 2010
- Tổng diện tích trồng mía: 300.000 ha, trong đó vùng nguyên liệu tập
trung là: 250.000 ha.
- Năng suất mía bình quân: 65 tấn/ ha

- Chữ đường bình quân: 11 CCS
- Sản lượng mía: 19,5 triệu tấn.
- Bốn vùng trọng điểm phát triển mía đường có tổng diện tích trồng mía
là 222.000 ha (chiếm 74,0% diện tích mía cả nước). Cụ thể:
+ Vùng Bắc Trung Bộ: tổng diện tích trồng mía là 80.000 ha;
+ Vùng Duyên hải Miền trung và Tây Nguyên: Tổng diện tích trồng mía
là 53.000 ha;
+ Vùng Đông Nam Bộ: Tổng diện tích trồng mía là: 37.000 ha
+ Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: Tổng diện tích trồng mía là : 52.000
ha
7
3. Hiện trạng phát triển các vùng nguyên liệu mía.
3.1. Diện tích trồng mía không ổn định.
Qua các năm ta nhận thấy diện tích trồng mía thường xuyên biến động
phụ thuộc vào giá cả thị trường. Khi giá lên người dân phá bỏ các cây khác
chuyển sang trồng mía, hậu quả là diện tích trồng mía tăng nhanh dẫn đến sản
lượng tăng lên trong khi ở một vùng nguyên liệu mía thường chỉ có một nhà
máy đường do đó lương cung mía thừa, nhà máy hoạt động hết công suất
cũng không thể tiêu thụ được hết mía nguyên liệu trong vùng dẫn đến giá cả
xuống thấp, nhiều người dân trồng mía phải chịu thiệt. Bài học về nguyên liệu
mía những năm trước 2003 vẫn còn chưa xa, nhiều người dân không bán được
mía đã phải phơi khô rồi đốt bỏ, người dân rơi vào cảnh nợ nần khốn khó. Ví
dụ như trường hợp Cù Lao Dung, bà con có thời phá vườn cây ăn trái trồng
mía trong lúc mía được giá nhưng đến khi mía rớt giá bà con lại chặt mía
trồng cây ăn trái. Năm 2006 mía lại được giá, 7 ha nhãn thu lãi không bằng
1ha mía cho nên diện tích trồng mía lập tức tăng từ 6.500ha - 7.000 ha. Theo
cán bộ Phòng Nông nghiệp Cù Lao Dung thì cứ đà này khả năng thừa nguyên
liệu, giá thấp rất dễ xảy ra. Hiện nay nhiều vùng nguyên liệu mía đã dần ổn
định nhưng tình trạng trên vẫn xảy ra ở nhiều nơi, nhà máy đường, cơ quan
chức năng và người dân trồng mía cần phối hợp với nhau chặt chẽ hơn để

phát triển ngành mía đường bền vững trên quan điểm các bên tham gia đều có
lợi.
3.2. Chất lượng mía nguyên liệu còn chưa đồng bộ.
Chất lượng mía trước hết thể hiện ở chữ đường của mía (đơn vị là: CCS)
chất lượng mía ảnh hưởng khá nhiều tới sản xuất đường của nhà máy. Nếu ép
cùng một khối lượng mía, thì nguyên liệu mía nào có chữ đường cao sẽ cho
sản lượng đường cao hơn nghĩa là tăng được khối lượng sản phẩm đường với
cùng một chi phí. Như vậy hiệu quả kinh tế sẽ được nâng lên rất nhiều.
Hiện nay chất lượng mía nguyên liệu còn chưa đồng bộ. Một số địa
phương đã hình thành được vùng trồng mía năng suất cao, chữ đường cao
8

×