Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Mở đầu
1. Cơ sở lý luận
Bước vào thế kỷ XXI, với tư tưởng xây dựng một xã hội học tập, lấy việc học là động lực
quyết định hàng đầu để đưa xã hội tiến lên. Trong thế kỷ mới giáo dục có vị trí rất quan
trọng, vấn đề con người, vấn đề giáo dục được đặt lên hàng đầu. Uỷ ban giáo dục thế giới đã
nêu một trong bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI là dạy con người chung sống với nhau,
tạo dựng một nền văn minh mới, văn minh hoà bình, văn hoá khoan dung. Trong tình hình
hiện nay, cả nước ta đang phấn đấu đẩy mạnh CNH-HĐH, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, cùng loài người bước vào một nền văn minh mới
mở đầu thiên niên kỷ thứ ba. Giáo dục Việt Nam đang đứng trước nhiệm vụ vinh quang
nhưng cũng rất nặng nề đầy thách thức do cuộc cách mạng KHCN đặt ra. Kinh tế tri thức có
vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Trước những đòi hỏi
của công cuộc đổi mới, nền giáo dục phải có những chuyển biến mạnh mẽ, phải tìm kiếm
con đường đi hiệu quả để giáo dục thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, làm tiền đề phát
triển KT-XH. Trên lộ trình đi lên đòi hỏi phải có dự báo khoa học và hoạch định chiến lược
ở tất cả mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và Kết luận Hội nghị lần thứ 6 của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá IX nhấn mạnh: “Phát triển GD&ĐT là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [5, 40].
Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH thành công, thì điều cốt lõi là phải phát huy tốt nhân tố con
người. Bởi lẽ con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, giáo dục là nhân
tố chủ yếu để hình thành và phát triển nhân cách con người, là chìa khoá mở cửa vào tương
lai, là quốc sách hàng đầu của chiến lược phát triển KT-XH.
GD&ĐT là một bộ phận cấu thành trong quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của đất
nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng chiến
lược phát triển GD&ĐT”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá VIII về định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH.
Một trong bốn giải pháp quan trọng để khắc phục yếu kém của GD&ĐT hiện nay là đổi mới
công tác quản lý, đặt trọng tâm vào vấn đề: “Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch phát
triển giáo dục. Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của cả nước và từng
địa phương, có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát
triển KT-XH, khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay, gắn đào tạo với sử dụng ”
Ở Việt Nam, đã có một số tác giả nghiên cứu về dự báo giáo dục và các vấn đề liên quan
đến dự báo giáo dục đáng chú ý nhất là công trình nghiên cứu của tác giả PTS. Đỗ Chấn về
“Dự báo nhu cầu cán bộ chuyên môn Việt Nam đến năm 2000”, (Viện nghiên cứu Đại học
và THCN năm 1984). Tác giả GS. Hà Thế Ngữ về “Dự báo giáo dục vấn đề và xu hướng”,
(Viện khoa học giáo dục Việt Nam - 1989) đã khẳng định: “Nền giáo dục của một nước,
một địa phương nhất thiết phải lấy công tác dự báo giáo dục làm tiền đề”. Theo tác giả Đặng
Quốc Bảo về: “Dự báo giáo dục và một số vấn đề có liên quan đến dự báo giáo dục” đó nêu:
“Cỏi lạc hậu trong kế hoạch hoá giáo dục của chúng ta trong một thời gian dài là việc kế
hoạch giáo dục thiếu tính đa chiều, thiếu tính viễn cảnh và thiếu tính mềm dẻo về phương án
thực hiện”…
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội
nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
Trang 1
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân
trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước,
xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược". Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm
quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước.
2. Cơ sở thực tiễn
Trường CĐSP Nha Trang được thành lập vào ngày 01 tháng 04 năm 1976 và chính thức
được công nhận theo quyết định số 164/TTG ngày 21 tháng 3 năm 1978 của Thủ tướng
Chính phủ. Mục tiêu của Nhà trường là xây dựng trường trở thành một cơ sở đào tạo và
nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực đạt chất lượng cao, phục vụ cho các mục tiêu
kinh tế - xã hội của tỉnh Khánh Hòa và cả nước. Các trình độ đào tạo của trường bao gồm
Trung học, Cao đẳng và Đại học. Quá trình đào tạo của nhà trường luôn gắn kết giữa đào
tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nghiên cứu khoa học giáo dục.
Cùng với xu thế phát triển chung của cả nước và của thế giới trong công tác Giáo dục – Đào
tạo, trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang đã từng bước nâng cao công tác quản lý Giáo dục
– Đào tạo theo những yêu cầu đổi mới ngày càng cao, đáp ứng mục tiêu và phương hướng
của nhà trường và xã hội đề ra đó là phát triển nhà trường thành một trường Đại học trong
thời gian tới.
Để thực hiện được mục tiêu trên, công tác dự báo trong hoạt động giáo dục là hết sức quan
trọng, trong đó việc dự báo về nhu cầu, chất lượng của hoạt động Giáo dục – Đào tạo đóng
vai trò quyết định đến sự sống còn và phát triển của nhà trường trong bối cảnh đất nước và
xã hội có nhiều chuyển biến, yêu cầu của xã hội về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng
cao.
Với nội dung “Ý NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG DỰ BÁO ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC QUẢN LÝ CƠ SỞ VẬT CHẤT Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NHA
TRANG”, tôi xin trình bày một vài vấn đề về ý nghĩa và tầm quan trọng trong công tác dự
báo đối với hoạt động quản lý cơ sở vật chất của Trường CĐSP Nha Trang trong thời gian
tới khi phát triển thành một trường Đại học.
Với thời gian và khối lượng kiến thức có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót
trong quá trình thực hiện, rất mong đựơc các Quý thầy cô quan tâm và có những ý kiến
đóng góp, chỉ bảo giúp tôi hoàn thành nội dung của môn học này.
Xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô.
Người thực hiện : Nguyễn Hữu Thống
Trang 2
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO GIÁO DỤC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Quốc tế
Thời Phục hưng những yếu tố dự báo sư phạm, dự báo GD đã được xác định trong nhiều tài
liệu của các tác giả như Campnella, Thoms Moro, rồi đến thời cận - hiện đại cũng được các
nhà sư phạm đề cập đến như Komensky, Usinsky, Disteveg và các nhà xã hội học không
tưởng.
Với phương pháp luận khoa học của CN Mác-Lênin, những ý tưởng về nền GD và nhà
trường tương lai đầu tiên được khẳng định trên cơ sở những quy luật khách quan phù hợp
với sự phát triển của XH và con người. Vào giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX ở Liên Xô đã có
một số công trình dự báo GD có ý nghĩa to lớn của Usinxky, Macarenkô…
Ngày nay UNESCO đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, công bố nhiều công trình dự báo GD
với quy mô toàn cầu hoặc từng khu vực như: Hội thảo về “Tương lai giáo dục và giáo dục
của tương lai” do Viện quốc tế kế hoạch hoá giáo dục của UNESCO tổ chức năm 1978.
Công trình nghiên cứu “Suy nghĩ về sự phát triển tương lai của giáo dục”, UNESCO - Paris
1984. Gần đây là chuyên luận “Nền giáo dục thế kỷ XXI. Những triển vọng của Châu Á -
Thái Bình Dương” của Raja Roy Singh - nguyên trợ lý Tổng giám đốc UNESCO khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, chuyên luận này đã nêu lên những dự đoán về nền GD, vai trò
của GD ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và khả năng phát triển mạnh mẽ của GD ở
khu vực này trong thế kỷ XXI.
1.1.2. Việt Nam
Dự báo GD là một ngành còn non trẻ, trong những năm gần đây nó mới được các nhà khoa
học tìm hiểu và nghiên cứu, như tác giả Hà Thế Ngữ đã viết: “Việc dự báo giáo dục với tư
cách là một hướng hoạt động nghiên cứu chuyên biệt, mới được bắt đầu ở Viện KHGD từ
những năm 1985-1986…”.
Trong quá trình chuẩn bị cho việc cải cách GD và xây dựng chiến lược GD , đã có những ý
kiến có tính dự báo GD được đề xuất. Các công trình nghiên cứu dự báo của các nhà khoa
học đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển
GD, như công trình nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục do tác giả Hà Thế Ngữ (chủ
biên ): “Dự báo giáo dục-Vấn đề và xu hướng” (Viện KHGD Việt Nam-1989).
Tác giả Đặng Quốc Bảo với bài “Về phương hướng phát triển sự nghiệp giáo dục phổ
thông” (Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 10-1987). Bài viết đã đề cập đến những khả năng và
phương hướng phát triển của sự nghiệp GD.
Cuốn “Dự báo giáo dục và một số vấn đề có liên quan đến công tác dự báo giáo dục”, Hà
Nội-2001 (nhiều tác giả), đã đề cập rất nhiều đến công tác dự báo GD, những vấn đề cần
thiết cho công tác này và vai trò của vấn đề dự báo GD.
Tác giả Đỗ Văn Chấn “Dự báo phát triển”, Hà Nội-2001, đó là những dự báo về tình hình,
khả năng của công tác dự báo theo xu hướng phát triển của các sự vật hiện tượng theo các
quy luật vốn có của nó.
“Dự báo dân số, học sinh đến trường và lực lượng lao động Việt Nam” (1995 - 2005) của
Tổng cục thống kê là những dự báo về tình hình phát triển dân số nước ta, theo đó là sự thay
đổi về cơ cấu, chất lượng lao động ở Việt Nam.
GS.VS Phạm Minh Hạc với “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, Nhà
xuất bản CTQG, 1999. Tác giả phân tích đánh giá những yêu cầu thách thức, những khó
khăn và triển vọng của GD Việt Nam thế kỷ XXI.
Trang 3
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Những công trình nghiên cứu dự báo GD hầu hết tập trung ở tầm vĩ mô. Song những năm
gần đây các công trình nghiên cứu dự báo GD ở các địa phương cũng đã bắt đầu được quan
tâm.
Tỉnh uỷ Tỉnh Khánh Hòa đặc biệt quan tâm chú ý việc định hướng quy hoạch phát triển
GD&ĐT bằng đề án thành lập Trường Đại học Khánh Hòa trong đó lực lượng nồng cốt là
Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang.
Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nha Trang đã triển khai đánh giá, dự kiến kế hoạch về quy mô
trường, lớp; giúp UBND Tỉnh Khánh Hòa xây dựng được Đề án thành lập trường ĐH
Khánh Hòa. Đặc biệt là quá trình quản lý cơ sở vật chất của Trường Đại học Khánh Hòa
dựa trên mô hình hiện tại của Trường Cao đẳng Sư Phạm Nha Trang.
Tóm lại: Dự báo và dự báo GD đã được nhiều nước quan tâm. Ở nước ta đây là lĩnh vực còn
mới, ít được quan tâm nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn, có lẽ do chưa nhận thấy tầm
quan trọng của công tác dự báo trong việc lập kế hoạch, quy hoạch các vấn đề KT, XH,
GD… nên chưa có sự đầu tư thích đáng việc nghiên cứu lý luận và triển khai nghiên cứu
ứng dụng cụ thể trong các lĩnh vực của đời sống.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm về dự báo
1.2.1.1. Khái niệm dự báo
Theo từ điển Tiếng Việt, dự báo là “Báo trước về tình hình có nhiều khả năng sẽ xảy ra, dựa
trên cơ sở những số liệu, những thông tin đã có” .
Dự báo là những kiến giải có căn cứ khoa học về các trạng thái khả dĩ của đối tượng dự báo
trong tương lai, về các con đường khác nhau, thời hạn khác nhau để đạt tới trạng thái tương
lai ở các thời điểm khác nhau.
Dự báo dựa trên sơ sở nhận thức những quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy. Dự báo là khâu quan trọng nối liền giữa lý luận và thực tiễn. Dự báo gắn liền với
một khái niệm quan trọng là sự tiên đoán. Với nghĩa hẹp, sự tiên đoán là nói lên cái gì có
thể xảy ra, trong khi dự báo là nói lên cái gì có thể xảy ra với những điều kiện nhất định.
Nếu các điều kiện thay đổi thì sự dự báo cũng thay đổi theo.
Có thể chia làm ba cấp độ tiên đoán, căn cứ vào mức độ cụ thể, đặc điểm tác động của dự
báo đến sự phát triển của hiện tượng hoặc quá trình được nghiên cứu:
- Giả thuyết: Là sự tiên đoán khoa học ở cấp độ lý luận chung.
- Dự báo: So với giả thuyết, dự báo có tính xác định cao hơn, nó dựa trên những tham
số định tính và các tham số định lượng. Dự báo có đặc trưng xác suất.
- Kế hoạch: Là việc xác định những mục tiêu cụ thể và chính xác, là sự tiên đoán những sự
kiện cụ thể chi tiết của trạng thái tương lai.
1.2.1.2. Phân loại dự báo
- Phân loại theo phạm vi đối tượng dự báo.
- Phân loại theo thời gian của đối tượng dự báo. 6 Phân loại theo đặc trưng của đối tượng.
- Phân loại theo chức năng của đối tượng.
1.2.1.3. Cách tiếp cận khi lập dự báo
- Tiếp cận lịch sử.
- Cách tiếp cận phức hợp.
- Cách tiếp cận hệ thống.
1.2.1.4. Các nguyên tắc khi lập dự báo
- Nguyên tắc thống nhất về chính trị, kinh tế và khoa học.
- Nguyên tắc tính hệ thống của dự báo.
- Nguyên tắc tính khoa học của dự báo.
- Nguyên tắc tính thích hợp của dự báo.
Trang 4
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
- Nguyên tắc đa phương án của dự báo.
1.2.2. Khái niệm về dự báo giáo dục
1.2.2.1. Khái niệm dự báo giáo dục
Công tác dự báo GD hướng vào việc cung cấp một quan niệm hiện thực về tương lai của
nền GD, tìm kiếm những mục tiêu mới, những viễn cảnh tốt đẹp và những giải pháp mới
nhằm đem lại tiềm năng tương lai cho nền GD. Dự báo GD cũng có thể báo động tình trạng
xấu đi, những mối đe doạ, nguy biến mà XH có thể gặp phải trong một thời kỳ nhất định,
song chức năng chân chính của KHXH là không tạo nên tâm lý hoang mang, giảm ý chí,
mất niềm tin mà phải huy động kịp thời, đúng đắn toàn XH nhằm giảm bớt, ngăn chặn hoặc
vượt qua những khó khăn thử thách.
Theo tác giả Hà Thế Ngữ, dự báo GD là “Xây dựng phán đoán có thể về tình trạng của nền
giáo dục trong tương lai, nghiên cứu những triển vọng phát triển của nền giáo dục, chỉ ra
những thời hạn ít nhiều xác định của những biến đổi sẽ xảy ra - đó là dự báo giáo dục - một
dạng của tiên đoán khoa học trong lĩnh vực xã hội” . Vậy dự báo GD là xây dựng những
phán đoán về quá trình vận động, phát triển của cả hệ thống GD cũng như những bộ phận
của hệ thống sẽ diễn ra trong tương lai.
1.2.2.2. Phân loại dự báo giáo dục
Theo tác giả Hà Thế Ngữ “Đối tượng của dự báo giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân
của một nước, một địa phương, với những đặc trưng: Về quy mô phát triển, cơ cấu loại
hình, chất lượng đào tạo, tổ chức sư phạm”.
Tác giả đã nêu rõ việc phân loại dự báo GD đó là: Dự báo điều kiện chính trị, KT-
XH mà GD sẽ vận hành và phát triển; dự báo về những biến đổi trong tính chất mục tiêu và
cấu trúc của hệ thống GD; dự báo về sự thay đổi nội dung, phương pháp và hình thức tổ
chức; dự báo về chất lượng, số lượng đội ngũ GV, CSVC, công tác tổ chức quản lý trong hệ
thống GD
1.2.2.3. Tổ chức quá trình nghiên cứu dự báo giáo dục
- Giai đoạn định hướng.
- Giai đoạn thu thập tài liệu dự báo.
- Giai đoạn xây dựng mô hình xuất phát.
- Giai đoạn tiến hành dự báo.
- Giai đoạn đánh giá mức độ chắc chắn và chính xác hoá các mô hình dự báo qua ý kiến
chuyên gia.
- Giai đoạn xây dựng các giải pháp, kiến nghị.
1.2.2.4. Vai trò của dự báo giáo dục
- Vai trò của dự báo giáo dục đối với đất nước:
Về vai trò của dự báo, chúng ta có thể khái quát bằng mô hình sau:
Trang 5
Đường lối
Kế hoạchQuy hoạchChiến lược
Dự
báo
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) đã đề ra mục tiêu, chiến lược của công tác GD&ĐT, các giải
pháp thực hiện, trong đó có giải pháp đổi mới công tác QLGD và đầu tiên là tăng cường
công tác dự báo và kế hoạch hoá phát triển GD. Dự báo GD là cơ sở khoa học cho việc xây
dựng chiến lược phát triển GD&ĐT và kế hoạch thực hiện.
- Vai trò dự báo giáo dục đối với địa phương:
Những thành tựu đạt được trong những năm vừa qua của ngành GD&ĐT, cho thấy Tỉnh uỷ,
HĐND, UBND và Sở GD&ĐT luôn quan tâm và làm tốt công tác xây dựng kế hoạch
GD&ĐT; đặc biệt kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất cho các trường sư phạm, nhằm đáp
ứng nhu cầu về cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm phục vụ cho công tác dạy và học.
Dự báo nhu cầu về quản lý cơ sở vật chất của Trường Cao Đẳng Sư phạm Nha Trang; giúp
cho Ban Giám Hiệu, Sở GD&ĐT, UBND có được các chủ trương, chính sách ưu đãi tăng
cường nguồn vốn trang bị cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, giúp nâng cao chất lượng
giáo dục tại Tỉnh Khánh Hòa.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến quy mô phát triển giáo dục
1.3.1. Nhân tố kinh tế - xã hội
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “Giáo dục có những đóng góp trực tiếp nhất định vào việc
hình thành phát triển thu nhập quốc dân”. “Nếu tính cả đóng góp gián tiếp thì hoạt động
GD&ĐT có vai trò rất lớn đối với sự phát triển KT-XH”. Theo quan điểm tiếp cận hệ
thống, yếu tố KT-XH cũng tác động mạnh mẽ và là nhân tố tác động trực tiếp đến GD&ĐT.
Quy mô phát triển GD chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố KT-XH. Trong các nhân tố
KT-XH, nhân tố phát triển dân số tác động trực tiếp đến đầu vào của hệ thống GD.
1.3.2. Các nhân tố bên trong hệ thống giáo dục-đào tạo
Nội lực chính của GD6ĐT là các nhân tố tồn tại bên trong hệ thống GD và được thể hiện ở
cấu trúc hệ thống GD, nội dung chương trình, tổ chức đào tạo, đội ngũ GV Nếu các nhân
tố trên phát triển hài hoà, cân đối là điều kiện tốt nhất và cũng là động lực mạnh mẽ nhất
thúc đẩy GD&ĐT phát triển.
1.3.3. Các nhân tố về văn hoá - khoa học - công nghệ
Giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ với tất cả các lĩnh vực của đời sống XH,
đồng thời nó là tiền đề cho sự phát triển XH. Nhưng các nhân tố văn hoá đòi hỏi GD&ĐT
phát triển phù hợp với bản sắc dân tộc. Đồng thời sự phát triển như vũ bão của KH-CN
cũng đòi hỏi GD&ĐT có sự cải tiến, bổ sung và đổi mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của XH.
1.3.4. Các nhân tố về chỉ đạo, lãnh đạo
Bất cứ nền GD nào cũng nhằm phục vụ mục đích chính trị của giai cấp nắm chính quyền;
Nhà nước sử dụng GD như một công cụ đặc biệt nhằm đạt được mục tiêu chính trị, XH.
Quan điểm và đường lối lãnh đạo đối với GD ở mọi góc độ đều ảnh hưởng lớn đến sự phát
triển của GD.
1.3.5. Nhân tố quốc tế
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI - Thế kỷ của nền văn minh tri thức; những thách thức và
cơ hội của thời đại mới đã tạo ra xu thế toàn cầu hoá. Quá trình giao lưu hội nhập giữa các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã tác động mạnh mẽ đến mỗi quốc gia, trong đó
phải kể đến những cơ hội và thách thức cho nền GD của mỗi nước. Chính vì vậy ngành
GD6ĐT càng cần phải tổ chức chặt chẽ mọi khâu của quá trình GD làm cho GD nước ta
vừa có điều kiện học hỏi tinh hoa GD hiện đại, vừa giữ gìn được bản chất tốt đẹp của nền
GD XHCN, mang đậm bản sắc dân tộc.
Trang 6
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
PHẦN II
VAI TRÒ, Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA CÔNG TÁC DỰ BÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
I. VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC DỰ BÁO TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC:
1- Vai trò của công tác dự báo trong hoạt động giáo dục:
Các nhà tương lai học dự báo rằng: Ở ngưỡng cửa của thế kỷ XXI nhân loại có cơ hội đứng
trước một bước nhảy kỳ diệu, tiến vào một nền văn minh mới, còn gọi là nền văn minh trí
tuệ, hậu công nghiệp, một “xã hội thông tin” chứa đựng những vận hội lớn về chính trị và sự
phục hưng lớn về văn hoá. Dự báo giáo dục nhằm xây dựng những phán đoán có thể về tình
trạng của nền giáo dục trong tương lai, nghiên cứu những triển vọng của nền giáo dục đó,
đồn thời chỉ ra những thời hạn xác định của biến đổi sẽ ra sao.
Dự báo giáo dục nhằm tìm kiếm những mục tiêu mới, những viễn cảnh mới, phương pháp
mới nhằm đem lại tiềm năng tương lai cho nền giáo dục trên cơ sở đó đưa ra được những
quyết định đúng đắn cho sự phát triển GD&ĐT về mục tiêu hiện tại, trước mắt và lâu dài.
Dự báo phát triển giáo dục là một trong những căn cứ quan trọng của việc xây dựng quy
hoạch GD&ĐT. Dự báo GD&ĐT là xác định trạng thái tương lai của hệ thống GD&ĐT với
xác suất nào đó có ý nghĩa định hướng, làm cơ sở khoa học cho việc xác định phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu lớn của GD&ĐT. Đối tượng của dự báo GD&ĐT là hệ thống
giáo dục quốc dân của một quốc gia, một địa phương với những đặc trưng về quy mô phát
triển cơ cấu loại hình, mạng lưới trường lớp, đội ng̣ũ giáo viên, chất lượng đào tạo, tổ chức
sư phạm…v.v
Dự báo phục vụ cho nhà quản lý có cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng kế hoạch ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn nhằm thực hiện công việc quản lý một cách khả thi.
2- Ý nghĩa của công tác dự báo trong hoạt động giáo dục:
Ngày 17/8/2012, đ/c Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm, làm việc với cán bộ chủ
chốt Bộ Giáo dục và Đào tạo về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XI và việc chuẩn bị Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế." Tổng Bí thư lưu ý, cần có tầm nhìn chiến lược, dài hạn. Chúng ta đã 3 lần tiến hành cải
cách giáo dục, vì sao lúc này phải đặt vấn đề đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo?
Cần làm rõ nội hàm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, phải chăng là đổi mới
từ tư duy, mô hình, hệ thống tổ chức giáo dục, cơ chế vận hành, cơ chế quản lý, loại hình
giáo dục, rồi phải có đội ngũ cán bộ, giáo viên, cơ sở vật chất, nguồn lực, điều kiện bảo đảm
thực hiện đổi mới Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, cần hình thành một triết lý về giáo dục, chú ý phát triển khoa học giáo dục
Việt Nam, coi đây là nền tảng lý luận để tiến hành đổi mới giáo dục.
Tổng Bí thư đề nghị, trước mắt cần tập trung tạo chuyển biến mạnh mẽ trong một số lĩnh
vực, quan tâm hơn nữa việc dạy đạo đức làm người, bồi dưỡng rèn luyện nhân cách con
Trang 7
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
người, như Bác Hồ từng dạy: học là để làm người, rồi mới làm cán bộ để phục vụ đất nước,
phục vụ nhân dân. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quản lý; phân cấp
quản lý là đúng, nhưng không được buông lỏng kiểm tra, giám sát; đồng thời phải quan tâm
giải quyết tốt những vấn đề bức xúc trong giáo dục-đào tạo.
Tổng Bí thư đề nghị ngành giáo dục-đào tạo hết sức quan tâm triển khai thực hiện nghiêm
túc, có chất lượng, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI về xây dựng Đảng. Xây
dựng Đảng là xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là điều kiện để bảo đảm thực hiện tốt
những việc đã đề ra. Cùng với cơ chế, chính sách, luật pháp, cần có tổ chức chặt chẽ, con
người - cán bộ trong sạch. Ban cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo cần gương mẫu thực
hiện và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, kiên trì trong toàn ngành, theo đúng quan điểm chỉ
đạo của Trung ương.
Để thực hiện được những nội dung nêu trên trong chiến lược phát triển nền giáo dục nước
nhà, việc dự báo mang ý nghĩa vô cùng to lớn và quan trọng, quyết định đến các chủ trương,
đường lối và chính sách đối với nền giáo dục của một quốc gia nói chung và của mỗi cơ sở
đào tạo nói riêng. Dự báo phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những vấn đề quan trọng
nhất của công tác quản lý trong việc xây dựng kế hoạch có cơ sở khoa học nhằm đạt được
những mục tiêu đã đề ra.
- Công tác dự báo giúp các nhà quản lý thiết lập các phương án tối ưu, xác định được xu thế
phát triển các mục tiêu cần đạt được để làm cơ sở cho việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch,
chiến lược phục vụ cho nhà quản lý có thể điều khiển, điều chỉnh trong việc hoạch định
chiến lược có cơ sở khoa học.
- Công tác dự báo giúp các nhà quản lý chủ động trong việc chuẩn bị đầy đủ những điều
kiện cần cho quá trình xây dựng kế hoạch, quy hoạch và lường trước được những khó khăn,
rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện mục tiêu, nhiêm vụ giáo dục đề ra.
- Dự báo cũng là động cơ chính trong việc thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu nhằm tìm ra
những giải pháp tối ưu trong việc thực hiện các đường lối, chủ trương, kế hoạch trong quá
trình thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục đề ra.
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC DỰ BÁO TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC.
Trong công tác quản lý nói chung và công tác quản lý giáo dục nói riêng, hoạt động dự báo
được xây dựng nhằm tăng cường cơ sở khoa học cho việc ra quyết định, vạch ra các chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch. Bản thân dự báo phải dựa vào các đường lối, chủ trương của
Đảng và nhà nước, là công cụ hữu hiệu của việc kế hoạch hoá triển vọng cũng như quản lý
nền giáo dục quốc dân. Trong công tác quản lý dự báo và kế hoạch hoá là một trong những
vấn đề quan trọng nhất. Không có dự báo thì không có phương hướng cho công tác quản lý.
Quản lý mà không theo kế hoạch th́ì chỉ là hàng loạt những hoạt động tuỳ tiện, không có hệ
thống, do đó dễ phạm sai lầm và không hiệu quả. Dựa vào dự báo, nhà quản lý xây dựng kế
hoạch chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh công tác quản lý có khoa học và có hệ thống để đạt
hiệu quả cao. Nếu dự báo chính xác góp phần xây dựng chiến lược và kế hoạch sát với hiện
thực có tính khả thi cao.
Trong “Chiến lược Phát triển giáo dục 2011 – 2020” (Ban hành kèm theo Quyết định số
711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ) có đề cập đến những
dự báo trong tương lai đối với chiến lược phát triển giáo dục nước nhà như sau:
“Giáo dục nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi
nhanh và phức tạp. Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất
Trang 8
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế trí thức
ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên
thế giới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã khẳng định phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định,
dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên
rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau. Chiến lược cũng đã xác định rõ một trong ba đột phá là phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản,
toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển
và ứng dụng khoa học, công nghệ. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới sẽ tạo ra
nhiều cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức đối với sự
nghiệp phát triển giáo dục.”
Dự báo được những xu thế, yêu cầu phát triển nêu trên, Đảng và nhà nước ta đã có những
định hướng cơ bản cho việc phát triển nền giáo dục nước nhà thông qua việc phân tích
những cơ hội và thách thức trong thời gian tới, cụ thể:
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho
giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển kinh
tế - xã hội. Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội trong 10 năm vừa qua và Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình
tăng trưởng, cùng với Chiến lược và Quy hoạch phát triển nhân lực trong thời kỳ dân số
vàng là tiền đề cơ bản để ngành giáo dục cùng các bộ, ngành, địa phương phát triển giáo
dục.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông sẽ tạo ra
những điều kiện thuận lợi để đổi mới cơ bản nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục, tiến tới một nền giáo dục điện tử đáp ứng nhu cầu của
từng cá nhân người học.
Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội
thuận lợi để tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục hiện đại,
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, tạo thời cơ để phát triển giáo dục.
Bên cạnh những cơ hội trên, việc phát triển nền giáo dục nước ta cũng gặp không ít những
khó khăn, thách thức:
Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo
giữa các nhóm dân cư, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt, gây
nguy cơ dẫn đến sự thiếu bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, gia tăng khoảng cách về chất
lượng giáo dục giữa các vùng miền và cho các đối tượng người học.
Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phát triển kinh tế theo chiều sâu tri thức với công nghệ tiên tiến và hội nhập
quốc tế, trong khi đó nguồn lực đầu tư cho giáo dục là có hạn, sẽ tạo sức ép đối với phát
triển giáo dục.
Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng cách kinh tế, tri thức, giáo dục giữa Việt Nam và
các nước ngày càng gia tăng. Hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh
những vấn đề mới, như nguy cơ xâm nhập của văn hóa và lối sống không lành mạnh làm
xói mòn bản sắc dân tộc, dịch vụ giáo dục kém chất lượng có thể gây nhiều rủi ro lớn đối
với giáo dục đặt ra yêu cầu phải đổi mới cả về lý luận cũng như những giải pháp thực tiễn
phù hợp để phát triển giáo dục.
Trang 9
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Trước những yêu cầu đặt ra cho việc cải cách và phát triển nền giáo dục nước nhà, Đảng và
nhà nước đã có những quan điểm cũng như mục tiêu cụ thể nhằm thực hiện kế hoạch đề ra:
* Về quan điểm :
- Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai
trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Đầu tư cho giáo
dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính
sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát triển giáo
dục phổ cập và các đối tượng đặc thù.
- Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ nghĩa, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được mặt bằng chung, đồng
thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có điều kiện bứt phá nhanh, đi
trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có nền giáo dục phát triển. Xây dựng
xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được học, học suốt đời, đặc biệt đối với
người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện chính sách.
- Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ, tập trung vào nâng cao
chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực
hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu
cầu phát triển của mỗi người học, những người có năng khiếu được phát triển tài năng.
- Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ
vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp tác với các nền
giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại; phát hiện và khai thác
kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
* Về mục tiêu :
Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo dục được
nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực sáng tạo, năng
lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực
chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền
kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho
mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập.
Qua những nội dung trên, ta thấy công tác dự báo có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng
trong công tác quản lý nói chung và công tác quản lý giáo dục nói riêng, nó là khâu cực kỳ
quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình hoạch định của các nhà quản lý. Bằng
các phương pháp dự báo, các nhà quản lý có thể vạch ra được những kịch bản xảy ra trong
tương lai và thấy được những kết quả tương ứng của nó, đồng thời đề ra những kế hoạch
phù hợp nhằm phát huy tối đa hiệu quả tích cực của kế hoạch đề ra, hạn chế những rủi ro
không mong muốn.
Trang 10
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
PHẦN III
CÔNG TÁC DỰ BÁO VÀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ
CƠ SỞ VẬT CHẤT CỦA TRƯỜNG CĐSP NHA TRANG
I. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NHA
TRANG.
Trường CĐSP Nha Trang là một trong 06 trường CĐSP đầu tiên của các tỉnh phía Nam,
được thành lập vào ngày 01 tháng 04 năm 1976 và chính thức được công nhận theo quyết
định số 164/TTG ngày 21 tháng 3 năm 1978 của Thủ tướng Chính phủ. Mục tiêu của Nhà
trường là xây dựng trường trở thành một cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học đa ngành, đa
lĩnh vực đạt chất lượng cao, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Khánh Hòa
và cả nước. Các trình độ đào tạo của trường bao gồm trung học, cao đẳng và đại học. Quá
trình đào tạo của nhà trường luôn gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt là
nghiên cứu khoa học giáo dục.
Từ ngày thành lập đến nay, các thế hệ cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên của
trường đã phấn đấu không ngừng xây đắp nên những thành tựu to lớn cho sự nghiệp giáo
dục của tỉnh Khánh Hòa và cả nước. Trong 03 năm đầu (1976 - 1978), mặc dù còn nhiều
khó khăn của một địa phương mới giải phóng, nhưng trường đã cố gắng hoàn thành tốt việc
đào tạo khẩn trương và kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung giáo viên phổ thông cấp II
cho các tỉnh Phú Khánh, Thuận Hải, Đắc Lắc.
Cán bộ giảng viên, công nhân viên trường
1976 - 1981
Những khóa học đầu tiên - Lớp C2 Khóa I -
1976
Trang 11
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Đại hội Đảng bộ lần thứ VI
Đại hội đại biểu Đoàn TNCS HCM trường
CĐSP NT lần III
Từ 1979 trở đi trường thực hiện quy trình đào tạo giáo viên phổ thông cấp II trình độ CĐSP
hai môn hệ chính quy 03 năm. Song song với quy trình đào tạo này trường còn tiến hành mở
các lớp bồi dưỡng chuẩn hóa CĐSP 12+3, THSP 12+2 …
Từ 1988 trường bắt đầu mở rộng liên kết đào tạo với các trường ĐH theo hướng đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh
Khánh Hòa và một số tỉnh khác ở cực Nam Trung Bộ.
Từ năm 2000 đến nay, trường xúc tiến mạnh mẽ định hướng xây dựng nâng cấp trường
thành một trường Đại học đa ngành. Các liên kết đào tạo được tăng cường mạnh mẽ, các
loại hình đào tạo đa dạng hơn thiết thực phục vụ nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của địa
phương và khu vực.
Trong thời gian qua, các thế hệ cán bộ, giảng viên, công nhân viên và sinh viên trường
CĐSP Nha Trang đã có những bước tiến vượt bậc. Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động công
tác của tập thể cũng như từng cá nhân, nơi đâu cũng có những thay đổi lớn lao, những sự
tích đáng nhớ, những thành tích đáng ca ngợi và tôn vinh.
Hiện nay, nhà trường đã xây dựng được đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao và cơ sở
vật chất đáp ứng với yêu cầu của một trường Đại học. Trường đang khẩn trương hoàn thành
đề án nâng cấp nhà trường thành Trường Đại học Khánh Hòa, đào tạo đa ngành theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ XV.
II – DỰ BÁO VỀ QUY MÔ PHÁT TRIỂN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NHA
TRANG ĐẾN NĂM 2015.
Căn cứ vào mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển giáo dục của đất nước ta đến
năm 2020: “Đến năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng
giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng lực
sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất
là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt
đời cho mỗi người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ XV và kết luận
của ông Lê Xuân Thân - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa tại buổi làm việc với Trường
Cao đẳng sư phạm (CĐSP) Nha Trang : “Để đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện nay và thành lập
Trường Đại học Khánh Hòa sau này, ông Lê Xuân Thân chỉ đạo Trường CĐSP Nha Trang
phải đảm bảo chất lượng đầu ra; cần quan tâm, đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên,
đảm nhiệm tốt công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, có phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp… Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ dạy và
học phải được rà soát kỹ, phân kỳ đầu tư và mua sắm hợp lý, thiết thực nhất trong điều kiện
ngân sách còn khó khăn. Mặt khác, trường cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học,
tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị khác trong lĩnh vực đào tạo…” (Báo
Khánh hòa số ra ngày 23/06/2012).
Trường Cao đẳng Sư phạm Nha trang đã đề ra sứ mệnh và tâm nhìn trong chiến lược
phát triển nhà trường như sau :
a. Sứ mệnh: Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang là cơ sở đào tạo, bồi dưỡng giáo viên,
cán bộ quản lý giáo dục và các nguồn nhân lực khác có chất lượng cao; là cơ sở nghiên cứu
Trang 12
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
khoa học và chuyển giao công nghệ phục vụ sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục, kinh tế
xã hội cho tỉnh Khánh Hòa và khu vực Nam Trung bộ.
b. Tầm nhìn phát triển: Đến năm 2015, Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang sẽ trở thành
một trường đại học, một cơ sở đào tạo, nghiên cứu và tư vấn về khoa học giáo dục, khoa
học xã hội nhân văn trong hệ thống các cơ sở đào tạo bậc đại học trong nước. Trường cung
cấp cho người học môi trường giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học tốt, có tính chuyên
môn cao; đảm bảo cho người học khi tốt nghiệp có đủ năng lực và thích ứng nhanh với nền
kinh tế quốc dân.
Trước những yêu cầu cấp bách trong công cuộc cải cách, phát triển nền giáo dục nước
nhà và mục tiêu xây dựng, phát triển của Tỉnh Khánh Hòa nói chung và việc định hướng
xây dựng và phát triển của nhà trường nói riêng cả về quy mô lẫn số lượng, chất lượng đào
tạo. Trong những năm qua, trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang đã từng bước xây dựng
cho mình một lộ trình cơ bản vững chắc, từng bước thực hiện những mục tiêu mà nhà
trường đề ra trong việc chuẩn bị đầy đủ những điều kiện cần thiết cho việc phát triển nhà
trường thành trường Đại học, cụ thể:
- Xây dựng đề án nâng cấp nhà trường thành trường Đại học, trong đó tiến hành xác
định các mục tiêu, nhiệm vụ, phuơng hướng và biện pháp thực hiện nhằm cụ thể hóa chiến
lược phát triển của nhà trường thông qua việc bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng,
nhà nước, của ngành Giáo dục, chiến lược và kế hoạch của nhà trường.
- Nâng cao công tác quản lý chất lượng giáo dục của trong nhà trường bằng nhiều biện
pháp:
+ Xây dựng cơ cấu bộ máy tổ chức phù hợp với cơ cấu của một trường Đại học:
Bộ máy tổ chức của trường hiện tại gồm:
-Các phòng, ban, trung tâm: Phòng Đào tạo; Phòng Tổ chức-Hành chính; Phòng Quản trị
Công nghệ thiết bị; Phòng Kế hoạch Tài chính; Phòng Quản lý Khoa học-Quan hệ quốc tế;
Phòng Công tác Học sinh-Sinh viên; Phòng Thanh tra – Kiểm định chất lượng; Trung tâm
Đào tạo tại chức; Trung tâm Công nghệ Sinh học – Môi trường và Thư viện.
- Các khoa: Khoa Tự nhiên; Khoa Xã hội; Khoa Ngoại ngữ; Khoa Khoa học quản lý-Giáo
dục; Khoa Giáo dục thể chất-Năng khiếu; Khoa Tiểu học-Mầm non và Khoa Văn hóa – Du
lịch.
Theo Đề án thành lập Trường ĐHKH, trường sẽ được thành lập trên cơ sở tổ chức, đội ngũ,
chương trình đào tạo và cơ sở vật chất, kỹ thuật của các trường CĐ trên địa bàn tỉnh, trong
đó Trường CĐSP Nha Trang là đơn vị nòng cốt. Khi Đề án thành lập Trường ĐHKH được
Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, cơ sở Trường CĐSP Nha Trang sẽ tách thành Khoa Sư
phạm, Khoa Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Công nghệ thông tin, Khoa Ngoại ngữ, các
Trung tâm Thí nghiệm thực hành, Trung tâm Đào tạo vừa làm vừa học… Vì vậy, hiện nay,
ngoài việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên, Trường CĐSP Nha Trang phải có kế
hoạch, phương hướng xây dựng và phát triển nhà trường trong giai đoạn hình thành Trường
ĐHKH trước năm 2015.
+ Tăng cường công tác, tuyển dụng, chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý, đội ngũ giáo viên, đáp ứng với quy mô phát triển của một trường Đại học.
Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 của Ban Bí thư (khóa IX) về việc xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Chỉ thị này nêu rõ: “Xây dựng đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số
Trang 13
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối
sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng
và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
+ Song song với việc tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên có
trình độ đáp ứng cho nhu cầu mới thì việc tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện
đại và phương tiện dạy học cũng như các phòng bộ môn, các phòng thí nghiệm thực hành
cũng cần được đầu tư một cách hiệu quả. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác quản lý như trang bị phần mềm quản lý đào tạo theo tín chỉ, phần mềm quản lý hệ
thống thông tin thư viện điện tử.
Về nội dung này, theo ý kiến chỉ đạo của ông Lê Thanh Quang - Ủy viên Trung
ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Khánh Hòa tại buổi làm việc với Trường
Cao đẳng Sư phạm Nha Trang sáng 1/8/2012. “ việc chuẩn hóa đội ngũ giảng viên không
chỉ để đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện nay mà còn là nền tảng cho việc thành lập Trường Đại
học Khánh Hòa (ĐHKH) sau này. Bên cạnh đó, nhà trường phải xem xét lại các chế độ,
chính sách ưu đãi, có thể đề nghị tỉnh hỗ trợ để giữ, thu hút đội ngũ cán bộ, giảng viên có
trình độ, tâm huyết phục vụ nhà trường. Đặc biệt, nhiệm vụ cấp bách của nhà trường hiện
nay là phải tiếp cận, xây dựng chương trình, nội dung các môn học, ngành học trình độ đại
học làm nền tảng cho Trường ĐHKH đi vào hoạt động” (Báo Khánh hòa số ra ngày
02/08/2012).
Hiện trạng cơ sở vật chất của trường CĐSP Nha Trang
1.Cơ sở đào tạo
• Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang có tổng diện tích 7,7ha; cở sở chính tọa lạc tại
số 01 Nguyễn Chánh, ngay trung tâm Thành phố Nha Trang, có diện tích 2,2 ha.
• Trung tâm Công nghệ Sinh học và Môi trường đặt tại Suối Dầu, xã Suối Cát, Huyện
Cam Lâm có diện tích 5,5 ha.
2.Giảng đường – Phòng học
Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang có 2 khu giảng đường lớn có sức chứa từ 200 –
400 sinh viên và 40 phòng học. Tại các giảng đường và phòng học đều được trang bị các
thiết bị chuyên dùng dành cho các môn học có sử dụng các phương tiện dạy học hiện
đại.
3.Thư viện:
Thư viện Trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang tổ chức và hoạt động theo Quy chế mẫu
tổ chức và hoạt động của thư viện Trường đại học (ban hành kèm theo Quyết định số
13/2008/QĐ-BGD&ĐT ngày 10/3/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Các cơ sở phục vụ đào tạo khác, gồm có: các phòng thí nghiệm, thực hành, thực tập,
xưởng, trung tâm thuộc Khoa, phòng.
Trang 14
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Phụ trách các cơ sở phục vụ đào tạo do Trưởng khoa, phòng phân công trên cơ sở đề
nghị của Trưởng bộ môn.
Phụ trách các đơn vị có trách nhiệm lập kế hoạch thực hành, thực nghiệm theo kế hoạch
chung của đơn vị chuyên môn; chịu trách nhiệm bảo quản, quản lý các tài sản được giao;
lập kế họach bổ sung, mua sắm thiết bị phục vụ công tác đào tạo và NCKH, thực hành,
thực tập.
Thư viện trường có diện tích 564 m2
được bố trí ở một khu vực yên tĩnh,
thoáng mát, có khoảng 30.000 đầu sách
và hàng trăm loại tạp chí được cập nhật
thường xuyên. Hàng ngày thư viện mở
cửa phục vụ từ 7 giờ đến 20 giờ (trừ
ngày lễ và chủ nhật), trong thời gian thi
học kỳ thư viện mở cửa đến 22 giờ đêm.
Phòng đọc của thư viện có khoảng 200
chỗ ngồi. Sinh viên có thể đọc tại chỗ
các loại sách, tạp chí, báo cáo khoa học.
Sắp đến thư viện trường được nâng cấp
thành thư viện điện tử ngang tầm với các Trung tâm học liệu hiện đại, đáp ứng nhu cầu
của bạn đọc theo xu thế hiện nay.
4.Trung tâm trực thuộc trường:
4.1. Trung tâm Đào tạo tại chức và tin học:
• Đơn vị trực thuộc trường Cao đẳng Sư phạm Nha trang thực hiện chế độ hạch tóan
nội bộ, có chức năng đào tạo theo hình thức không chính quy đáp ứng yêu cầu của
người học. Thực hiện liên kết đào tạo, nghiên cứu ứng dụng tiến bộ công nghệ thông
tin theo kế họach và chỉ đạo của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang
đối với những loại hình, ngành đào tạo được UBND tỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho phép.
• Tổ chức và hoạt động của Đào tạo tại chức và tin học tuân thủ theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, của UBND tỉnh Khánh Hòa và Quy chế này. Các chức năng,
nhiệm vụ cụ thể của Trung tâm quy định trong quy chế tổ chức và hoạt động của
Trung tâm do Hiệu trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang ban hành.
4.2. Trung tâm Công nghệ Sinh học – Môi trường:
Là cơ sở phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thí nghiệm, thực hành, thực tập, sản
xuất và dịch vụ thuộc các chuyên ngành sinh học, kỹ thuật nông nghiệp và các bộ môn
có liên quan.
Trung tâm công nghệ Sinh học – Môi trường có nhiệm vụ:
• Tổ chức thực hiện và tham gia quá trình quản lý các công tác giảng dạy, nghiên cứu
khoa học, thực hành về công nghệ sinh học – môi trường và nông học.
• Tham gia quản lý sinh viên trong quá trình giảng dạy, học tập tại cơ sở.
Trang 15
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
• Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất, dịch vụ phục vụ
công tác giáo dục và đào tạo.
• Quản lý và sử dụng có hiệu quả toàn bộ cơ sở vật chất được nhà trường giao.
• Các hoạt động có thu thực hiện theo quy định hiện hành.
• Phối hợp tốt với địa phương trong công tác trật tự an ninh, sản xuất và giáo dục ở địa
bàn của Trại.
5. Phòng máy tính
Có diện tích 524 m2, hoạt động liên tục
từ 7h – 21h hằng ngày, từ thứ hai đến
chủ nhật.
Các phòng thực hành máy tính đặc tại
tầng 3 và 4 của khu nhà C, có 04 phòng
máy tính hiện đại với trên 250 máy, đáp
ứng nhu cầu thực hành về tin học cho
sinh viên trong toàn trường.
6. Phòng thí nghiệm thực hành, xưởng thực hành cơ khí
Các phòng thí nghiệm, thực hành được bố trí tại tầng 2 và 3 khu nhà C. Khoa Tự nhiên
được giao quản lý và bố trí lịch sử dụng các phòng thực hành hóa học, sinh học và thí
nghiệm vật lý. Với các trang thiết bị hiện đại, đáp ứng nhu cầu dạy, học và nghiên cứu
khoa học trong toàn trường.
Trang 16
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
7. Ký túc xá
Ký túc xá của Trường bao gồm 3 tòa
nhà từ 3 đến 5 tầng với 125 phòng, bố
trí khoảng 850 chỗ ở cho sinh viên
thuộc diện chính sách và các sinh viên
trong ngành sư phạm. Ký túc xá được
xây dựng gần biển, thoáng mát góp
phần cho sinh viên tham gia các hoạt
ngoại khóa trên biển một cách thuận
tiện. Ngoài ra căn tin ký túc xá cũng góp
phần lớn vào nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày cho sinh viên.
8. Nhà thi đấu đa chức năng và sân bóng đá cỏ nhân tạo
Diện tích hơn 5787 m2 đặt tại số 05 Trần Hưng Đạo là nơi thu hút sinh viên và các hoạt
động giao lưu văn hóa, văn nghệ thể thao vui chơi giải trí ngoài giờ học
Trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang được thành lập vào ngày 01/4/1976, chính thức được
công nhận theo Quyết định số 164/TTg ngày 21/3/1978 của Thủ tướng chính phủ. Trường
Cao đẳng Sư phạm Nha Trang là một trong những trung tâm văn hoá, khoa học của tỉnh
Khánh Hoà, tọa lạc ngay trung tâm, bên bờ biển của thành phố biển Nha Trang - thành phố
du lịch xinh đẹp nổi tiếng của cả nước.
Mục tiêu của nhà trường được xác định ngày từ khi thành lập là đào tạo giáo viên tiểu học
và trung học cơ sở; bồi dưỡng nâng chuẩn cho đội ngũ giáo viên và bồi dưỡng nghiệp vụ
quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý trường học của tỉnh Khánh Hoà. Từ năm 1989, trường
được giao thêm nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng
cao, phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Khánh Hoà và cả nước. Phương
hướng phát triển của trường trong thời gian tới là xây dựng Trường CĐSP Nha Trang trở
thành một trường Đại học Khánh Hòa.
Trang 17
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, trường đã không ngừng phát triển. Cho đến nay,
trường đã đào tạo trên 30.000 giáo viên các cấp cho tỉnh Khánh Hoà và các tỉnh bạn. Bên
cạnh việc đào tạo giáo viên Tiểu học, THCS trình độ CĐSP, trường còn liên kết với các
trường đại học sư phạm trong khu vực đào tạo trình độ đại học sư phạm hệ chính quy và
chuyên tu cho trên 5000 giáo viên tiểu học và THCS.
Trong nhiều năm liền, nhà trường không ngừng hợp tác quốc tế với một số cơ sở đào tạo
ngoài nước ở Pháp, Anh, New Zealand, Nga, Đức, Canada, Úc đặc biệt trong lĩnh vực bồi
dưỡng nâng chuẩn cho giảng viên và lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Trong nhiều năm liền, nhà trường không ngừng hợp tác quốc tế với một số cơ sở đào tạo
ngoài nước ở Pháp, Anh, New Zealand, Nga, Đức, Canada, Úc đặc biệt trong lĩnh vực bồi
dưỡng nâng chuẩn cho giảng viên và lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển nhà trường trong thời gian tới là kiện toàn
tổ chức, quản lý và xây dựng đội ngũ theo quy chế tổ chức hoạt động của Trường Đại học
Khánh Hòa. Cụ thể, đến năm 2015, nhà trường cần bổ sung thêm 17 tiến sĩ và 30 thạc sĩ cho
các ngành đào tạo.
+ Tăng cường đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu quả chất lượng đào tạo, từng bước đa
dạng hóa các loại hình, ngành nghề đào tạo, đáp ứng yêu cầu trong việc cung cấp nguồn
nhân lực có chất lượng cao cho xã hội.
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, trường đã không ngừng phát triển. Cho đến nay,
trường đã đào tạo trên 30.000 giáo viên các cấp cho tỉnh Khánh Hoà và các tỉnh bạn. Bên
cạnh việc đào tạo giáo viên Tiểu học, THCS trình độ CĐSP, trường còn liên kết với các
trường đại học sư phạm trong khu vực đào tạo trình độ đại học sư phạm hệ chính quy và
chuyên tu cho trên 5.000 giáo viên tiểu học và THCS.
Hiện tại, trường đang thực hiện đào tạo một số chuyên ngành sau:
- Các ngành đào tạo sư phạm: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Giáo dục
công dân, Mỹ thuật, Âm nhạc, Giáo dục thể chất, Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Cao đẳng tiểu
học.
- Các ngành ngoài sư phạm: Công nghệ kỹ thuật điện, Quản trị văn phòng - Lưu trữ, Địa lý
du lịch, Tiếng Anh thương mại và Du lịch, Tiếng Pháp thương mại và du lịch, Tiếng Trung,
Tin học, Việt Nam học, Công nghệ thiết bị trường học; hệ trung cấp gồm các ngành Tin học
và Hành chính.
Ngoài ra, từ nhiều năm nay, nhà trường còn liên kết đào tạo với các trường đại học tại TP
Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Đồng Tháp đào tạo hệ vừa làm vừa học và từ xa các
chuyên ngành Toán, Lý, Hóa, Sinh, Sử, Giáo dục công dân, Tiểu học, Tiếng Anh, Địa lý du
lịch, Ngữ văn báo chí, Quản trị kinh doanh, Tài chính kế toán, Ngân hàng, Quản lý đất đai,
Cầu đường… với số lượng học viên hàng năm lên đến trên 3.000 người.
Hàng năm, trường đạo tào 1.500 sinh viên hệ chính quy, 500 sinh viên hệ vừa học vừa làm,
500 sinh viên ngoài ngành sư phạm. Ngoài ra, trường còn liên kết với các trường đại học để
đào tạo liên thông đại học cho khoảng 900 sinh viên.
Khi thành lập trường Đại học, trường dự kiến mở thêm 25 ngành đào tạo trình độ đại học.
+ Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo và quy mô phát
triển của nhà trường:
Trang 18
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
Từ những cơ sở vật chất cũ kỹ, thô sơ ban đầu sau khi tiếp quản, qua quá trình đầu tư,
phát tiển không ngừng, hiện nay nhà trường đã có một cơ ngơi khang trang, hiện đại :
* Cơ sở đào tạo: Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang có tổng diện tích 7,7ha; cở sở chính
tọa lạc tại số 01 Nguyễn Chánh, ngay trung tâm Thành phố Nha Trang, có diện tích 2,2 ha.
Trung tâm Công nghệ Sinh học và Môi trường đặt tại Suối Dầu, xã Suối Cát, Huyện Cam
Lâm có diện tích 5,5 ha.
* Giảng đường – Phòng học: Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang có 2 khu giảng đường
lớn có sức chứa từ 200 – 400 sinh viên và 40 phòng học. Tại các giảng đường và phòng học
đều được trang bị các thiết bị chuyên dùng dành cho các môn học có sử dụng các phương
tiện dạy học hiện đại như hệ thống âm thanh, projector
* Phòng máy tính Có diện tích 524 m2, có 04 phòng máy tính hiện đại với trên 250 máy,
đáp ứng nhu cầu thực hành về tin học cho sinh viên trong toàn trường.
*Phòng thí nghiệm thực hành, xưởng thực hành cơ khí: Các phòng thí nghiệm, thực hành
hóa học, sinh học và thí nghiệm vật lý. Với các trang thiết bị hiện đại, đáp ứng nhu cầu dạy,
học và nghiên cứu khoa học trong toàn trường.
* Thư Viện: Thư viện trường có diện tích 564 m2, có khoảng 30.000 đầu sách và hàng trăm
loại tạp chí được cập nhật thường xuyên. Phòng đọc của thư viện có khoảng 200 chỗ ngồi.
Sinh viên có thể đọc tại chỗ các loại sách, tạp chí, báo cáo khoa học. Sắp đến thư viện
trường được nâng cấp thành thư viện điện tử ngang tầm với các Trung tâm học liệu hiện đại,
đáp ứng nhu cầu của bạn đọc theo xu thế hiện nay.
* Ký túc xá : Ký túc xá của Trường bao gồm 3 tòa nhà từ 3 đến 5 tầng với 125 phòng, bố trí
khoảng 850 chỗ ở cho sinh viên thuộc diện chính sách và các sinh viên trong ngành sư
phạm.
* Nhà thi đấu đa chức năng và sân bóng đá cỏ nhân tạo: Diện tích hơn 5.787 m2 đặt tại số
05 Trần Hưng Đạo là nơi thu hút sinh viên và các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ thể
thao vui chơi giải trí ngoài giờ học
Từ hiện trạng cơ sở vật chất hiện có, Trường CĐSP Nha Trang cần có một lượng lớn ngân
sách nhà nước để đầu tư mua sắm mới trang thiết bị hiện đại, hiện đại hóa các phòng thí
nghiệm thực hành phù hợp với thực tế, trang bị mới thiết bị dạy học và hỗ trợ dạy học hiện
đại và đáp ứng nhu cầu thực tế ngày nay.
Với những định hướng phát triển lâu dài, bền vững, mang tầm chiến lược của nền giáo dục
nước nhà trong bối cảnh đất nước có nhiều chuyển biến, từng bước hòa nhập toàn cầu, cùng
với những nhu cầu phát triển của xã hội và địa phương ngày càng cao, với những chủ
trương, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước, trường Cao đẳng Sư phạm
Nha Trang dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã
không ngừng lớn mạnh.
Bằng những dự báo, định hướng đúng đắn cùng với những chủ trương, chiến lược cụ thể,
lâu dài của đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường, trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang đã
không ngừng phát triển mạnh mẽ dựa trên nền tảng vững chắc, kế thừa và phát huy những
truyền thống tốt đẹp, đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển giáo
dục của tỉnh Khánh Hòa nói riêng và khu vực nói chung. Trường thực sự đã trở thành trung
tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Khánh Hòa và khu vực, đồng thời từng bước đáp ứng được
yêu cầu phát triển nhà trường thành trường Đại học trong thời gian tới.
Trang 19
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
KẾT LUẬN
1. Kết luận
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra yêu cầu bức thiết đối với việc
nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực. Trên thực tế, những giải pháp phát triển
nguồn nhân lực của mỗi quốc gia có thể có những điểm khác nhau. Song, vấn đề cơ bản
nhất mà hầu như tất cả các nước đều dành sự quan tâm đặc biệt trong chính sách phát triển
nguồn nhân lực là phát triển giáo dục, đào tạo.
“Mục tiêu tổng quát phát triển giáo dục đến năm 2020 là nền giáo dục nước ta đổi mới căn
bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế; chất lượng giáo dục toàn diện được nâng cao; giáo dục đạo đức, kỹ năng sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành được chú trọng; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là
nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt
đời cho mỗi người dân, dần từng bước hình thành xã hội học tập ” (dự thảo Chiến lược phát
triển giáo dục 2011 – 2020 và dự thảo Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020
của Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực)
Để đáp ứng những mục tiêu trên, nền giáo dục đào tạo nước nhà trước hết phải có những dự
báo kịp thời về những yêu cầu đổi mới cũng như nhu cầu về lược lượng lao động chất lượng
cao, đáp ứng cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thông qua đó có những chủ
trương, chiến lược quy hoạch và phát triển phù hợp đối với nền giáo dục quốc dân, đặc biệt
trong việc quy hoạch, đào tạo các ngành nghề phù hợp với yêu cầu phát triển nguồn nhân
lực có trình độ, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hóa – Hiên đại hóa đất
nước
Thông qua đó, ta nhận thấy ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng hết sức to lớn của công tác dự
báo đối với hoạt động giáo dục, nhờ có nó, các nhà quản lý, hoạch định giáo dục có thể xây
dựng kế hoạch chỉ đạo, điều khiển, điều chỉnh công tác quản lý giáo dục một cách có khoa
học và có hệ thống nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Nếu dự báo chính xác sẽ góp phần xây dựng
chiến lược và kế hoạch sát với hiện thực có tính khả thi cao. Giảm thiểu những rủi ro và tiết
kiệm được nhiều công sức, của cải.
2. Khuyến nghị
2.1 Đối với Bộ GD&ĐT
- Cần tăng cường ngân sách nhà nước trong việc hỗ trợ các trường sư phạm tăng cường cơ
sở vật chất và trang thiết bị dạy học hiện đại.
- Có chính sách ưu đãi hợp lý theo từng giai đoạn cho các trường sư phạm hoặc tìm các
nguồn đầu tư từ nước ngoài về giáo dục cho các trường địa phương.
2.2 Đối với Tỉnh Khánh Hòa
- Có sự chỉ đạo, phối hợp thống nhất từ tỉnh tới các Sở GD&ĐT, Sở Tài chính để thực
hiện tốt về
chính sách ưu đãi và phân bổ nguồn ngân sách cho cơ sở. Quản lý, khai thác và
sử dụng tốt các nguồn vốn của TW, các tổ chức quốc tế đầu tư cho GD&ĐT trên địa bàn.
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền và sự tham gia của
toàn XH trong công tác xây dựng và quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị.
Trang 20
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
- Thực hiện phân cấp quản lý cho ngành GD&ĐT, giao cho ngành GD&ĐT quản lý ngân
sách GD, quản lý con người và quản lý các hoạt động chuyên môn để thống nhất chỉ đạo
chung.
2.3 Đối với Ban giám Hiệu Trường CĐSP Nha Trang
- Phải xây dựng kế hoạch cụ thể và phân bổ nguồn vốn đầu tư vào cơ sở vật chất và trang thiết
bị nhằm đáp ứng cho nhu cầu mới trong tương lai.
- Xây dựng chiến lược dài hạn về đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị trình UBND Tỉnh xem
xét và giải quyết cho kế hoạch phát triển dài lâu của Trường.
Trang 21
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011): Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu các Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb CTQG, HN.
2. Nguyễn Văn Dân (2008): Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức, Nxb KHXH, HN.
3. Phạm Văn Dũng (2010): Phát triển thị trường khoa học - công nghệ Việt Nam, Nxb
CTQG, HN.
4. Phạm Xuân Dũng (2008): Công nghệ tiên tiến và công nghệ cao với tiến trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb CTQG, HN.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
CTQG, HN.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG, HN.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
CTQG, HN.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997): Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 - Ban Chấp hành Trung
ương (khoá VIII), Nxb CTQG, HN.
9. Hỏi và đáp những vấn đề then chốt nhất của khoa học và công nghệ (1999), Nxb
Thanh niên.
10. Đặng Hữu (chủ biên) (2009): Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb KHXH, HN.
11. TS Trần Hồng Lưu (2009): Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, HN.
12. Hoàng Đình Phu (1998): Khoa học và công nghệ với các giá trị văn hoá, Nxb Khoa
học Kỹ thuật, HN.
13. Samuel Hungtington (2005): Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động, Hà
Nội.
14. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (2010): Kinh nghiệm của một số nước về phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb
CTQG, HN.
15. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai. Vấn đề và
giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
16. Ban Khoa giáo Trung ương, Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới chủ trương,
thực hiện, đánh giá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tìm hiểu Luật Giáo dục 2005, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngành Giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
(khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002
Trang 22
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
19. Đặng Bá Lãm, Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI. Chiến lược phát
triển, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003.
20. Luật Giáo dục, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
21. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009
24. Chiến lược Phát triển giáo dục 2011 – 2020 (Ban hành kèm theo Quyết định số
711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ)
25. Bài viết Báo Khánh hòa số ra ngày 23/06/2012 .
26. Bài viết Báo Khánh hòa số ra ngày 02/08/2012).
27. Sứ mệnh và tầm nhìn của trường CĐSP Nha Trang. />28. Phát triển Giáo dục - Đào tạo và Khoa học - Công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá PGS, TS. Nguyễn Duy Bắc
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
29. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục bền vững
(Hội nghị mở rộng các đối tác tham gia Ủy ban Thập kỷ giáo dục vì phát triển bền vững
của Việt Nam do Ủy ban UNESCO Việt Nam tổ chức đã diễn ra ngày 23/3 tại Hà Nội).
Theo www.ktdt.com.vn
30. Dự thảo "Chiến lược phát triển giáo dục"
- Hội thảo cầu truyền hình của Bộ GD&ĐT – năm 2009- Theo www.cand.com.vn
Trang 23
Nguyễn Hữu Thống Dự báo, quy hoạch Giáo dục
MỤC LỤC
Mở đầu Trang 1
Phần I: Cơ sở lý luận của dự báo Giáo dục Trang 3
Phần II: Vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác dự báo trong
hoạt động giáo dục Trang 7
Phần III: Công tác dự báo và hoạt động quản lý cơ sở vật chất của Trường
CĐSP Nha Trang Trang 11
Kết luận Trang 20
Tài liệu tham khảo Trang 22
Mục lục Trang 24
Trang 24