Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giao tiếp, hiệu quả kép trong dạy học ngữ văn theo hướng tiếp cận năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.2 KB, 7 trang )

Khoa Xã hội - Trƣờng
CĐSP Nha Trang
Điện thoại: 0982053058
Email:


GIAO TIẾP, HIỆU
QUẢ KÉP TRONG
DẠY HỌC NGỮ
VĂN
THEO
HƢỚNG TIẾP CẬN
NĂNG LỰC

TS. TRẦN VIẾT THIỆN

TĨM TẮT
Chƣơng trình và sách giáo khoa mới xây dựng theo hƣớng tiếp cận năng lực.
Năng lực giao tiếp trở thành một trong những năng lực công cụ quan trọng. Bài viết đề
cập đến vấn đề giao tiếp trong dạy học Ngữ văn với tƣ cách một quan điểm dạy học đáp
ứng cùng lúc hai hiệu quả quan trọng trong chủ trƣơng đổi mới giáo dục phổ thơng: tích
cực hố hoạt động của học sinh và tiếp cận năng lực giao tiếp.
Từ khoá: giao tiếp, dạy học ngữ văn, tiếp cận năng lực
ABSTRACT
Communication and the double effect produced by linguistic and literary
teaching in the tendency of competence-based approach
The innovated curriculum and textbooks are designed in students‟ competencebased approach. Communicative capability is now viewed as one of important
serviceable skills. This article involves issues of communication in linguistic and
literary teaching as a teaching position responding to two effects produced
simultaneously in the innovative orientation of secondary education: motivating
students' positive activities and developing their communicative capabilities.


Key words: communication, teaching, competence-based approach

1. Dẫn nhập
706


Vấn đề dạy học theo quan điểm giao tiếp đối với các môn ngoại ngữ và dạy học phần
ngữ trong môn Ngữ văn đã đƣợc nhiều ngƣời đề cập, thậm chí có trƣờng cịn dành riêng
một học phần để dạy về vấn đề này  học phần Dạy học Tiếng Việt ở THPT theo hƣớng
giao tiếp. Bài viết đề cập đến một vấn đề rộng hơn quan điểm giao tiếp trong việc dạy
ngơn ngữ nói chung, tiếng Việt nói riêng. Giao tiếp vừa là phƣơng tiện, cách thức tổ
chức, đồng thời nhƣ một hiệu quả tất yếu: giao tiếp trở thành kết quả, trở thành tiêu chí
chuẩn đầu ra trong việc dạy học Ngữ văn. Trong bối cảnh đổi mới căn bản và tồn diện
giáo dục phổ thơng sau năm 2015, các nhà phát triển chƣơng trình đặt vấn đề xây dựng
chƣơng trình theo hƣớng tiếp cận năng lực, dạy học theo quan điểm giao tiếp để mang
lại kết quả kép có thể là một trong những cách đón đầu để triển khai thành công chủ
trƣơng đổi mới giáo dục phổ thông đối với môn Ngữ văn (ở cấp THCS và THPT).
2. Nội dung
2.1. Giới thuyết khái niệm dạy học Ngữ văn theo quan điểm giao tiếp
- Khái niệm giao tiếp: Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con ngƣời và
con ngƣời nhằm mục đích trao đổi tƣ tƣởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách bản thân. Giao tiếp là phƣơng thức tồn tại của
con ngƣời, là phƣơng tiện cơ bản để hình thành nhân cách trẻ.
- Quan niệm phổ biến hiện nay: Các nhà nghiên cứu về dạy Ngữ văn theo
quan điểm giao tiếp (chủ yếu là dạy phân môn Tiếng Việt) đã tiếp cận quan điểm giao
tiếp chủ yếu về mặt phƣơng tiện (phƣơng pháp dạy của giáo viên); một số ít tác giả đã
phân tích hiệu quả của quan điểm giao tiếp trong việc hình thành năng lực giao tiếp của
học sinh.
Trong sách “Những thủ thuật trong dạy học – các chiến lƣợc nghiên cứu và lý
thuyết về dạy học dành cho các giảng viên đại học và cao đẳng”, Wilbrt J. Mckeachie

đã dựa trên quan điểm thực tiễn phƣơng pháp dạy học hiện nay mà cho rằng: “Theo
chƣơng trình dạy tiếng Pháp phải dựa trên thực hành ngơn ngữ trong và ngồi lớp học
tiếng Pháp, học sinh phải ln ln đƣợc đặt vào tình huống giao tiếp”. Tác giả giải
thích rõ: “Cơ bản là phải đặt học sinh trong một tình huống giao tiếp làm sản sinh hoặc
thơng hiểu lời nói”. Lê A cũng đề cao phƣơng pháp giao tiếp trong dạy học Tiếng Việt
nói chung và các loại bài cụ thể của phân mơn Tiếng Việt nói riêng: “Phƣơng pháp giao
tiếp là phƣơng pháp quan trọng trong dạy học Tiếng Việt. Phƣơng pháp giao tiếp là
phƣơng pháp hƣớng dẫn học sinh vận dụng lý thuyết đƣợc học vào thực hiện các nhiệm
vụ của q trình giao tiếp, có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia vào hoạt
động giao tiếp… Phƣơng pháp này có thể đƣợc áp dụng khi dạy học từ ngữ, câu, phong
cách và đặc biệt là trong các bài học thuộc phân môn Tiếng Việt” [1].

707


- Quan niệm của tác giả bài viết: Bài viết trình bày vấn đề dạy học Ngữ văn
theo quan điểm giao tiếp chứ không phải chỉ là chuyện dạy ngoại ngữ hay Tiếng Việt
(sau đây gọi tắt là dạy ngôn ngữ). Lâu nay, các nhà nghiên cứu chủ yếu nói đến quan
điểm giao tiếp trong dạy học ở góc độ mà Wilbrt J.Mckeachie đã trình bày  ln ln
đặt học sinh vào tình huống giao tiếp. Chúng tơi coi dạy học Ngữ văn phải đƣợc tổ chức
bằng cơ chế của một hoạt động giao tiếp thực sự: có thể là một cuộc giao tiếp khoa học
khi ngƣời dạy và ngƣời học trao đổi về những kiến thức khoa học; có thể là giao tiếp
đạo đức, nhân cách khi hai chủ thể này trao đổi về chức năng giáo dục của bài học…
Nhƣ vậy, đều đặt vấn đề dạy học theo quan điểm giao tiếp nhƣng ở đây nội hàm
khái niệm đã có sự rộng hẹp khác nhau. Các nhà giáo học pháp ngoại ngữ nói chung và
Tiếng Việt nói riêng coi giao tiếp trong dạy học là một tình huống giả định. Do vậy mà
Lê A nhấn mạnh: "Tri thức về Tiếng Việt chỉ hoàn chỉnh và chắc chắn khi các em đã
thực sự vận dụng vào hoạt động giao tiếp, vì "giao tiếp là chức năng trọng yếu của
ngơn ngữ”" [3]. Trong khi đó, chúng tơi quan niệm dạy học là một cuộc giao tiếp, dạy
học đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức giao tiếp. Trong dạy ngôn ngữ, giao tiếp trở

thành một phƣơng pháp trong hệ thống các phƣơng pháp dạy học. Hoạt động giao tiếp
với chúng tôi lại đƣợc nhìn dƣới góc độ quan điểm dạy học; do vậy mà nó sẽ đƣợc thực
hiện bằng hệ thống các phƣơng pháp, hình thức dạy học tƣơng ứng. Với tính chất một
phƣơng pháp dạy học, dù là phƣơng pháp dạy học đặc trƣng, hoạt động giao tiếp (giả
định) chỉ đƣợc thực hiện trong tiến trình lên lớp; trong khi đó, quan điểm giao tiếp mà
chúng tôi đƣa ra phải đƣợc thực hiện thống nhất và xuyên suốt trong quá trình dạy học
môn học.
Với tƣ cách quan điểm dạy học, giao tiếp trong dạy học Ngữ văn cũng phải xác định
đầy đủ các thành tố của quá trình giao tiếp. Ở đó có chủ thể giao tiếp, đối tƣợng giao
tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp… Chủ thể giao tiếp và đối tƣợng giao tiếp
liên tục luân phiên đổi vai cho nhau giữa giáo viên và học sinh; nội dung giao tiếp là tất
cả những gì thuộc về bài học của một giờ lên lớp; mục đích giao tiếp là chuẩn kiến thức,
năng lực cần đạt của bài học đó. Khi các cuộc giao tiếp nhƣ thế đƣợc thực hiện cũng có
nghĩa là học sinh đã đƣợc hình thành năng lực giao tiếp bên cạnh năng lực ngôn ngữ,
năng lực cảm thụ…
Tóm lại, giao tiếp đƣợc hiểu là một quan điểm, một hƣớng dạy học chứ không
chỉ đơn thuần là một phƣơng pháp. Quan điểm giao tiếp có thể thực hiện cho tất cả các
bộ môn nhƣng ở môn Ngữ văn nó đạt đƣợc hiệu quả song trùng: giao tiếp là cách thức
để tích cực hố hoạt động của ngƣời học; đồng thời, khơng gì hiệu quả bằng việc thông
qua hoạt động giao tiếp để rèn luyện năng lực giao tiếp.
2.2. Cơ sở của việc triển khai quan điểm giao tiếp trong dạy học Ngữ văn
- Về cơ sở pháp lý
708


+ Đề án đổi mới khẳng định phƣơng pháp giáo dục: Lấy hoạt động học của học
sinh làm trung tâm. Giáo viên tổ chức, hƣớng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích học sinh nhằm
tạo cơ hội cho học sinh đƣợc học theo cách tự mình tìm tịi, khám phá các kiến thức và
các kỹ năng mới  “Học tập trải nghiệm sáng tạo”. Việc đổi mới phƣơng pháp dạy học
phải đƣợc thực hiện đồng bộ giữa hoạt động dạy và hoạt động học: đồng bộ giữa dạy

tích cực và học tích cực.
+ Đề án đổi mới nêu giải pháp đột phá: Chiến lƣợc phát triển giáo dục 2011
2020 đã nêu giải pháp cụ thể cho giáo dục phổ thông “thực hiện đổi mới chƣơng trình
và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định hƣớng phát triển năng lực học sinh, vừa
đảm bảo tính thống nhất trong tồn quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phƣơng”.
Chƣơng trình xây dựng theo hƣớng tiếp cận nội dung chỉ trả lời câu hỏi: Chúng
ta muốn học sinh cần biết cái gì? Trong khi đó, nói đến năng lực (NL) là phải nói đến
khả năng thực hiện, là phải biết làm, chứ không chỉ biết gì. Chƣơng trình xây dựng theo
hƣớng tiếp cận năng lực phải trả lời với xã hội cho đƣợc câu hỏi: Chúng ta muốn, chúng
ta kì vọng học sinh biết và có thể làm đƣợc những gì? Trong mục tiêu phát triển năng
lực, các nhà hoạch định đổi mới chia thành hai nhóm: nhóm năng lực chung và nhóm
năng lực chun biệt. Nhóm năng lực chung đƣợc hình thành và phát triển qua nhiều
mơn học; nhóm năng lực chun biệt đƣợc hình thành và phát triển do một lĩnh
vực/mơn học nào đó. Đề án cũng đề xuất 03 nhóm NL chung bao gồm 09 NL cụ thể.
Trong 09 năng lực chung ấy, môn Ngữ văn cơ bản phải "gánh" trọn đến 02 năng lực
quan trọng: năng lực giao tiếp và năng lực sử dụng ngôn ngữ. Dạy học Ngữ văn do đó
có vai trị quan trọng trong mục tiêu giáo dục của nhà trƣờng phổ thơng, trong đó năng
lực giao tiếp đƣợc đặt ra với tƣ cách là một cơng cụ tối quan trọng bên cạnh năng lực
tính tốn và năng lực tin học. Dạy học theo quan điểm giao tiếp mà chúng tôi đặt ra đáp
ứng định hƣớng nêu trên.
- Về cơ sở thực tiễn
Chúng ta đã đề cập nhiều đến việc dạy học ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp
nhƣng trên thực tế, các trƣờng phổ thông đã chƣa thực hiện hiệu quả. Chƣơng trình và
sách giáo khoa hiện hành do tiếp cận theo hƣớng nội dung nên thiết kế và trình bày
nặng về kiến thức hàn lâm. Các nhà làm chƣơng trình có tham vọng đào tạo các em trở
thành các nhà ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu văn học hơn là trở thành những công
dân sử dụng tốt tiếng Việt để giao tiếp; biết cảm nhận, biết rung động trƣớc một tác
phẩm hay… Năng lực ngơn ngữ đặt ra q nặng trong khi đó năng lực giao tiếp chƣa
đƣợc chú ý nếu không muốn nói là xem nhẹ. Hệ quả là, sau mƣời hai năm học phổ
thông, năng lực giao tiếp của các công dân đỗ tú tài trong đó có các cơng dân đã đƣợc

phân hoá chọn Ngữ văn làm hƣớng vào đời trở thành một thực trạng đáng báo động.
Các kĩ năng nghe – đọc – nói – viết tiếng mẹ đẻ để giao tiếp thông thƣờng đạt thấp; đặc
709


biệt, kĩ năng viết tiếng Việt của các em rất yếu. Học sinh phổ thông của chúng ta đi sâu
phân tích ngơn ngữ ở các cấp độ nhƣng nói sai, viết sai những từ ngữ, câu chữ thơng
thƣờng. Hình nhƣ chúng ta đang quá chú trọng dạy Văn mà đặt nhẹ việc dạy giao tiếp;
trong khi đó, muốn cảm thụ tốt học sinh trƣớc hết phải nắm đƣợc công cụ diễn đạt.
Thực tế trên buộc chúng ta phải đổi mới mạnh mẽ việc dạy Ngữ văn. Quan điểm giao
tiếp nhƣ đã giới thuyết sẽ góp phần khá rõ trong việc đƣa mơn học trở về với việc hình
thành các năng lực thiết yếu nhƣ đã nêu ở trên.
2.3. Quy trình và những yêu cầu cần thiết để triển khai quan điểm giao tiếp trong dạy
học Ngữ văn
Bên cạnh những vấn đề chung nhƣ đã đề cập ở trên, để cụ thể hoá quan điểm
giao tiếp trong dạy học Ngữ văn; chúng tơi bƣớc đầu nêu lên quy trình và các yêu cầu đi
kèm để thực hiện hiệu quả quan điểm giao tiếp trong dạy học Ngữ văn. Về tổng thể,
ngƣời giáo viên phải thay đổi cách tƣ duy về giờ dạy: dạy học khơng cịn chủ yếu thực
hiện bằng độc thoại của ngƣời giáo viên mà chuyển sang phƣơng thức giao tiếp; đó là
cuộc đối thoại đa chiều mà có bao nhiêu thành viên tham gia thì có bấy nhiêu chủ thể và
đối tƣợng giao tiếp. Đó là cuộc giao tiếp về khoa học đúng nghĩa. Do vậy, giờ dạy phải
đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của một cơ chế giao tiếp thực sự. Giao tiếp trong một tiết
dạy học Ngữ văn trở thành một quá trình với nhiều phƣơng thức giao tiếp khác nhau:
giao tiếp trƣớc giờ dạy, giao tiếp trong giờ dạy và giao tiếp sau giờ dạy.
a. Giao tiếp trƣớc giờ dạy
Để thực hiện cơ chế giao tiếp hiệu quả, một u cầu có tính tiên quyết mà cả
giáo viên và học sinh đều phải tuân thủ là giáo viên phải nêu nhiệm vụ của học sinh
trong tiết học sắp tới. Nói cách khác, giáo viên phải nêu nội dung giao tiếp trong tiết học
sắp tới là gì, giáo viên kì vọng điều gì từ phía các em. Thời gian dành cho việc chuẩn bị
cũng phải đƣợc tính tới. Tốt nhất là giáo viên phải có Đề cƣơng chi tiết của cả quá trình

giảng dạy và công bố công khai đến từng học sinh chứ không phải kết thúc tiết học
trƣớc mới dặn dò chuẩn bị cho tiết sau.
Điều quan trọng là học sinh phải có ý thức chuẩn bị. Đồng thời cần hiểu rằng,
cuộc giao tiếp đã bắt đầu từ khâu đầu tiên này. Giáo viên phải qua các kênh giao tiếp
khác nhau để hƣớng dẫn, giúp đỡ học sinh đồng thời nắm vững về đối tƣợng giao tiếp
để có những định hƣớng ban đầu về cuộc giao tiếp. Trong thời đại thế giới phẳng, thông
tin trở nên đa chiều, học sinh cũng đƣợc tiếp cận với những nguồn tri thức phong phú
khơng kém gì giáo viên. Do vậy, nếu điểm giao nhau về tri thức giữa giáo viên và học
sinh không nhiều là điều hồn tồn bình thƣờng. Nhƣng nhờ vậy mà cuộc giao tiếp càng
trở nên sinh động, thú vị.
b. Giao tiếp trong giờ dạy
710


Dạy học là một cuộc giao tiếp mà giáo viên và học sinh liên tục luân phiên đổi
vai cho nhau để làm chủ thể và khách thể giao tiếp nên ƣu điểm lớn nhất của quan điểm
dạy học trên là phát huy tối đa sự tích cực, chủ động tƣ duy từ phía học sinh. Học sinh
phải làm việc thực sự để có thể “nói chuyện dài hơi” với giáo viên và với chính những
học sinh khác trong và cả sau giờ học. Hoạt động học và vai trò của ngƣời học sinh
đƣợc đề cao với những yêu cầu đòi hỏi tƣơng ứng. Bên cạnh đó, ngƣời giáo viên cũng
phải rất chủ động đồng thời có những năng lực cao hơn, mới hơn: năng lực xử lí tình
huống giao tiếp, năng lực thuyết phục, năng lực lựa chọn đáp án trƣớc những ý kiến đa
chiều…
Đã là giao tiếp đƣơng nhiên phải có hỏi - đáp. Đã là giao tiếp thì những chủ thể
tham gia giao tiếp ln tìm cách để tìm hiểu về đối tƣợng của mình. Trong dạy học cũng
vậy. Tiết học sẽ bắt đầu bằng việc giáo viên tìm hiểu xem học sinh đã nhận thức về
những vấn đề đặt ra của bài học nhƣ thế nào; có những khó khăn nào; có gì lệch lạc, sai
lầm… Ở bậc đại học, có ngƣời quá đề cao cơ chế giao tiếp và q lí tƣởng hố sinh viên
khi cho rằng: một tiết học ở bậc học này sẽ tổ chức bằng việc ngƣời dạy hỏi ngƣời học
đã nắm đƣợc bài chƣa, có vấn đề gì khó khăn khơng, có câu hỏi gì cần giải đáp khơng?

Tuy nhiên, với đối tƣợng học sinh phổ thơng thì cuộc giao tiếp sẽ cụ thể hơn, tỉ mỉ hơn
nhƣng cũng khởi đầu bằng việc giáo viên tìm hiểu xem học sinh đã chuẩn bị về bài học
nhƣ thế nào, có những khó khăn, vƣớng mắc nào.
Cách tổ chức cuộc giao tiếp hợp lí nhất vẫn là cách giáo viên nêu vấn đề. Ở đây
xin không nhắc lại những kiến thức về vấn đề, tình huống có vấn đề, câu hỏi nêu vấn đề.
Khởi phát của cuộc giao tiếp có thể từ tình huống có vấn đề. Nhƣng để cuộc giao tiếp
diễn ra đúng nghĩa thì một điều tối quan trọng thuộc về cơ chế giao tiếp mà ngƣời giáo
viên phải bảo đảm đó là khơng khí dân chủ trong giao tiếp. Nếu khơng có sự dân chủ
thực sự trong giao tiếp thì cuộc đối thoại chỉ mang tính hình thức và thực chất là đã trở
về với bản chất độc thoại. Giao tiếp phải khởi đầu bằng việc giáo viên và học sinh cùng
khám phá. Trong quá trình giao tiếp do vậy ngƣời thầy phải chấp nhận việc có tranh
luận, có phản biện, có ý kiến trái chiều… Và nếu giáo viên chỉ chăm chăm một đáp án
định sẵn cho tình huống thì cuộc giao tiếp bất thành. Những nhận xét nặng nề mang tính
phê phán rằng hiểu nhƣ thế là sai, là ngô nghê, là trẻ con, là thiển cận… trở nên lạc loài
đồng thời trở nên tối kị trong cơ chế dạy học này.
Để cuộc giao tiếp đƣợc tập trung và lƣợt lời đƣợc luân phiên qua các đối tƣợng
đa dạng khác nhau thì mơ hình lớp học của cơ chế dạy học này phải khơng q lớn; lí
tƣởng là khơng nên vƣợt quá con số 30 em/ lớp học. Trong giờ học, giáo viên phải có
khả năng trong việc tổ chức cho học sinh luân phiên làm chủ thể giao tiếp. Giáo viên do
vậy trong nhiều trƣờng hợp chấp nhận là đối tƣợng giao tiếp… Nhƣ vậy, giờ học lí

711


tƣởng theo quan điểm này là giờ học thực hiện đƣợc càng nhiều càng tốt các quan hệ
giao tiếp sau đây: Thầy-Trò, Trò-Thầy, Trò-Trò.
b. Giao tiếp sau giờ dạy
Đặc điểm quan trọng của quan điểm dạy học này là cuộc giao tiếp có thể đƣợc
kéo dài sau tiết học, qua các tiết học khác (nếu có vấn đề tích hợp liên quan), thậm chí
khơng hạn định điểm kết thúc. Sau tiết học, các em học sinh có thể tranh luận; thầy và

trị có thể tiếp tục tìm hiểu, tiếp tục trao đổi để đi đến gần nhau hơn về kiến thức, kĩ
năng. Giáo viên cũng có thể hƣớng dẫn học sinh những vấn đề tự học, tự nghiên cứu và
giao tiếp với học sinh qua hình thức giao tiếp khác là bài thu hoạch…
2.4. Minh hoạ
Ngƣời Mỹ đã dạy bài học Cô bé Lọ Lem nhƣ thế này. Xin đƣợc dẫn lại một bài
tƣờng thuật giờ học để minh hoạ cụ thể cho quan điểm dạy học theo kiểu giao tiếp nhƣ
vừa trình bày ở trên:
"Giờ học văn bắt đầu. Hôm nay thầy giảng bài Truyện Cô bé Lọ Lem.
Trƣớc tiên thầy gọi một học sinh lên kể chuyện Cô bé Lọ lem. Em học sinh
kể xong, thầy cảm ơn rồi bắt đầu hỏi.
Thầy: Các em thích và khơng thích nhân vật nào trong câu chuyện vừa rồi?
Học sinh (HS): Thích Cơ bé Lọ Lem Cinderella ạ, và cả Hồng tử nữa.
Khơng thích bà mẹ kế và chị con riêng bà ấy. Cinderella tốt bụng, đáng yêu,
lại xinh đẹp. Bà mẹ kế và cô chị kia đối xử tồi với Cinderella.
Thầy: Nếu vào đúng 12 giờ đêm mà Cinderella chƣa kịp nhảy lên cỗ xe quả
bí thì sẽ xảy ra chuyện gì?
HS: Thì Cinderella sẽ trở lại có hình dạng lọ lem bẩn thỉu nhƣ ban đầu, lại
mặc bộ quần áo cũ rách rƣới tồi tàn. Leo ôi, trông kinh lắm!
Thầy: Bởi vậy, các em nhất thiết phải là những ngƣời đúng giờ, nếu khơng
thì sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngồi ra, các em tự nhìn lại mình mà xem, em
nào cũng mặc quần áo đẹp cả. Hãy nhớ rằng chớ bao giờ ăn mặc luộm
thuộm mà xuất hiện trƣớc mặt ngƣời khác. Các em gái nghe đây: các em lại
càng phải chú ý chuyện này hơn. Sau này khi lớn lên, mỗi lần hẹn gặp bạn
trai mà em lại mặc luộm thuộm thì ngƣời ta có thể ngất lịm đấy (Thầy làm
bộ ngất lịm, cả lớp cƣời ồ). Bây giờ thầy hỏi một câu khác. Nếu em là bà mẹ
kế kia thì em có tìm cách ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội của hồng tử hay
khơng? Các em phải trả lời hồn tồn thật lịng đấy!
HS: (im lặng, lát sau có em giơ tay xin nói) Nếu là bà mẹ kế ấy, em cũng sẽ
ngăn cản Cinderella đi dự vũ hội.
712




×