Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Những đánh giá về công tác quản lý thuế ở Việt Nam thời gian qua.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.15 KB, 19 trang )

ĐỀ CƯƠNG
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thuế trong nền kinh tế
1. Quan niệm về thuế
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế
3. Quản lý thuế.
II. Đánh giá về công tác quản lý thuế ở Việt Nam thời gian qua
1. Thực trạng quản lý thuế qua các giai đoạn:
a, Trước năm 1990:
- Giai đoạn vừa kháng chiến vừa kiến quốc (1945-1954)
- Giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước (1955-1975)
- Giai đoạn cả nước đi lên CNXH (1975-1990)
b, Sau năm 1990:
- Giai đoạn cải cách bước I, II (tổ chức bộ máy theo Nghị định 281/HĐBT ngày
7/8/1990)
- Tổ chức bộ máy theo Quyết định 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003
- Chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo Quyết định số
201/2004/QĐ-TTg.
2. Những kết quả đạt được:
- Sau 2 cuộc cải cách thuế (1986-2005)
- Sau 2 năm thực hiện Chương trình cải cách và hiện đại hệ thống thuế theo Quyết
định số 201/2004/QĐ-TTg.
3. Hạn chế về công tác quản lý thuế.
III. Giải pháp
C. KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Có ai đó đã từng nói: Trong đời có hai thứ mà bạn không thể tránh: chết và
thuế. Có những người cho rằng thuế còn tệ hơn là chết.
Vậy, “ Thuế là gì”? Thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách Nhà


nước. Ngân sách có thể huy động nguồn thu bằng nhiều cách khác nhau như đi
vay, bán tài nguyên hay tài sản quốc gia, nhận viện trợ, in tiền…nhưng không có
nguồn thu nào mang tính chất bền vững và cơ bản như thuế.
Thuế là vấn đề đại cục của mỗi quốc gia. Ngày nay, trong tiến trình hội nhập,
thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Chính vì vậy, việc quản
lý thuế đang trở thành vấn đề quan tâm ngày càng lớn của các nhà nước, dù là
nước phát triển hay đang phát triển.
Đặc biệt là nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và đang
cần một nguồn lực tài chính đủ mạnh chẳng những đảm bảo nhu cầu chi tiêu
thường xuyên của nhà nước và giành một phần lớn nguồn lực tài chính cho tích
luỹ phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh như vậy,
việc hoàn thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là rất
cần thiết.
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Những đánh giá về công tác quản lý
thuế ở Việt Nam thời gian qua” để qua đó có thể nhận thức rõ hơn về thuế và
quản lý thuế, những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, tồn tại trong
công tác quản lý thuế ở Việt Nam, em nghĩ đó là những tri thức rất cần thiết cho
những cán bộ thuế tương lai như mình.
I. Những vấn đề lý luận về thuế và quản lý thuế trong nền kinh tế:
1. Quan niệm về thuế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, phản ánh bản chất của
chế độ xã hội. Ra đời và tồn tại cùng Nhà nước, từ đó đến nay thuế đã trải qua
quá trình tồn tại và hoàn thiện lâu dài, đồng thời người ta cũng đưa ra không ít
các khái niệm về thuế trên các góc độ khác nhau:
- Các nhà kinh điển cho rằng “thuế là cái Nhà nước thu của dân nhưng không
bù lại” và “thuế cấu thành nên phần thu của chính phủ, nó được lấy ra từ sản
phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho cùng thì thuế được lấy ra từ tư
bản hay thu nhập của người chịu thuế” (Lênin toàn tập-tập 15)
- Hiện nay trong một số tài liệu, các tác giả viết: Thuế là khoản đóng góp

theo qui định của pháp luật mà Nhà nước bắt buộc mọi tổ chức và cá nhân phải
có nghĩa vụ nộp vào cho ngân sách Nhà nước.
2
Trên góc độ phân phối thu nhập: Thuế là hình thức phân phối và phân phối
lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ
tập trung lớn nhất của Nhà nước( quỹ ngân sách Nhà nước) để đáp ứng nhu cầu
chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Từ các quan niệm trên ta thấy thuế có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, Tính cưỡng chế và tính pháp lý cao.
Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mỗi quốc gia. Trong các
quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt
buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Tổ chức hoặc cá nhân
nào không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình tức là họ đã vi phạm pháp luật
cuả quốc gia đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính
chất bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên
nền tảng của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế
thế giới.
Thứ hai, Thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp:
Số tiền thuế thu được, Nhà nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng,
phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân,
người có nộp thuế cho Nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp
nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi
công cộng từ phía Nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp cho Nhà nước,
được tính toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà
dựa trên những hoạt động cụ thể và thu nhập của họ.
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế:
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân. Từ khi ra đời Nhà nước dựa vào quyền lực chính trị của

mình đã đặt ra các thứ thuế để bắt buộc các thành viên trong xã hội đóng góp một
phần sản vật và thu nhập của họ cho Nhà nước. Nhờ có khoản đóng góp đó, bộ
máy Nhà nước mới tồn tại và phát triển được. Lịch sử tồn tại và phát triển của
thuế qua các thời kỳ và ở các nước cũng đã cho thấy: Tỷ trọng thu bằng thuế
thường chiếm phần lớn trong các tổng thu nhập của ngân sách Nhà nước. Hiện
nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số
thu bằng thuế, phí chiếm tới trên 90% tổng số thu ngân sách Nhà nước.
Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu nhập theo đường lối
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, nguồn
thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua
bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng góp phần tích
cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị
điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở thành
nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh.
3
Với nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất
giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh
doanh, các nguồn thu nhập trong xã hội …
Nhà nước ta luôn coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
sách nhà nước.
Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước:
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế,
việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn
giảm, phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ,
chính xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể
hiện trên hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết
làm ăn có hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần
hạn chế sản xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí.
Thuế còn khuyến khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích
các cơ sở kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước

pháp luật. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc
tranh thủ vốn hợp tác của nước ngoài để phát triển kinh tế hàng hóa, không
ngừng nâng cao khả năng tích lũy, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo
vệ sản xuất trong nước.
Thuế thúc đẩy mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích
giao lưu hàng hóa, vừa đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu
trung gian, đầu cơ tích trữ để hưởng chênh lệch giá.
Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế:
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng
trong làm nghĩa vụ và quyền lợi.
Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách động viên
giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền, đặc lợi cho bất cứ
đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đầu
tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách chính đáng.
Để đảm bảo bình đẳng, công bằng phải có biện pháp chống thất thu thuế có
hiệu quả về số đối tượng kê khai nộp thuế, về căn cứ tính thuế, về chế độ miễn
giảm thuế, về kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm.
Nhận thức đúng đắn, tự nguyện, tự giác chấp hành các nghĩa vụ khai báo,
chế độ giữ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn, nộp thuế của các chủ thể, nộp thuế
theo đúng pháp luật cũng là yếu tố quan trọng bảo đảm bình đẳng và công bằng
về thuế.
Thuế còn là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất
kinh doanh:
4
Vai trò này xuất hịên chính do quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong
thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các luật thuế đã được ban hành, cơ
quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng,

qui mô các cơ sở sản xuất , kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt
hàng học được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát
hiện những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, các đơn vị sản
xuất, kinh doanh hoặc phát hiện những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ
tìm biện pháp tháo gỡ. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp
kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo
thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
3. Quản lý thuế:
Là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý tài chính Nhà
nước, quản lý thuế không thể tách rời quản lý Nhà nước nói chung và quản lý
Nhà nước về kinh tế nói riêng.
Công tác quản lý thuế trong nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được các mục tiêu
cơ bản sau:
- Tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho NSNN trên cơ sở không
ngừng nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
- Phát huy tốt vai trò của thuế trong nền kinh tế.
- Tăng cường ý thức chấp hành pháp luật cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Một số mô hình tổ chức quản lý thuế trên thế giới:
Mô hình tổ chức quản lý thuế là khái quát bộ máy quản lý thuế theo một
nguyên tắc cơ bản nhất, bao trùm và chi phối việc xác định số lượng các bộ phận,
chức năng, nhiệm vụ quản lý thuế của từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức.

* Mô hình tổ chức quản lý thuế theo sắc thuế:
Là mô hình lấy việc quản lý theo sắc thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo đó,
cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (gọi chung là phòng) quản lý một hoặc một
số loại thuế cụ thể (VD: phòng thuế thu nhập; phòng thuế GTGT; thuế TTĐB…).
Đặc điểm cơ bản của mô hình này là mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng để
quản lý các loại thuế mà phòng đó chịu trách nhiệm.
* Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm đối tượng nộp thuế(ĐTNT):
Là mô hình lấy quản lý theo nhóm ĐTNT là nguyên tắc bao trùm. Theo đó,

cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (phòng) quản lý theo nhóm ĐTNT. Ở một số
nước phân loại nhóm đối tượng theo qui mô. Một số nước khác phân loại nhóm
ĐTNT theo ngành nghề kinh doanh hoặc theo hình thức sở hữu. Từ đó, hình
thành các phòng quản lý thu thuế theo đối tượng (Phòng quản lý thuế các doanh
nghiệp lớn, phòng quản lý thuế các doanh nghiệp vừa, nhỏ; hoặc phòng quản lý
thuế ngành công nghiệp, phòng quản lý thuế ngành Hàng không, Điện lực… hoặc
5
phòng quản lý thuế khu vực kinh tế quốc doanh, phòng quản lý thuế khu vực kinh
tế dân doanh…)
* Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng:
Là mô hình lấy chức năng quản lý thuế làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó,
cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận thực hiện một hoặc một số chức năng nhất
định trong qui trình quản lý thuế như: Phòng tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT,
Phòng xử lý tờ khai và dữ liệu về thuế, Phòng cưỡng chế và quản lý thu nợ,
phòng Thanh tra thuế...)
* Mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những tồn tại của các mô hình quản lý
thuế trên, nhiều nước trên thế giới áp dụng mô hình quản lý thuế kết hợp các
nguyên tắc quản lý: theo chức năng, theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế, trong
đó xác định một nguyên tắc bao trùm. Thông thường có một số hình thức kết hợp
sau (trong đó nguyên tắc đầu tiên là nguyên tắc bao trùm):
- Sắc thuế - Chức năng - qui mô đối tượng:
- Chức năng – Qui mô đối tượng - Sắc thuế
- Đối tượng (qui mô, ngành nghề) - Chức năng - Sắc thuế
Trong 3 hình thức kết hợp trên, hình thức thứ 2 và thứ 3 thường được áp dụng
và có ưu điểm hơn cả.
II. Đánh giá về công tác quản lý thuế ở Việt Nam thời gian qua:
1, Thực trạng quản lý thuế qua các giai đoạn:
a, Trước 1990:
* Giai đoạn vừa kháng chiến, vừa kiến quốc (từ 1945 đến 1954):

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công (9/1945), để thực hiện việc tập
trung nguồn tài chính, phục vụ cho chi tiêu của chính quyền Cách mạng non trẻ,
Nhà nước đã ra nhiều Sắc lệnh thành lập các cơ quan thuế với tên gọi khác nhau,
làm nhiệm vụ chỉ đạo và quản lý thu theo các loại thuế, phí. Như: Sở thuế quan
và thuế gián thu làm nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo, quản lý và thu các loại thuế xuất,
nhập cảng và thuế gián thu; Nha thuế trực thu Việt Nam làm nhiệm vụ nghiên
cứu, thi hành và kiểm soát tất cả các công việc liên quan đến các thứ thuế trực
thu; Nha Trước bạ - Công sản - Điền thổ. Các cơ quan thuế này đều trực thuộc
Bộ tài chính, nhưng hoạt động độc lập với nhau.
Thời kỳ này có nhiều thay đổi trong chính sách động viên tài chính của Nhà
nước cũng như nhiệm vụ quản lý thu đối với các đối tượng khác nhau, do đó tổ
chức bộ máy thu thuế cũng thay đổi. Tháng 7/1951 Bộ Tài chính đã ban hành
Nghị định thành lập Vụ thuế Nông nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính và hệ thống tổ
chức ngành Thuế công thương nghiệp trong cả nước theo 4 cấp: Trung ương có
Sở thuế; Liên khu có Phân sở thuế; Tỉnh, thành phố có Chi sở thuế; Huyện có
phòng Thuế. Ở những nơi có hoạt động xuất nhập khẩu lớn được thành lập Chi sở
thuế xuất nhập khẩu. Như vậy, trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy được tổ chức
6
vừa theo sắc thuế (thuế nông nghiệp, thuế xuất nhập khẩu) lại vừa theo ngành
nghề hoạt động sản xuất kinh doanh công thương nghiệp mà chủ yếu lúc này là
thuế đối với rượu và thuế đối với muối.
* Giai đoạn xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất tổ quốc (từ 1955 đến 1975)
Giai đoạn này, miền Bắc tiến hành công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh và đến đầu thập kỷ 60 công việc này đã cơ bản hoàn thành, kinh tế
quốc doanh đã chiếm ưu thế, kinh tế hợp tác trong lĩnh vực công thương nghiệp
và nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Để quản lý thu thuế đối với các đối tượng
này, tháng 11/1961 Chính phủ đã ban hành Nghị định về tổ chức bộ máy của Bộ
Tài chính, trong đó có Vụ Thu quốc doanh và thuế làm nhiệm vụ quản lý thu theo
chế độ riêng đối với khu vực kinh tế quốc doanh và quản lý thu thuế công thương

nghiệp; Vụ Tài vụ hợp tác xã và thuế nông nghiệp làm nhiệm vụ quản lý thu thuế
nông nghiệp đối với khu vực tập thể, cá thể.
Như vậy, cùng với sự phát triển của các khu vực kinh tế, đặc biệt là kinh tế
quốc doanh ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong ngân cách nhà nước, tổ
chức bộ máy quản lý thuế đối với khu vực này cũng nhiều lần được kiện toàn và
phát triển. Tháng 3/1974 Cục Thu quốc doanh được thành lập thay thế Vụ thu
quốc doanh và thuế trước đây. Ở các tỉnh, thành phố có Chi cục thu quốc doanh
hoạt động theo sự chỉ đạo của ngành dọc cấp trên.
* Giai đoạn cả nước đi lên Chủ nghĩa xã hội (1975 đến 1990).
Thời kỳ này, công tác thuế của Đảng đã chuyển sang phục vụ cho nhiệm vụ
khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục các hậu quả nặng nề của chiến tranh,
chăm lo đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, đồng thời phục vụ
cho công cuộc xây dựng CNXH trong cả nước.
Hệ thống chính sách thu đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh bao gồm
chính sách: Thu thuế công thương nghiệp, thuế nông nghiệp và chế độ thu từ xí
nghiệp quốc doanh, và không ngừng được bổ sung hoàn thiện. Tổ chức bộ máy
quản lý thu thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp và thu quốc doanh ngày
càng được củng cố kiện toàn. Cán bộ thuế được đào tạo nâng cao trình độ nghiệp
vụ phẩm chất đạo đức theo yêu cầu thời kỳ mới.
Trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy quản lý thu thuế đối với khu vực tập
thể, cá thể được tập trung củng cố và kiện toàn. Tháng 4/1980 Chính phủ qui định
tổ chức ngành thuế công thương nghiệp thống nhất theo 3 cấp Trung ương, tỉnh,
huyện. Nhưng các tổ chức này tại địa phương đều trực thuộc cơ quan tài chính
địa phương. Đến tháng 7/1983, Cục Thuế công thương nghiệp đã được thành lập
và hoạt động thống nhất theo hệ thống dọc
Như vậy, trước 1990, Việt nam chưa có hệ thống thuế thống nhất áp dụng
với mọi thành phần kinh tế, vì vậy, việc tổ chức quản lý và thu 03 loại thuế và thu
áp dụng đối với các thành phần kinh tế khác nhau do 3 cơ quan thu độc lập đảm
nhiệm, đó là: Cục Thu Quốc doanh thực hiện nhiệm vụ quản lý thu quốc doanh
đối với doanh nghiệp nhà nước; Cục Thuế Công thương nghiệp thực hiện nhiệm

7

×