Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận Văn Thạc Sỹ - Vận Dụng Phương Pháp Tình Huống Trong Dạy Học Môn Gdcd 6 Ở Các Trường Trung Học Cơ Sở Thành Phố Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.5 KB, 77 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Phạm vi nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
6. Những đóng góp mới của đề tài
7. Kết cấu của đề tài
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG
TRONG DẠY HỌC MƠN GIÁO DỤC CƠNG DÂN CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu nước ngồi
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước
1.2. Lý luận chung của việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
môn GDCD cho học sinh THCS
1.2.1. Khái niệm PPTH
1.2.2. Các hình thức phương pháp tình h́ng
1.3. Sự cần thiết của việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
mơn GDCD cho học sinh THCS
1


1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh THCS
1.3.2. Đặc điểm của môn GDCD ở trường THCS
1.3.3. Vai trị của việc vận dụng phương pháp tình h́ng trong dạy học mơn


GDCD THCS
1.2.3.1. Vai trị của PPTH
1.2.3.2. Ưu điểm và nhược điểm của PPTH
1.2.3.4.2. Nội dung PPTH theo hướng đổi mới
1.2.3.4.3. Nguyên tắc PPTH theo hướng đổi mới

Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN 6 Ở CÁC TRƯỜNG THCS,
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN.

2.1. Thực trạng việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học mơn
GDCD 6 ở các trường THCS, thành phố Thái Nguyên
2.1.1. Khái quát chung về 05 trường THCS, thành phố Thái Nguyên.
- Trường Trung học cơ sở Nha Trang :
- Trường Trung học cơ sở Quang Trung :
- Trường Trung học cơ sở Lương Ngọc Quyến :
- Trung học cở sở Trưng Vương :
- Trung học cơ sở Chu Văn An :
2.1.2. Thực trạng và yêu cầu phải vận dụng phương pháp tình huống trong dạy
học môn GDCD 6 ở các trường THCS, thành phố Thái Nguyên

2


2.2. Xây dựng quy trình thực hiện việc vận dụng phương pháp tình huống
theo hướng đổi mới mơn GDCD lớp 6 ở các trường THCS, thành phố Thái
Nguyên
2.2.1. Một số nguyên tắc đảm bảo khi xây dựng quy trình
2.2.1.1. Lập kế hoạch việc vận dụng phương pháp tình huống theo hướng đổi mới

2.2.1.2. Xác định nội dung dạy học
2.2.2. Quy trình thiết kế bài giảng
2.2.3. Thực hiện bài giảng trên lớp
2.2.4. Điều kiện để thực hiện vận dụng phương pháp tình huống theo hướng
đổi mới mơn GDCD 6 ở các trường THCS, thành phố Thái Nguyên
2.3.1. Về đội ngũ giáo viên
2.3.2. Về học sinh
2.3.3. Về các cấp quản lý
2.3.4. Về cơ sở vật chất
Chương 3
THỰC NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN 6 Ở CÁC TRƯỜNG THCS, THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

3.1. Thực nghiệm sư phạm
3.1.1. Kế hoạch thực hiện
3.1.1.1 Giả thuyết thực nghiệm
3.1.1.2. Mục đích thực nghiệm
3.1.1.3. Địa điểm thực nghiệm
3.1.1.4. Thời gian tiến hành thực nghiệm
3.1.1.5. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng
3.1.1.6. Phương pháp thực nghiệm
3


3.1.2. Nội dung thực nghiệm
3.1.2.1. Những nội dung khoa học cần thực nghiệm
( Phần này em chưa hiểu rõ lắm ạ )
3.1.2.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm
3.1.3. Quy trình thực nghiệm

3.1.3.1. Thực nghiệm hoạt động dạy
3.1.3.2. Kiểm tra trưng cầu ý kiến
3.1.5. Đánh giá chung về kết quả thực nghiệm
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc vận dụng phương pháp tình
huống theo hướng đổi mới trong dạy học môn Giáo dục công dân 6 ở các
trường THCS, thành phố Thái Nguyên
3.2.1. Trong thiết kế bài giảng
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Khuyến nghị

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh tồn cầu hố đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Một trong những định hướng
cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm,
kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng
lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan
trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển
năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. Đó cũng là những
xu hướng quốc tế trong đổi mới PPDH ở nhà trường phổ thông hiện nay.
Cũng giống như các cấp học khác của nước ta, ở bậc trung học cơ sở, đổi
mới PPDH đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung
sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc HS học
được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo
được điều đó, phải thực hiện chuyển từ PPDH theo lối “truyền thụ một chiều” sang

dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học
sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội.
Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên
môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên mơn nhằm phát triển năng lực
giải quyết các vấn đề phức hợp. Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của
người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe,
ghi chép, tìm kiếm thơng tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc
lập, sáng tạo của tư duy. Có thể chọn lựa một cách linh hoạt các phương pháp
chung và phương pháp đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng

5


bất kỳ phương pháp nào cũng phải đảm bảo được ngun tắc “Học sinh tự mình
hồn thành nhiệm vụ nhận thức với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
Môn GDCD là mơn học trực tiếp giúp học sinh có hiểu biết về những chuẩn
mực đạo đức, pháp luật cơ bản và giá trị, ý nghĩa của các chuẩn mực đó; tự hào về
truyền thống gia đình, q hương, dân tộc; tôn trọng, khoan dung, quan tâm, giúp
đỡ người khác; tự giác, tích cực học tập và lao động; có thái độ đúng đắn, rõ ràng
trước các hiện tượng, sự kiện trong đời sống; có trách nhiệm với bản thân, gia đình,
nhà trường, xã hội, cơng việc và mơi trường sống. Giúp học sinh có tri thức phổ
thơng, cơ bản về đạo đức, kĩ năng sống, kinh tế, pháp luật; đánh giá được thái độ,
hành vi của bản thân và người khác; tự điều chỉnh và nhắc nhở, giúp đỡ bạn bè,
người thân điều chỉnh thái độ, hành vi theo chuẩn mực đạo đức, pháp luật; thực
hiện được các công việc để đạt mục tiêu, kế hoạch hoàn thiện, phát triển bản thân;
biết cách thiết lập, duy trì mối quan hệ hịa hợp với những người xung quanh, thích
ứng với xã hội biến đổi và giải quyết các vấn đề đơn giản trong đời sống của cá
nhân, cộng đồng phù hợp với giá trị văn hoá, chuẩn mực đạo đức, quy tắc của cộng
đồng, quy định của pháp luật và lứa tuổi. Đây là việc làm vừa mang tính cấp bách,

vừa có tính lâu dài và cũng khơng hề đơn giản trước những làn sóng văn hóa của
thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế thị trường.
Đặc biệt là khi chúng ta đang quyết tâm triển khai thực hiện có hiệu quả
việc đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực của người học, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển con người tồn diện thì hơn bao giờ hết, bộ
mơn GDCD giữ một vị trí vơ cùng quan trọng, là môn học cần thiết, không chỉ
trang bị cho người học những tri thức đạo đức mà điều quan trọng là rèn luyện cho
học sinh thói quen, kỹ năng và thực hiện hành vi quan hệ giao tiếp, ứng xử phù hợp
với chuẩn mực đạo đức chung của xã hội.
6


Đổi mới PPDH môn GDCD ở bậc trrung học cơ sở cần phải tập trung vào
vấn đề trọng tâm là làm thế nào để khơi dậy hứng thú, sự say mê học tập môn học
này cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD ở các nhà
trường, gạt bỏ quan niệm cho rằng đây là một mơn học khơ khan, trừu tượng, khó
dạy, khó học, khó ứng dụng các PPDH.
Để làm được điều này, giáo viên dạy môn GDCD bên cạnh việc không
ngừng nỗ lực nâng cao năng lực, trình độ của bản thân cịn cần phải biết vận dụng
linh hoạt các PPDH cho phù hợp với nội dung từng bài học và với từng đối tượng
nhận thức để có thể phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Với kinh
nghiệm của bản thân, tơi nhận thấy việc vận dụng phương pháp tình huống trong
dạy học môn GDCD lớp 6 là rất phù hợp và cần thiết.
Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu
đổi mới toàn diện trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, nâng cao chất
lượng dạy và học mơn GDCD nói riêng, tơi đã chọn đề tài “ Vận dụng phương
pháp tình huống trong dạy học mơn GDCD 6 ở các trường trung học cơ sở
thành phố Thái Nguyên “ làm luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ việc nghiên cứu lí luận và thực trạng việc vận dụng phương pháp tình
huống trong dạy học môn GDCD lớp 6 ở các trường THCS, thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, đề tài đề xuất xây dựng quy trình thực hiện vận dụng
phương pháp tình huống trong dạy học môn GDCD 6 nhằm định hướng phát triển
năng lực, phẩm chất; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD các trường THCS, thành phố
Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lí luận của việc vận dụng phương pháp tình
huống trong dạy học môn GDCD 6.
7


- Khảo sát và phân tích thực trạng vận dụng phương pháp tình huống trong
dạy học mơn GDCD 6 ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên. Đề xuất xây
dựng quy trình thực hiện vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn
GDCD 6 nhằm định hướng phát triển năng lực, phẩm chất; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Thực nghiệm sư phạm việc thực hiện vận dụng phương pháp tình huống
trong dạy học môn GDCD 6 ở các trường THCS, thành phố Thái Nguyên.
- Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao tính hiệu quả của việc vận dụng phương
pháp tình huống trong dạy học môn GDCD 6 ở các trường THCS thành phố Thái
Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất quy trình
vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học mơn GDCD 6 ở các trường
THCS thành phố Thái Nguyên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
mơn GDCD lớp 6 ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên năm học 2020 2021.
- Đề tài tiến hành khảo sát và thực nghiệm sư phạm tại 06 lớp 6 thuộc 03
trường THCS, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu quy trình vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn GDCD
6 mà đề tài đề xuất được thực nghiệm thành cơng sẽ góp phần quan trọng vào việc
nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD 6 ở các trường THCS, thành phố Thái
Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
8


Trên cơ sở xác định mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu lý luận: Đề tài tập trung nghiên cứu các
văn bản, văn kiện của Đảng, Nhà nước; các chỉ thị và thông tư của Bộ giáo dục và
Đào tạo; nghiên cứu lí luận dạy học, tâm lí học, cơ sở lí luận về đổi mới PPDH;
nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp tình huống, nghiên cứu chương trình, nội
dung sách giáo khoa, sách giáo viên và các tài liệu tham khảo của mơn GDCD 6 ở
THCS.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp.
+ Phương pháp diễn dịch và quy nạp.
+ Phương pháp phân loại, hệ thống hoá.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra xã hội học;
Phương pháp quan sát; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp thực nghiệm sư
phạm; phương pháp thống kê toán học; Phương pháp thực nghiệm khoa học.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài hồn thành góp phần làm sáng tỏ thực trạng vận dụng PPTH trong

dạy học môn GDCD ở các trường THCS, TP Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là nguồn tài liệu bổ sung cho việc nghiên
cứu và sử dụng hiệu quả của việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
GDCD nói riêng và dạy học ở trường THCS nói chung.
- Các bài học được thiết kế theo sự vận dụng phương pháp tình huống trong
dạy học môn GDCD ở lớp 6 sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên GDCD ở
cấp trung học cơ sở, các sinh viên sư phạm ngành GDCD, GDCT; học viên cao
học chuyên ngành Lí luận và phương pháp dạy học GDCD, LLCT.
7. Kết cấu của đề tài

9


Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục thì nội dung đề tài gồm có ba chương.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG
TRONG DẠY HỌC MƠN GIÁO DỤC CƠNG DÂN CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu nước ngồi
Trên Thế Giới, tình huống vốn đã được xử dụng từ lâu trong lịch sử giáo dục và
thậm chí nó cịn được sử dụng từ thời cổ đại.
Trong dạy học tình huống, tình huống được định nghĩa: “ Tình huống là một câu
chuyện thuật lại một cách chi tiết, khách quan và tỉ mỉ các sự kiện hay vấn đề để
người học trải nghiệm sự phức tạp, sự mơ hồ, và sự không chắc chắn mà những

người tham gia gặp phải khi lần đầu đối mặt với tình huống đó “ (Vicki L. GoLich)
[1].
Ở phương Đơng, ta có thể biết đến việc vận dụng phương pháp xử lý tình huống đã
có từ rất lâu, từ thời Đức Khổng Tử (551-487 TCN), sau này đến thời Tam Quốc
phân tranh ta thấy sự tài ba trong xử lý tình huống của quân sư Gia Cát
Lượng(181-234) nhà Thục Hán ; Đây được xem như hai nhân vật lịch sử điển hình
của Trung Hoa trong việc giải quyết tình huống, những tư tưởng của hai ơng còn
lưu truyền mãi sau này cho thế hệ hậu thế học tập.Đất nước mặt trời mọc Nhật Bản
cũng thực hiện phương pháp tình huống trong nhiều lĩnh vực đặc biệt như du lịch,
quản lý, kinh tế.Bí quyết thành cơng trong xử lý tình huống của người Nhật Bản
bao gồm bốn bước : Tình huống - Phân tích – Tổng hợp – Hành động.
Ở Việt Nam, việc xử lý tình huống đã kết tinh như là một nghệ thuật trong quá
trình dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc ta.Trần Hưng Đạo “ gác thù
riêng mà lo việc nước “ hẳn trong những câu chuyện lịch sử mà người dân Việt
Nam cịn nhớ, Trần Hưng Đạo đã khơng thực hiện lời trăn trối của cha để tránh gây
11


nạn cho dân lành, trập trung nội lực của đất nước để chống lại giặc phương Bắc,
một cách giải quyết tình huống rất phù hợp của cha ơng trong lịch sử.
Ở phương Tây, Mĩ là nước sớm nghiên cứu và áp dụng tình huống trong giáo dục –
đào tạo. Năm 1870, giáo sư Christopher Columbus Langdell đã khởi xướng
phương pháp dạy học tình huống cho khoa Luật của trường Đại học Kinh doanh
Havard và đã được chấp nhận một vài năm sau đó.
Tại nước Pháp, phương pháp dạy học tình huống đã được vận dụng khá rộng rãi
trong dạy học ngay đầu thế kỷ XX, tuy nhiên tình huống bấy giờ phần nhiều là giả
định nên ít có sức thuyết phục. Dạy học tình huống cũng rất được chú trọng bởi các
nhà khoa học Liên Xô (cũ) và Ba Lan thời kỳ bấy giờ, tài liệu lý luận của họ đã
được dịch và phổ biến ở Việt Nam từ những năm 60 của thế kỳ XX .[2].
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu trong nước

Trong cuộc sống hàng ngày, phép ứng xử của người dân vốn đã được quan tâm nay
càng được nghiên cứu nhiều hơn. Những câu chuyện cổ tích, chuyện dân gian hay
những câu ca dao tục ngữ răn dạy con người ta cách “ đối nhân xử thế “ vô cùng
phong phú với nhiều lứa tuổi. Ngay cả trong các chương trình truyền hình chúng ta
cũng thấy có các cuộc thi ứng xử như : Đường lên đỉnh Olympia, Ai đúng ai sai..
hay đặc biệt là các cuộc thi Hoa hậu phần thi “ ứng xử “ luôn được đông đảo khán
giả quan tâm.
Lịch sử nền giáo dục nước ta cũng đã đề cập đến phương pháp dạy học tình huống
từ rất sớm.Những tác giả như Phan Trọng, Trịnh Văn Biều... đã đề cập đến vấn đề
này, hầu hết các tác giả đều cho rằng việc giáo viên có thể xây dựng được những
tình huống sư phạm có giá trị trong dạy học là việc không hề đơn giản, đó là cả
một q trình làm việc liên tục, địi hỏi người giáo viên phải có chun mơn thật sự
vững vàng và phải có thực tiến sinh động mới đáp ứng được yêu cầu của phương
pháp này.

12


Một số tác giả đã nghiên cứu phương pháp dạy học này và đã cho xuất bản thành
sách như :
- Đinh Tuấn Dũng (2002), ” Đổi mới phương pháp dạy học theo tình huống” [3]
- Phan Trọng Ngọ (2005), “ Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường”
[4]
Theo Trịnh Văn Biều “Dạy học tình huống là một phương pháp dạy học được tổ
chức theo những tình huống có thực của cuộc sống, trong đó người học được kiến
tạo tri thức qua việc giải quyết các vấn đề có tính xã hội của việc học tập” [5].
Như vậy, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho rằng phương pháp dạy
học tình huống là một phương pháp rất tích cực trong dạy học, nó góp phần khơng
nhỏ và từng bài giảng của mỗi giáo viên, trong một mục tiêu chung của giáo dục
và cũng là khâu đột phá trong yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay.

1.2. Lý luận chung của việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
mơn GDCD cho học sinh THCS
1.2.1. Khái niệm PPTH
* Phương pháp và phương pháp dạy học
Trong cuộc sống, để làm tốt bất kỳ một công việc nào đó của mình thì mỗi người
đều phải có một cách thức nhất định. Cách thức đó chính là phương pháp làm
việc, xuất phát từ tiếng Hy Lạp thì “Methodos” với hàm ý là con đường, công cụ
để nhận thức thế giới.
Trong từ điển tiếng Việt tơi tìm hiểu được, tác giả Hoàng Phê quan niệm phương
pháp “ là cách thức để làm một việc gì sau khi nghiên cứu kỹ: làm việc có phương
pháp “ [6].
Qua tìm hiểu và tổng hợp những quan điểm từ trước tới nay của những người đi
trước, cá nhân tôi ủng hộ và cho rằng : “ Phương pháp là cách thức, đường lối
được đưa ra nhằm giải quyết một vấn đề nào đó “.

13


Cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về dạy học nhưng tóm lược chung lại thì
dạy học được coi là một q trình sư phạm mà ở đó người dạy giữ vai trị truyền
đạt những kiến thức, đơng thời là người phát triển năng lực, phẩm chất, thái độ cho
người học.
“ Phương pháp dạy học là cách thức tương tác giữa thầy và trò nhằm giải quyết
các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển trong quá trình dạy học “ [7]
“ Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của GV và HS
trong những môi trường dạy học được tổ chức, nhằm lĩnh hội tri thức, kỹ năng,
thái độ, phát triển nằng lực và phẩm chất “ [8]
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố như : mục đích và nhiệm vụ dạy học,
phương pháp và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động
học, kết quả dạy học,.. Quá trình này diễn ra và tác động qua lại với môi trường

kinh tế - xã hội, môi trường khoa học – cơng nghệ,...
Tóm lại, phương pháp dạy học là một khái niệm được hiểu ở nhiều cấp độ rộng,
hẹp khác nhau. Tuy nhiên, những định nghĩa, quan niệm đã có đều thống nhất ở
điểm chung, đó là : nói đến phương pháp dạy học là ta đang nói đến cách thứ tổ
chức dạy và học của GV và HS nhằm tối ưu mục tiêu và nhiệm vụ dạy học.Trong
đề tài này, tôi đề cập đến khái niệm phương pháp dạy học với nghĩa là phương
pháp dạy học cụ thể. Theo đó, phương pháp dạy học là cách thức thực hiện hành
động của giáo viên tác động đến học sinh để đạt được mục tiêu đề ra. Theo cách
tiếp cận này, ta có thể kể đến các phương pháp dạy học cụ thể như : thảo luận
nhóm, nêu vấn đề, tình huống, đóng vai, dự án,...
* Phương pháp tình huống
Theo quan điểm triết học, tình huống được nghiên cứu như là một tổ hợp các mối
quan hệ xã hội cụ thể, mà đến một thời điểm nhất định liên kết con người với môi
trường, biến con người thành một chủ thể của một hoạt động có đối tượng nhằm
đạt được một mục tiêu nhất định.
14


Theo Boehrer, J (1995) “ Tình huống là một câu chuyện, có cốt chuyện và nhân
vật, liên hệ đến một hồn cảnh cụ thể, từ góc độ cá nhân hay nhóm, và thường là
hành động chưa hồn chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ thể và chi tiết, chuyển nét
sống động và phức tạp của đời thực và lớp học “ .
Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài tốn
nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới.Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng
một nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần người học tìm cách tháo gỡ.
Cịn có nhiều những quan điểm khác nhau về tình huống, từ đây tác giả quan
niệm việc vận dụng phương pháp tình huống vào dạy học môn GDCD là người
giáo viên lấy những câu chuyện, tình huống ở ngồi xã hội ( có thật hoặc hư cấu
cho phù hợp ) vào phục vụ cho bài học nhằm tạo ra hứng thú tìm tịi, giải quyết

tình huống đó, nhằm phát huy những ý kiến sáng tạo của học sinh, những quan
điểm cá nhân của từng học sinh đó bằng chính những kinh nghiệm, tri thức có
được. Từ đó những kỹ năng, tri thức, tình cảm mà học sinh có được là của chính
bản thân họ, do họ nhận thức được, không bị áp đặt bởi giáo viên.
1.2.2. Các hình thức phương pháp tình h́ng
Dạy học bằng tình huống cũng giống như những phương pháp dạy học khác, đều
có thể sử dụng một số hình thức dạy học cơ bản như sau :
( Phần này em chưa rõ lắm ạ )
1.3. Sự cần thiết của việc vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
mơn GDCD cho học sinh THCS
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh THCS
Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 – 15 tuổi, các em được vào
học tại các trường THCS ( từ lớp 6 đến lớp 9 ). Lưa tuổi này có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, bởi nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi
15


thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như :
“ Thời kỳ quá độ “ , “ tuổi khó bảo “ , “ tuổi bất trị “ ...
Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt cả về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách
dần khỏi thời thơ ấu để tiến đến thời kỳ phát triển cao hơn ( người trưởng thành )
tạo nên những nội dung cơ bản của và sự khác biệt trong mọi mặt như : thể chất,
tinh thần, trí tuệ, đạo đức, tình cảm,...
Học sinh THCS bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm
chất nhân cách của mình, các em có biểu hiện nhu cầu tự đánh giá, nhu cầu so
sánh mình với người khác. Các em bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình một
nhân cách tương lai, muốn hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình.
Tình cảm của các em học sinh THCS sâu sắc và phức tạp. Điểm nổi bật của lứa
tuổi này là dễ kích động, vui buồn chuyển hóa dễ dàng, tình cảm cịn mang tính
bồng bột. Đặc điểm này là do ảnh hưởng của sự phát dục và sự thay đổi một số cơ

quan nội tạng gây nên. Tính dễ kích động dẫn đến các em xúc động rất mạnh mẽ
như vui quá trớn, buồn ủ rũ, lúc thì hăng say, lúc thì chán nản. Nhiều em thay đổi
rất dễ dàng, có khi đang vui chỉ vì một cái gì đó mà sinh ra buồn chán ngay, hoặc
đang buồn bực nhưng vì điều gì đó mà trở nên vui ngay.
Tóm lại, có thể nói tâm sinh lý của lứa tuổi THCS mang tính bồng bột, sơi nổi, dễ
bị kích động, dễ thay đổi và đơi khi cịn mâu thuẫn. Do vốn kinh nghiệm và kiến
thức trong cuộc sống của các em ngày càng phong phú, do thực tế hoạt động tiếp
xúc trong tập thể, trong xã hội mà tính bộc phát trong tình cảm của các em dần bị
mất đi, nhường chỗ cho tình cảm có ý thức phát triển.
1.3.2. Đặc điểm của mơn GDCD ở trường THCS
Trong chương trình giáo dục phổ thơng mới, các nội dung GDCD được phân thành
các môn : Đạo đức ở cấp tiểu học, Giáo dục công dân ở cấp THCS, Giáo dục kinh
tế và pháp luật ở cấp THPT.
Mục tiêu của GDCD ở trường THCS theo chương trình mới là :
16


- Giúp học sinh có hiểu biết về những chuẩn mực đạo đức, pháp luật cơ bản và giá
trị, ý nghĩa của các chuẩn mực đó; tự hào về truyền thống gia đình, q hương, dân
tộc; tơn trọng, khoan dung, quan tâm, giúp đỡ người khác; tự giác, tích cực học tập
và lao động; có thái độ đúng đắn, rõ ràng trước các hiện tượng, sự kiện trong đời
sống; có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, cơng việc và mơi
trường sống.
- Giúp học sinh có tri thức phổ thông, cơ bản về đạo đức, kĩ năng sống, kinh tế,
pháp luật; đánh giá được thái độ, hành vi của bản thân và người khác; tự điều
chỉnh và nhắc nhở, giúp đỡ bạn bè, người thân điều chỉnh thái độ, hành vi theo
chuẩn mực đạo đức, pháp luật; thực hiện được các công việc để đạt mục tiêu, kế
hoạch hoàn thiện, phát triển bản thân; biết cách thiết lập, duy trì mối quan hệ hồ
hợp với những người xung quanh, thích ứng với xã hội biến đổi và giải quyết các
vấn đề đơn giản trong đời sống của cá nhân, cộng đồng phù hợp với giá trị văn

hoá, chuẩn mực đạo đức, quy tắc của cộng đồng, quy định của pháp luật và lứa
tuổi.
1.3.3. Vai trò của việc vận dụng phương pháp tình h́ng trong dạy học mơn
GDCD THCS
1.2.3.1. Vai trị của PPTH
Trong tổng thể giáo dục nói chung và mơn GDCD nói riêng thì phương pháp tình
huống trong dạy học là vơ cùng quan trọng và thiết thực, từ những vấn đề nêu ra
trong tình huống giúp cho người học khám phá và hình thành cho bản thân những
giá trị, nhận thức, kỹ năng và cách ứng xử. Phương pháp tình huống cịn góp phần
giúp cho nghiệp vụ sư phạm của người giáo viên được nâng cao và phong phú hơn,
giúp cho người giáo viên dễ dàng tiếp cận với giáo án mới và làm cho bài giảng
của mình thêm màu sắc và thực sự hiệu quả cho học sinh. Với phương pháp dạy
học truyền thống thì người học dễ rơi vào tình trạng chờ trực sẵn những câu trả
lười từ sách hay từ giáo viên, thụ động tiếp nhận, lười tư duy ; Khác hẳn với
17


phương pháp truyền thống thì phương pháp dạy học tình huống tạo ra một mơi
trường học tích cực hơn, mối liên kết giữa giáo viên và học sinh được chặt chẽ hơn
trong đó người học được đặt mình vào hồn cảnh buộc học phải đưa ra quyết định
để giải quyết tình huống và phải dùng hết khả năng tư duy của mình, kiến thức v ốn
có của mình để lập luận và bảo vệ quyết định đó. Học sinh sẽ không bị phụ thuộc
vào ý kiến và quyết định của giáo viên, bên cạnh đó các em học sinh có thể chia sẻ
kiến thức và kinh nghiệm cho nhau để làm phong phú hơn kiến thức của mình.
1.2.3.2. Ưu điểm và nhược điểm của PPTH
* Ưu điểm : Mỗi phương pháp dạy học mà người giáo viên áp dụng đều có những
ưu điểm riêng biệt của nó. Việc nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống tác
giả nhận thấy có những ưu điểm cơ bản sau đây
Ở bất cứ môn học nào thì việc vận dụng những ví dụ, những tình huống thực tế
ln làm cho bài giảng phong phú hơn, giúp cho người học cảm thấy hứng thú hơn

đồng thời dễ hiểu và dễ ghi nhớ những kiến thức. Thơng qua các tình huống trong
mơn GDCD các em học sinh có thể tự rút ra cho bản thân mình những kinh nghiệm
mới, những tri thức mới và ghi nhớ chúng trong một thời gian dài. Nhất là đối với
các em thuộc cấp học THCS sau khi mới “ bước ra “ khỏi môn đạo đức của bậc
tiểu học và làm quen với môn Giáo dục công dân ở cấp học cao hơn thì việc cịn bỡ
ngỡ với những kiến thức mới là điều dễ nhận thấy, chính vì vậy có những tình
huống minh họa cho những đơn vị kiến thức mới này sẽ làm cho tính hứng thú học
tập của các em được nâng lên, với lứa tuổi mới lớn THCS đa phần chúng ta nhận
thấy các em rất hứng thú với những điều thực tế trong cuộc sống bởi chúng đang
bước vào lứa tuổi rất “ tò mò “. Việc đưa ra những tình huống buộc học sinh phải
tìm hướng giải quyết sẽ giúp cho ấn tượng của các em về giáo viên sâu sắc hơn,
nếu thay vì chỉ học lý thuyết sẽ dễ rơi vào tình trạng “ học vẹt “ nhưng lồng ghép
vào đó những tình huống thì học sinh sẽ tiếp cận vấn đề một cách chủ động và cảm
thấy kích thích học tập hơn.
18


Dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh tìm được sự liên kết, vận dụng các
kiến thức đã học được. Để giải quyết các tình huống mà giáo viên đưa ra, học sinh
có thể vận dụng kiến thức khơng chỉ của bài học ngày hơm đó mà cịn vận dụng
được rất nhiều kiến thức của những tiết học trước hay thậm chí là cả những kiến
thức của mơn học khác, quan trọng là các em học sinh phải vận dụng được linh
hoạt những kiến thức đó. Ví dụ : Giáo viên cho học sinh một tình huống như sau :
“ Cô hiệu trưởng phát động phong trào mùa xuân là Tết trồng cây, và yêu cầu mỗi
tập thể lớp phải có ít nhất một ý tưởng để hướng ứng phong trào “ ; Từ tình huống
trên sẽ buộc các em học sinh phải vận dụng những kiến thức đã được học của mơn
GDCD và cịn của các mơn học khác nữa, như vận dụng kiến thức về siêng năng,
kiên trì, u thiên nhiên, hịa hợp với thiên nhiên, sống chan hòa với mọi người, ...
Hơn nữa với việc vận dụng tình huống cịn giúp cho học sinh rèn luyện được kỹ
năng làm việc nhóm, biết huy động kiến thức của nhiều người cùng giải quyết một

vấn đề. Ngoài ra từ những tiết học sử dụng phương pháp tình huống các em học
sinh còn được rèn luyện kỹ năng tranh luận và kỹ năng trình bày, bởi những tình
huống mà người giáo viên đưa ra sẽ yêu cầu cả lớp phải cùng tìm hướng giải quyết,
mỗi học sinh là một cách tiếp cận tình huống khác nhau cho nên sẽ kích thích được
tính tranh luận cho chủ đề đó, để bảo vệ cho ý kiến của bản thân mình thì mỗi em
học sinh phải biết tranh luận đúng và phải biết trình bày ý kiến của mình cho người
nghe dễ hiểu và thuyết phục được giáo viên, từ đó nâng cao được kỹ năng tranh
luận và trình bày của học sinh.
Sau khi thảo luận tình huống của giáo viên xong, các em học sinh vẫn có nhu cầu
tìm hiểu thêm những tri thức mới, những vấn đề mà chưa ai khám phá ra được, bấy
giờ giáo viên như là “ điều phối viên “ trong lớp học để có thể điều phối được tình
huống, vừa có thể hướng dẫn các em phương thức tiếp cận kiến thức “ mở “ một
cách chủ động của từng cá nhân. Hơn nữa giáo viên hồn tồn có thể học hỏi thêm
được những kinh nghiệm từ thực tế để làm cho phong phú thêm bài giảng của
19


mình. Nếu mục tiêu của giáo dục hiện nay là dạy kiến thức, kỹ năng và thài độ thì
ta hồn tồn có thể khẳng định rằng phương pháp dạy học tình huống đang đáp
ứng được cả ba mục tiêu này.
* Nhược điểm : Khơng có một phương pháp dạy học nào là tối ưu nhất, là có thể
đáp ứng được mọi yêu cầu của bài giảng. Mà mỗi phương pháp lại có một vài hạn
chế, nhược điểm cần mỗi giáo viên phải quan tâm và khắc phục. Phương pháp dạy
học tình huống là một phương pháp rất thú vị, tuy nhiên để thực hiện tốt phương
pháp này đòi hỏi người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản để khi ra
một tình huống nào là phải “ chắc “ tình huống đó, tránh sự lan man khơng phù
hợp với bài học, hay tình trạng giáo viên đưa ra tình huống nhưng học sinh khơng
mấy thích thú, khơng phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Phương pháp
tình huống cần người giáo viên phải thường xuyên cập nhật tin tức, tình hình
chung của xã hội nhất là đối với môn GDCD, xã hội chuyển đổi số dẫn tới thông

tin thay đổi từng ngày từng giờ, chính vì vậy u cầu khắt khe cho người làm nghề
giáo là phải cập nhật được thường xuyên và phải chính xác những thơng tin cần
thiết để phục vụ cho bài học.
Khi người giáo viên sử dụng phương pháp tình huống cho bài giảng của mình, yêu
cầu đối với học sinh là phải nắm chắc được kiến thức, phải chuẩn bị kĩ lưỡng thì
hiệu quả học tập mới thực sự cao. Bởi nếu học sinh không thực sự đáp ứng được
lượng kiến thức cần có và sự chuẩn bị thì khó có thể giải quyết được tình huống
của giáo viên, điều này dễ dẫn đến sự nhàm chán cho cả người dạy và người học.
Ngồi ra, phương pháp tình huống cịn khó ở chỗ người giáo viên phải có đủ tri
thức và sự nhạy bén để giải quyết vấn đề phát sinh, có thể nói đó là “ tình huống
của tình huống “ , tức là trong tình huống mà giáo viên đã chuẩn bị sắn, sau khi
học sinh giải quyết được tình huống đó rồi thì có thể các em sẽ phát hiện ra thêm
những tình huống khác từ tình huống ban đầu đã cho, hàm chứa trong đó nhiều vấn
đề mới và tri thức mới, lúc này người giáo viên phải thực sự vững về chuyên môn
20



×