Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Thực trạng phân tích tình hình tài chính tại công ty bảo việt nam định trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.2 KB, 56 trang )

CHƯƠNG I .
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO
TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM THÔNG QUA HỆ THỐNG
BÁO CÁO TÀI CHÍNH.
I. Lý luận chung về hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm
1. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của báo cáo tài chính
1.1. Sự cần thiết khách quan
Báo cáo tái chính là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các
chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh có hệ thống tình hình tài sản của doanh nghiệp,
tình hình kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình lưu chuyển các dòng tiền và sự
vận động sử dụng vốn của doang nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, DNBH phải thực hiện đầy đủ các
quyết toán tài chính và chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật, vì vậy việc lập
báo cáo tài chính không chỉ mang lại ý nghĩa quan trọng cho doanh nghiệp mà còn
thực hiện nghĩa vụ với pháp luật.
Việc lập báo cáo tài chính không chỉ là việc chấp hành quy định của pháp
luật mà còn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong viêc cung cấp thông tin, phục vụ
cho việc ra quyết định tài chính. Hệ thống báo cáo tài chính chỉ có ý nghĩa trong
quản trị kinh doanh khi nó đảm bảo đầy đủ ba yêu cầu: Trung thực, đầy đủ và kịp
thời.
1.2. Tác dụng của báo cáo tài chính
Hệ thống báo cáo tài chính có một tác dụng cực kỳ quan trọng đối với công
tác quản lý doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- Báo cáo tài chính là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản
ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình tài sản, các khoản nợ, nguồn hình thành tài
sản, tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
1
- Báo cáo tài chính nhằm cung cấp những thông tin cần thiết nhất phục vụ
chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác như: các nhà đầu tư, các cơ quan


quản lý cấp trên và toàn bộ cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp…
- Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu để
đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thực trạng tài chính
của doanh nghiệp trong kỳ hoạt động đã qua, giúp cho việc kiểm tra, giám sát tình
hình sử dụng vốn và khả năng huy động vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Các chỉ tiêu, các số liệu trên các báo cáo tài chính là những cư sở quan
trọng để tính các chỉ tiêu quan trọng khác, nhằm đánh giá hiệu quả sử dụng vốn,
hiệu quả của các quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những thông tin của báo cáo tài chính là những căn cứ quan trọng trong
phân tích, nghiên cứu, phát hiện những khả năng tiềm tàng, là những căn cứ quan
trọng đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sỡ hữu, các nhà đầu tư, các chủ nợ hiện tại
và tương lai của doanh nghiệp.
- Những báo cáo tài chính còn là những căn cứ quan trọng để xây dựng
những kế hoạch kinh tế-kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp, là những căn cứ khoa
học để đề ra hệ thống các biện pháp xác thực nhằm tăng cường quản trị doanh
nghiệp, không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
2. Các báo cáo tài chính
2.1. Nguyên tắc và yêu cầu khi lập và trình bày báo cáo tài chính
2.1.1 Các nguyên tắc lập và trình bày
* Nguyên tắc hoạt động liên tục:
Trước khi lập BCTC cần phải đánh giá khả năng hoạt động liên tục của
doanh nghịêp.BCTC cần phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghịêp hoạt
động liên tục và vẫn sẽ tiếp tục kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi
doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp
đáng kể qui mô hoạt động liên tục của mình.Nếu các BCTC không được lập trên cơ
sở hoạt động liên tục thì sự kiện này cần được ghi rõ, cùng với cơ sở dùng để lập
2

BCTC và lý do khiến doanh nghiệp không được hoạt động liên tục.
* Nguyên tắc nhất quán:
Việc trình bày và phân loại trong BCTC phải nhất quán từ niên độ này sang
niên độ khác.Nguyên tắc này đảm bảo những ngươì sử dụng BCTC hiểu được
những sự thay đổi về tình hình tài chính.Tuy nhiên khi có sự thay đổi đáng kể về
hoạt động của mình, doanh nghiệp có thể xem xét lại việc trình bày BCTC nhưng
phải công bố đầy đủ ảnh hưởng sự thay đổi đó về giá trị trong những BCTC.
*Nguyên tắc cơ sở dồn tích:
Đòi hỏi doanh nghiệp phải lập BCTC theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ
các thông tin liên quan đến các luồng tiền. Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao
dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm
thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và BCTC của kì kế toán liên
quan. Các khoản chi phí được ghi nhận vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên
tắc phù hợp không cho phép ghi nhận trên bảng cân đối kế toán những khoản mục
không thoả mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.
* Nguyên tắc trọng yếu và tập hợp:
Việc lập BCTC chỉ chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết
định bản chất và nội dung của sự vật; không quan tâm đến các yếu tố có ít tác dụng
trong BCTC. Một thông tin được coi là trọng yếu tức là nếu không trình bày hoặc
trình bày thiếu tính chính xác có thể làm sai lệch đáng kể BCTC, làm ảnh hưởng
đến quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin. Các khoản mục không mang
tính trọng yếu được tập hợp với các khoản mục khác có cùng tính chất hoặc chức
năng trong BCTC hoặc trình bày trong phần thuyết minh BCTC
* Nguyên tắc bù trừ
Các khoản mục tài sản nợ phải trả trình bày trên BCTC không được bù trừ;
trừ khi có một chuẩn mực quốc tế khác quy định hoặc cho phép bù trừ hoặc các
khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống
nhau hoặc tương tự và không có tính trọng yếu.
* Nguyên tắc có thể so sánh.

Các thông tin trên BCTC nhằm để so sánh giữa các kì kế toán phải được
3
trình bày tương ứng với thông tin bằng số liệu trên BCTC của kì trước. Các thông
tin so sánh cần phải bao gồm cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu điều này là cần
thiết giúp cho những người sử dụng hiểu rõ được BCTC của kì hiện tại
2.1.2. Yêu cầu lập và trình bày BCTC.
* Trung thực và hợp lý.
Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý thì các BCTC phải được lập và
trình bày trên cở sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định
có liên quan hiện hành. Bởi vậy doanh nghiệp phải lựa chọn và áp dụng các chính
sách kế toán nhằm cung cấp các thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ
hiểu. Trường hợp chưa có quy định ở Chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện
hành thì doanh nghệp phải căn cứ vào chuẩn mực chung để xây dựng các phương
pháp kế toán hợp lý nhằm đảm bảo BCTC cung cấp được những thông tin thích hợp
với nhu cầu ra quyết định kinh tế của người sử dụng; thông tin phải đáng tin cậy,
phản ánh trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty; phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và các sự kiện
không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng; thông tin phải trình
bày khách quan, không thiên vị và tuân thủ nguyên tắc thận trọng, đầy đủ trên mọi
khía cạnh trọng yếu.
* Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán
Chính sách kế toán bao gồm những nguyên tắc, cơ sở và các phương pháp kế
toán cụ thể được doanh nghiệp áp dụng trong quá trình lập và trình bày BCTC.
Trong trường hợp không có chuẩn mực kế toán hướng dẫn riêng, khi xây dựng các
phương pháp kế toán cụ thể, doanh nghiệp cần xem xét đến những yêu cầu và
hướng dẫn của các chuẩn mực kế toán đề cập đến những vấn đề tương tự.
2.1.3. Thời hạn lập và nơi nhận báo cáo tài chính
Loại hình DN
Thời hạn
lập BCTC

Cơ quan
tài chính
Cục
thuế
Cơ quan
thống kê
DN
cấp
trên
Cơ quan
đăng ký
kinh doanh
DN Nhà nước Quý, năm
    
DN có vốn đầu tư nước
ngoài
Năm
    
Loại hình DN khác Năm
   
4
2.2. Nội dung và kết cấu các BCTC theo chế độ hiện hành đối với doanh
nghiệp bảo hiểm bao gồm các loại BCTC sau:
2.2.1. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT).
- Bảng cân đối kế toán là báo cáo phản ánh một cách tổng quát về tình hình
toàn bộ tài sản của doanh nghịêp theo hai cách phân loại sau: Kết cấu của tài sản và
nguồn vốn hình thành nên tài sản dưới hình thức tiền tệ tại một thời điểm nhất định
(cuối quý, cuối năm).
- BCĐKT là báo cáo tài chính quan trọng đối với doanh nghiệp và các cơ
quan chức năng có liên quan. Thông qua BCĐKT có xem xét, đánh giá tình hình

phân bổ tài sản, phân bổ nguồn vốn cũng như những mối quan hệ kinh tế, tài sản
chính khác hiện có trong doanh nghiệp.
- Xuất phát từ nhu cầu biểu hiện hai mặt khác nhau của tài sản trong doanh
nghiệp: Tài san gồm những gì và tài sản do đâu mà có nên kết cấu của BCĐKT
được xây dựng theo kết cấu hai bên:
+ Bên trái gọi là "Tài sản": được dùng để phản ánh kết cấu của tài sản
+ Bên phải gọi là "Nguồn vốn": được dùng để phản ánh các nguồn vốn khác
nhau tạo nên tài sản.
- Hai bên của BCĐKT phản ánh hai mặt khác nhau của tài sản trong doanh
nghiệp nên chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Xét về mặt lượng bao giờ
cũng có :
" Tổng số tài sản = Tổng số nguồn vốn"
2.2.2. Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (BCKQHĐKD)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là bàng tổng hợp cân đối được sử
dụng để phản ánh doanh thu, chi phí và kết quả hoạt động lãi, lỗ của doanh nghiệp
trong thời kỳ nhất định.
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là thông tin tài chính cần thiết, là căn
cứ quan trọng để đánh giá, phân tích tính hình kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, đặc biệt khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo quy định ở Việt Nam, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghịêp bao gồm ba phần :
+ Phần I: Báo cáo lái lỗ kinh doanh
5
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, thuế giá trị gia tăng được
hoàn lại, thuế giá trị gia tăng được giảm, thuế giá trị gia tăng hàng bán nôi bộ.
2.2.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT)
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tồng hợp phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán

của doanh nghiệp và dự đoán luồng tiền trong kỳ tiếp theo.
- Kết cấu của BCLCTT bao gồm ba phần là:
 Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chỉ ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, như tiền thu bán hang, tiền thu từ các khoản
phải thu thương mại; các chi phí bằng tiền như tiền trả cho các nhà cung cấp ( trả
ngay trong kỳ và tiền trả cho khoản nợ từ kỳ trước), tiền thanh toán cho công nhân
viên về tiền lương và bảo hiểm xã hội, các chi phí khác bằng tiền (chi phí văn
phòng phẩm, công tác phí, ).
 Lưu chuyển từ hoạt động đầu tư:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bao gồm 2
phần là:
- Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản than doanh nghiệp, như hoạt động
xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.
- Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư
chứng khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay đầu tư dài hạn.
Dòng tiền lưu chuyển được tính gồm toàn bộ các khoản thu do bán, thanh lý
tài sản cố định, thu hồi các khoản đầu tư vào các đơn vị khác…và các khoản chi
thanh lý,chi mua sắm, xây dựng tài sản cố định, chi về đầu tư vào các đơn vị khác.
 Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính:
Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao gồm
các nghiệp vụ làm tăng, giảm vốn kinh doanh của doanh nghiệp như chủ doanh
6
nghiệp góp vốn, vay vốn (không phân biệt vay vốn dài hạn hay vay vốn ngắn hạn),
nhận góp vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, trả nợ các khoản vay hoặc
thanh toán trái phiếu, cổ phiếu,…
Dòng tiền lưu chuyển được tính bao gồm các khoản thu, chi liên quan như
tiền vay đã nhận, tiền thu được do phát hành cổ phiếu, trái phiếu, tiền chi trả lãi cho

các bên góp vốn,trả lãi cổ phiếu, trái phiếu, bằng tiền, thu lãi tiền gửi…
2.2.4. Thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp
- Mục đích của bản thuyết minh báo cáo tài chính:
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành không thể tách
rời của báo cáo tài chính doanh dùng để mô tả mang tính tường thuật hoặc phân tích
chi tiết các thông tin số liệu đã được trình bầy trong Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tìên tệ cũng như các thông tin
cần thiết khác theo yêu cầu của các chuẩn mực kế toán cụ thể. Bản thuyết minh báo
cáo tài chính cũng có thể trình bày những thông tin khác nếu doanh nghiệp xét thấy
cần thiết cho việc trình bày trung thực, hợp lý báo cáo tài chính
-Nguyên tắc lập và trình bầy Bản thuyết minh báo cáo tài chính
(1) Khi lập báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải lập Bản thuyết minh
báo cáo tài chính theo đúng quy định từ đoạn 60 đến 74 của chuẩn mực kế toán số
21 “Trình bầy báo cáo tài chính” và hướng dẫn tại Chế độ báo cáo tài chính này.
(2) Khi lập báo cáo tài chính giữa niên độ (kể cả dạng đầy đủ và dạng tóm
lược) doanh nghiệp phải lập Bảng thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc theo quy
định của chuẩn mực kế toán số 27 “Báo cáo tài chính giữa niên độ” và Thông tin
hướng dẫn chuẩn mực.
(3) Bản thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp
phải trình bầy những nội dung dưới đây:
+Các thông tin về cơ sở lập và trình bầy báo cáo tài chính và các chính sách
kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và các sự kiện quan trọng
+Trình bầy các thông tin theo quy định của các chuẩn mực kế toán chưa
được trình bầy trong các báo cáo tài chính khác (Các thông tin trọng yếu)
+Cung cấp các thông tin bổ xung chưa được trình bầy trong báo cáo tài chính
khác, nhưng lại cần thiết cho việc trình bầy trung thực và hợp lý tình hình tài chính
7
của doanh nghiệp
(4) Bản thuyết minh báo cáo tài chính phải được trình bầy một cách có hệ
thống. Mỗi khoản mực trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh

doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần được đánh dấu dẫn tới các thông tin liên
quan trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
- Cơ sở lập bản thuyết minh báo cáo tài chính
+ Căn cứ vào Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ năm báo cáo.
+ Căn cứ vào sổ kế toán tổng hợp
+ Căn cứ vào sổ, thẻ kế toán tổng hợp chi tiết liên quan.
+ Căn cứ vào tình hình thực hiện của doanh nghiệp và các tài liệu liên quan
khác.
+ Căn cứ vào bản thuyết minh báo cáo kỳ trước
II. Lý luận chung về phân tích tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài
chính (Phân tích các báo cáo tài chính).
1. Mục đích và ý nghĩa của phân tích các báo cáo tài chính trong doanh
nghiệp bảo hiểm
1.1. Khái niệm và mục đích của phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh về số liệu tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân tích báo cáo
tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh
cũng như những rủi ro trong tương lai.
Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với việc quản trị doanh nghiệp và đồng thời
là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp. Báo
cáo kông những cho biết tình hính tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo
mà còn cho thấy những kết quả hoạt động mà doanh nghiệp đạt được trong thời
gian đó.
Mục đích của phân tích báo cáo tài chính là giúp người sử dụng thông tin có
thể đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của
doanh nghiệp. Bởi vậy phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp là mối
quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như Ban Giám Đốc, Hội đồng quản trị,
8
các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng chính, những người cho

vay, các nhân viên ngân hàng, các nhà quản lý, các nhà bảo hiểm, các đại lý,…kể cả
các cơ quan chính phủ và bản thân người lao động. Mỗi nhóm người có nhu cầu
thông tin khác nhau và do vậy mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía
cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một doanh nghiệp. Mặc dù mục đích khác
nhau nhưng thường liên quan tới nhau, do vậy, họ thường sử dụng những công cụ
và kỹ thuật cơ bản giống nhau để phân tích báo cáo tài chính.
1.2.Ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính
Mục đích tối cao và quan trọng của phân tích báo cáo tài chính là giúp những
người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác
thực trạng tài chính và tiềm năng của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích báo cáo
tài chính có ý nghĩa quan trọng với nhiều phía(chủ doanh nghiệp và bên ngoài
doanh nghiệp).
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm
hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Bên cạnh đó các nhà
quản trị doanh nghiệp còn quan tâm tới nhiều mục tiêu khác như tìm kiếm việc làm,
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm,hàng hoá và dịch vụ với chi
phí thấp đóng góp phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường…Tuy nhiên, một doanh
nghiệp chỉ có thế thực hiện được các mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách
sống còn và là hai mục tiêu cơ bản: Kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ. Một
doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục, rút cuộc sẽ bị cạn kiệt các nguồn lực và phải đóng
cửa. Mặt khác nếu doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ cũng bị buộc
phải ngừng hoạt động và phải đóng cửa.
Như vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp và các chủ doanh nghiệp cần có đủ
thông tin và hiểu rõ doanh nghiệp để đánh giá tình hình tài chính đã qua,thực hiện
cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, sinh lợi, rủi ro và dự đoán tình hình tài
chính nhằm đưa ra những quyết định đúng.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm chủ
yếu của họ hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy họ đặc biệt chú ý
tới số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với
số nợ ngắn hạn để biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Ngoài ra các

9
chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số lượng vốn của
chủ sở hữu, bởi vậy số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường
hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Không mấy ai sẵn sàng cho vay nếu các thông tin cho
thấy người cho vay không đảm bảo chắc chắn rằng tài khoản vay của họ có thể sẽ
được thanh toán khi đến hạn. Người cho vay cũng quan tâm tới khả năng sinh lời
của doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả vốn và lãi vay dài hạn.
Đối với các nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ họ phải quyết
định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng, thanh toán chậm
hay không. Cũng như các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, nhóm người
này cũng cần phải biết khả năng thanh toán hiện tại và thời gian sắp tới của khách
hàng.
Đối với các nhà đầu tư thì mối quan tâm của họ là hướng vào các yếu tố
như sự rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi, khả năng thanh toán vốn,…Vì vậy
họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình tài chính, tình hình hoạt
động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Đồng
thời các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính hiệu quả
của công tác quản lý. Những điều đó nhằm đảm bảo sự an toàn và tính hiệu quả cho
các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó các chủ doanh nghiệp (chủ sỡ hữu), các nhà quản lý, các chủ
đầu tư, các chủ ngân hàng,…còn nhiều nhóm người khác quan tâm tới tài chính của
doanh nghiệp như: cơ quan tài chính, thống kê, thuế, chủ quản, các nhà phân tích tài
chính, người lao động,…Nhóm người này cần thông tin cơ bản giống như các chủ
ngân hàng, các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp,…bởi vì nó liên quan tới quyền lợi
và trách nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
2. Nội dung và phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
2.1. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách khác, tình hình

tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với tổ chức, huy động, phân phối, sử
dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
10
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đòi hỏi các doanh nghiệp phải
có lượng vốn nhất định bao gồm vốn kinh doanh, các quỹ, vốn đầu tư xây dựng cơ
bản, vốn vay và các loại vốn khác. Doanh nghiệp có nhiệm vụ tổ chức, huy động
các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh của mình. Đồng thời tiến hành phân
phối, quản lý và sử dụng vốn hiện có của mình một cách hiệu quả cao nhất trên cơ
sở chấp hành các chế độ, chính sách quản lý kinh tế - tài chính và kỷ luật thanh toán
của Nhà nước. Việc thường xuyên tiến hành phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho
người sử dụng thông tin nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ
nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp hữu
hiệu và ra các quyết định cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh
doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Việc phân tích báo cáo tài chính cũng chính là phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Đánh giá khái quát tình hình tài chính
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản suất kinh doanh.
- Phân tích bảng cân đối kế toán
- Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh
- Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính
- Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
- Phân tích hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sinh lợi của vốn
- Phân tích tốc độ lưu chuyển của vốn lưu động
- Phân tích điểm hoà vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp
2.2. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ thống báo
cáo tài chính, các nhà phân tích chủ yếu sử dụng các phương pháp như: phương

pháp so sánh, phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích, phương pháp liên hệ cân đối,
phương pháp loại trừ, phương pháp kết hợp…Sau đây là nội dung và cách vận dụng
của một số phương pháp phân tích chủ yếu:
2.2.1. Phương pháp so sánh
11
Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích để đánh giá kết quả,
xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích báo
cáo tài chính, phương pháp so sánh thường được sử dụng bắng cách so sánh ngang
(còn gọi là phân tích ngang) và so sánh dọc (còn gọi là phân tích dọc).
So sánh ngang là việc so sánh, đối chiếu, tình hình biến động cả về số tưyệt
đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu cuả từng báo cáo tài chính; còn so sánh dọc là
việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trong
từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo để rút ra kết luận.
• So sánh bằng số tuyệt đối:
Số tuyệt đối được sử dụng để phản ánh quy mô các hiện tượng, sự vật, hoạt
động,…So sánh bằng số tuyệt đối sẽ cung cấp thông tin về mức độ biến động của
chỉ tiêu nghiến cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc biểu hiện bằng tiền, hiện vật
hay giờ công cụ thể.
• So sánh bằng số tương đối
So sánh bằng số tương đối cho thấy kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển
và mức độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. Trong dạng so sánh này thường sử
dụng các loại so sánh tương đối như: so sánh bằng số tương đối kết hợp, so sánh
bằng số tương đối giản đơn, so sánh bằng số tương đối liên hệ, so sánh bằng số
tương đối động thái, so sánh bằng số tương đối kết cấu,…
• So sánh bằng số bình quân
Số bình quân san bằng mọi chênh lệch về vị trí của chỉ tiêu nghiên cứu, nó
phản ánh mức độ bình quân hay đặc điểm điển hình của mọi đối tượng nghiên cứu.
Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý sẽ biết được mức độ mà doanh
nghiệp đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành,…Từ đó xác định
được vị trí của doanh nghiệp mình.

2.2.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích
* Phương pháp loại trừ:
Để xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu
phản ánh đối tượng phân tích các nhà phân tích sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau, trong đó phương pháp loại trừ được sử dụng phổ biến nhất.
Theo phương pháp này, để nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó,
12
nhà phân tích phải loại trừ ảnh hưởng của những nhân tố còn lại. Đặc trưng nổi bật
của phương pháp này là luôn đặt đối tượng phân tích vào các trường hợp giả định
khác nhau để xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến biến động của chỉ tiêu nghiên
cứu. Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai dạng là: phương
pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch
* Phương pháp liên hệ cân đối
Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hình thành nên rất nhiều mối
liên hệ cân đối về lượng giữa hai mặt của các yếu tố. Điều này dẫn đến sự cân bằng
về mức biến động kỳ phân tích và kỳ gốc của chúng. Dựa vào các mối quan hệ cân
đối này người phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của nhân tố đến sự biến động
của chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích.
* Phương pháp kết hợp
Phương pháp kết hợp là một trong những phương pháp được sử dụng phổ
biến trong phân tích hạot động kinh doanh nói chung và phân tích báo cáo tài chính
nói riêng. Được gọi là phương pháp phân tích kết hợp là vì trong quá trình nghiên
cứu đối tượng của mình các nhà phân tích phải sử dụng kết hợp một số phương
pháp phân tích với nhau, chẳng hạn như: kết hợp phương pháp so sánh với phương
pháp đồ thị, phương pháp loại trừ với phương pháp liên hệ cân đối, phương pháp
chi tiết chỉ tiêu phân tích với các mô hình toán…Điều này là cần thiết vì đối tượng
phân tích rất đa dạng và phong phú, do vậy mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh
hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng phân tích không phải bao giờ cũng theo một
hướng hay cùng một loại. Ngoài ra việc sử dụng kết hợp nhiều phương pháp sẽ làm
nổi bật đặc trưng của đối tượng phân tích

Ngoài các phương pháp phân tích phổ biến trên phân tích tài chính còn sử
dụng một số phương pháp khác nhau như: phương pháp xác định giá trị theo thời
gian của tiền, phương pháp chỉ số, phương pháp toán kinh tế,… để nghiên cứu đối
tượng của mình.
3. Các chỉ tiêu tài chính sử dụng trong phân tích tài chính
Việc phân tích báo cáo tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm được thực
hiện thông qua việc phân tích các chỉ tiêu tài chính được tính toán từ các báo cáo tài
chính như sau:
13
3.1. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
• Tỷ số thanh toán hiện tại (R
c
- the current ratio)
R
c
= …………………….
Trong đó những khoản nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong thời
gian ngắn (thường dưới một năm).
Tỷ số thanh toán hiện tại (R
c
) cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có
thể chuyển đổi để đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Đây là chỉ
tiêu đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy đối với doanh nghiệp bảo
hiểm việc đánh giá đúng đắn chỉ tiêu này là hết sức quan trọng và cần thiết.
Khoản nợ lớn nhất và quan trọng nhất đối với doanh nghịêp bảo hiểm không
đâu khác chính là trả tiền bồi thường hay trả tiền bảo hiểm cho khách hàng của
doanh nghiệp
• Tỷ số thanh toán nhanh (The quick ratio- R
q
)

R
q
=………………….
Tỷ số này cho biết khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, được tính
toán dựa trên các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền để đáp ứng yêu cầu
thanh toán ngay. Đối với Doanh nghiệp bảo hiểm hệ số này lớn hơn 1 là an toàn cho
doanh nghiệp. Bởi vì nó cho thấy khả năng doanh nghiệp có thể trang trải các khoản
nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu bao gồm chủ yếu từ thu phí bảo hiểm.
Điều đó cũng có nghĩa là Doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng giải quyết bồi
thường hay chi trả bảo hiểm kịp thời cho khách hàng tạo điều kiện để khách hàng
giải quyết hậu quả rủi ro nhanh chóng từ đó tạo uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm,
tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm.
3.2. Các chỉ tiêu hoạt động
Các chỉ tiêu hoạt động bao gồm các tỷ số đo lường mức độ hoạt động liên
quan tới tài sản của doanh nghiệp như:
• Kỳ thu tiền bình quân (Average Collectiom Period –ACP)
ACP =………………
Tỷ số này phản ánh số ngày bình quân để 1 đồng hàng hoá, sản phẩm bán ra
doanh nghiệp thu hồi lại được
Tỷ số này cho thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm hay là sức hấp dẫn của sản
14
phẩm mà doanh nghiệp đang tiêu thụ cũng như chính sách thanh toán mà doanh
nghiệp đang áp dụng .
Trong đó những khoản phải thu là những khoản bán sản phẩm mà chưa thu
tiền gồm hàng bán trả chậm, bán chịu, khách hàng nợ chưa trả, khoản trả trước cho
người bán, Do đó đối với doanh nghiệp cần phải phân tích đinh kỳ một cách
thường xuyên để sớm phát hiện tình hình nợ, nhất là những khoản nợ khó đòi để có
những biện pháp cũng như những chính sách xử lý kịp thời, nhanh chóng. Đối với
những doanh nghiệp bảo hiểm cần đặc biệt chú ý tới các khoản nợ đọng phí bảo
hiểm hay lãi hoạt động đầu tư. Xem xét phí nợ đọng là do khách hàng hay do đại lý

giữ phí lại để có biện pháp sử lý cho phù hợp nhất.
• Hiệu quả sử dụng tài sản cố định( The Fixed Assets Utilization- TAU)
Tỷ số này cho biết hiệu quả sử dụng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp bảo
hiểm là như thế nào: Một đồng vốn bỏ ra tạo được mấy đồng doanh thu trong một
kỳ kinh doanh
Công thức tính là:
TAU=……………
Trong đó tổng tài sản là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp tại thời điểm
tính toán bao gồm: Tài sản cố định và tài sản vô hình.
3.3. Các chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp
* Doanh lợi theo doanh số (Net Profit Margin on Sales -R
p
)
Tỷ số này cho biết một đồng doanh thu thuần thì có bao nhiêu phần trăm lợi
nhuận. Sự biến động của tỷ số này phản ánh sự biến động về hiệu quả hay ảnh
hưởng của chiến lược bán sản phẩm, cơ cấu sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng
hoá dịch vụ
Công thức tính như sau:
R
p
=…………….
• Doanh lợi trên vốn (Net Return on Assets Ratio –R
r
)
Tuỳ theo phương pháp tính toán và mục đích của việc phân tích mà chỉ số
này có thể được tính theo hai cách đó là:
R
r
=…………
15

Hoặc
R
r
=…………
Chỉ số này còn được gọi là khả năng sinh lời của vốn đầu tư (Return on
Investment – ROI) dùng để đo lường khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư
vào doanh nghiệp.
• Doanh lợi trên vốn của chủ (R
e
)
R
e
=……….
Chỉ số này phản ánh lợi nhuận doanh nghiệp thu được so với vốn đầu tư của
các chủ sỡ hữu bỏ ra. Chỉ số này phải đảm bảo cao hơn tỷ lệ lạm phát và giá vốn thì
doanh nghiệp mới thực sự có lãi.
3.4. Một số chỉ tiêu đặc thù đối với doanh nghiệp bảo hiểm
* Khả năng thanh toán và biên khả năng thanh toán
Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, có bốn nhân tố chủ yếu luôn đe doạ
sự an toàn của doanh nghiệp bảo hiểm đó là:
+ Phí bảo hiểm đã thu và các khoản dự phòng đã lập không đủ do số liệu
thống kê không chính xác, công tác đánh giá rủi ro không tốt, các khiếu nại ngày
càng tăng lên trong khi lại không có những hành động điều chỉnh không kịp thời và
hiệu quả.
+ Khả năng tích tụ về số lượng rủi ro không đảm bảo theo quy luật số lớn.
+ Thực hiện tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm chưa tốt.
+ Tổn thất về đầu tư và những tài sản khác.
Chính vì vậy một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự an toàn của doanh
nghiệp bảo hiểm là khả năng thanh toán. Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì
khả năng thanh toán, là một chỉ tiêu quan trọng bắt buộc phải báo cáo định kỳ với

các cơ quan quản lý Nhà nước. DNBH được coi là đủ khả năng thanh toán khi đã
trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn
biên khả năng thanh toán tối thiểu và phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong
suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch
giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm.
Biên khả năng thanh toán tối thiểu được quy định tuỳ thuộc vào điều kiện
16
của từng nước cụ thể. Ở Việt Nam hiện nay, biên khả năng thanh toán tối thiểu
được quy đinh như sau:
- Biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
bằng 20% tổng phí bảo hiểm thực giữ lại tại thời điểm xác định biên khả năng thanh
toán.
- Biên khả năng thanh toán tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ:
+ Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 10 năm trở xuống bằng
tổng của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,1% số tiền bảo hiểm chịu rỉu ro.
+ Đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn trên 10 năm bằng tổng
của 4% dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và 0,3% số tiền bảo hiểm chịu rủi ro.
Để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong kinh doanh nhất là đảm bảo khả năng
thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm phải có cơ cấu đầu tư hợp lý để đáp ứng yêu cầu
về tiền mặt trong quá trình bồi thường hoặc chi trả. Các DNBH bị quản lý và bị
giám sát chặt chẽ khả năng thanh toán để đáp ứng các cam kết đối với bên mua bảo
hiểm. Ở Việt nam quy định như sau:
+ Doanh nghiệp bảo hiểm phải ký quỹ 5% vốn pháp định tại một ngân hàng
thương mại, chỉ được sử dụng tiền ký quỹ khi khả năng thanh toán bị thiếu hụt.
+ Đối với việc sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ, để duy trì
khả năng trả tiền bảo hiểm thường xuyên, DNBH phải gửi tiền tại các tổ chức tín
dụng không thấp hơn 25% đối với bảo hiểm phi nhân thọ và 5% đối với bảo hiểm
nhân thọ. Ngoài ra khi đầu tư cũng bị hạn chế theo tỷ lệ đối với danh mục đầu tư và
được quy định riêng cho hoạt động nhân thọ và phi nhân thọ.

Ngoài các chỉ số áp dụng cho các doanh nghiệp nói chung, đánh giá sự vững
mạnh về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải xem xét một số chỉ số
riêng cho kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ
* Tỷ lệ phí giữ lại
Tỷ lệ phí giữ lại=………….
Tỷ lệ này càng lớn thể hiện khả năng thanh toán tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm càng cao. Ngoài ra phần giữ lại mức trách nhiệm của các doanh nghiệp
bảo hiểm cao còn góp phần tăng nguồn dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Ở Việt nam
hiện nay quy định bắt buộc phải tái bảo hiểm qua Công ty tái bảo hiểm quốc gia
17
(Vinare) là 20% ( Tuy nhiên theo hiệp định thương mại Việt Mỹ đã ký kết, 5 năm
sau sẽ phải bỏ sự bắt buộc này)
• Tỷ lệ chi quản lý
Tỷ lệ chi quản lý =………
Tỷ lệ này cho biết để khai thác một hợp đồng doanh thu phí, thì doanh
nghiệp bảo hiểm phải mất bao nhiêu đồng chi phí, từ đó để có biện pháp tiết kiệm
chi phí
• Tỷ lệ chi hoa hồng
Tỷ lệ chi hoa hồng=………….
Tỷ lệ này cho biết để khai thác được một hợp đồng doanh thu thì DNBH phải
chi bao nhiêu đồng hoa hồng. Kênh phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp gồm
3 kênh chính: trực tiếp bán bảo hiểm cho khách hàng, qua các môi giới bảo hiểm,
qua các đại lý bảo hiểm. Đối với qua kênh môi giới và đại lý DNBH phải chi hoa
hồng môi giới.
• Tỷ lệ chi bồi thường (hoặc chi trả)
…………………….
• Tỷ lệ bồi thường
……………………………………………………………
Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động của DNBH.
Nó phản ánh tỷ lệ phí bảo hiểm mà DNBH thu được dung để chi trả hay bồi thường.

Đem so sánh tỷ lệ này với tỷ lệ phí thuần trong cơ cấu tính phí bảo hiểm của doanh
nghiệp nếu:
- Nó lớn hơn chứng tỏ doanh nghiệp cần phải xem xét công tác đánh giá rủi
ro trước khi nhận bảo hiểm, các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất.
- Nó nhỏ hơn doanh nghiệp có thể phải xem xét lại cơ cấu khi tính phí.
Các chỉ tiêu trên được tính cho từng nghiệp vụ, từng sản phẩm, từng loại
hình bảo hiểm hoặc tính chung cho toàn bộ DNBH trong năm tài chính. Ngoài ra
trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp còn cần phải xem xét tỷ lệ duy
trì hợp đồng bảo hiểm.
• Tỷ lệ duy trì hợp đồng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
……………………………………………………………………………
18
Vì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng dài hạn, chi phí cho khai thác và
phát hành hợp đồng chiếm tỷ lệ lớn, các năm sau chỉ phát sinh chi phí thu phí và
quản lý hợp đồng. Ngoài ra tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng còn ảnh hưởng đến hoạt động
đầu tư, khả năng thanh toán do mất cân đối dòng tiền.
• Tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
……………………………………………………………………………
3.5 Nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả kinh doanh trong doanh
nghiệp bảo hiểm
- Kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp nói chung cũng như trong một
doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng thể hiện chủ yếu ở 2 chỉ tiêu: doanh thu và lợi
nhuận
+ Doanh thu: kinh doanh bảo hiểm gốc, hoa hồng nhượng tái, thu khác…
+ Lợi nhuận: trước thuế, sau thuế,…
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh trong một doanh nghiệp bảo
hiểm được đo bằng tỷ số giữa kết quả đạt được trong kỳ so với chio phí bỏ ra trong
kỳ hoặc ngược lại.
Bởi vậy nếu có “n” chỉ tiêu phản ánh hiệu quả và “m” chỉ tiêu phản ánh chi
phí, thì sẽ có “2nm” chỉ tiêu hiệu quả.

Hiệu quả Doanh thu=………
Ý nghĩa là cứ một đồng chi phí bỏ ra trong năm tham gia tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu.
Hiệu quả Lợi nhuận=…………
19
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH TẠI
CÔNG TY BẢO VIỆT NAM ĐỊNH TRONG THỜI GIAN QUA.
I. Thực trạng công tác lập báo cáo tài chính của công ty trong thời gian
qua.
1. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty thời gian qua
Bảng 3: Hoạt động kinh doanh của công ty
TT Chỉ tiêu Đơn vị 1999 2000 2001 2002 2003
1 Doanh thu triệu đ 5408.3 5480 6087.3 7233.3 11055.7
2
Tốc độ tăng trưởng Đầu
tư % 3 1 10 19 53
3 Tỷ lệ bồi thường % 45.8 48.6 81.8 49.6 36
4
Tỷ lệ chi giao dịch % 9.5 10.2 10.3 9.5 10.4
Tỷ lệ chi quản lý % 4.1 3.7 3.9 3.4 3.4
Chi khác % 5.4 6.5 6.4 6.1 7
5
Hiệu quả kinh doanh triệu đ 1720.6 1151.7 -498.4 967.4 2000
Tỷ lệ hiệu quả KD % 31.81 21 -8.2 13.4 18.1
6
Năng suất
DT/bình quân cán bộ
triệu đ 270.6 274.4 320.4 380.2 581.9
Hiệu quả/ bình quân CB triệu đ 86 57.6 -26.2 50.9 105.3

7 Thu nhập bình quân đ/ng/tháng 1471299 1762034 1333313 1786189 2020485
Nguồn: Công ty Bảo Việt Nam Định
- Doanh thu năm sau cao hơn năm trước, từ năm 2001 doanh thu bắt đầu
tăng mạnh (>1 tỷ/năm) đặc biệt năm 2003 doanh thu so với năm 1999 đã tăng hơn 2
lần. Nguyên nhân: thu bảo hiểm xe máy tăng đột biến do. Chính phủ ban hành
Nghị quyết 15 về quy chế xử phạt vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông
công ty đã đón bắt thời cơ tổ chức cho CBNV, huy động toàn bộ mạng lưới đại lý
bán bảo hiểm xe máy đạt hiệu quả cao.
- Cũng như doanh thu, tốc độ tăng trưởng doanh thu trong năm qua theo
hướng ngày càng tăng và bền vững từ năm 2001 tốc độ tăng trưởng đã đạt mức hai
con số, năm 2003 mức tăng trưởng đạt 53%,so với năm 1999 mức tăng trưởng
118,99%.
20
- Tỉ lệ chi bồi thường trong năm qua của Bảo hiểm Nam định phụ thuộc vào
những tổn thất bất thường của nghiệp vụ tầu thuỷ và hàng hoá, các nghiệp vụ con
người và trách nhiệm mức bồi thường các năm không biến động lớn, thậm chí năm
sau còn thấp hơn năm trước do công tác đề phòng hạn chế tổn thất được thực hiện
sâu rộng và đồng bộ nên hạn chế dược rủi ro và trục lợi trừ năm 2001 Bảo hiểm
Nam định bồi thường 81,8% [do tổn thất tầu cá và container hàng ] còn các năm
khác tỷ lệ chi bồi thường đều dưới mức 50%, riêng năm 2003 tỷ lệ chi bồi thường
đạt mức thầp nhất 36%.
- Hiệu quả kinh doanh trong 5 năm qua luôn biến động, phụ thuộc vào những
vụ bồi thường lớn của nghiệp vụ tầu cá và hàng hoá XNK cụ thể năm 2001 do hậu
quả của thời tiết, công ty bồi thường cho 01 đôi tầu cá bị đắm và 01 conntainer
hàng bị sóng lớn cuốn xuống biển đưa mức chi bồi thường của công ty lên tới 81%
dẫn đến hiệu quả kinh doanh – 498 triệu, các năm còn lại hiệu quả kinh doanh
tương đối cao năm 2003 ước tính hiệu quả kinh doanh đạt 2 tỷ đồng.
- Tỉ lệ chi quản lý 5 năm qua đều xấp xỉ mức cho phép của Công ty (9,6%),
hai năm 2000-2001 thực hiện những biện pháp chống cạnh tranh (đã trình Tổng
Công ty)nên Công ty đạt chi vượt 0,6-0,7%, năm 2002 mức chi dưới quy định, năm

2003 là 10,4% vẫn là dưới mức cho phép vì ngoài định mức 9,6% công ty còn được
chi thêm 4% doanh thu do đại lý đem lại.
- Các khoản chi giao dịch tiếp khách,tuyên truyền quảng cáo là những khoản
chi quan trọng góp phần thúc đẩy doanh thu, gữi vững và mở rộng thị phần, thúc
đẩy quá trình kinh doanh. Do nhận thức rõ các khoản chi phải mang lại hiệu quả
kinh doanh (dành dịch vụ, dành và giữ khách hàng, mở rộng thị phần ) nên những
năm qua tỷ lệ chi có xu hướng ngày càng giảm từ 4,1%năm 1999 xuống còn 3,4%
năm 2002-2003.
- Năng suất lao động: Đây là chỉ tiêu thể hiện, quy mô, mức độ lớn mạnh của
công ty, trình độ cán bộ thông qua hiệu quả đầu tư vào thị trường, khả năng nắm
bắt thời cơ khai thác, giành dịch vụ để có doanh thu bình quân đầu người ngày càng
lớn, cụ thể năm 1999 bình quân mỗi cán bộ khai thác 284,6 triệu đồng/năm, dến
năm 2003 mức doanh thu bình quân trên đầu người là 581,9 triệu đồng/năm, tăng
204,46%so với năm 1999.
21
- Đời sống CBNV: Trong năm qua đời sống CBNV luôn được cải thiện, thu
nhập bình quân đầu người nâng lên rõ rệt, so với năm 1999lương bình quân của
CBNV năm 2003 đã tăng 37,35% đạt hơn 2 triệu đồng/người/ tháng.
Rõ ràng, muốn đời sống CBNV cao, phải đổi mới quản lý, tích cực khai thác,
triển khai nghiệp vụ mới, giữ vững và mở rộng thị phần, nâng cao năng xuất lao
động, kinh doanh có hiệu quả.
2. Chế độ kế toán và chính sách kế toán chung áp dụng
2.1. Cơ sở lập báo cáo tài chính của công ty
Các báo cáo tài chính được lập bằng Đồng Việt Nam (VNĐ) theo nguyên tắc
giá gốc và phù hợp với Chế độ kế toán Việt Nam áp dụng cho các doanh nghiệp bảo
hiểm. Trong năm 2005, Công ty đã thực hiện thay đổi một số chính sách kế toán
chủ yếu liên quan đến hoạch toán doanh thu, phải thu, chi phí, phải trả theo Quyết
định số 150/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc
sửa đổi Chế độ Kế toán Doanh nghiệp bảo hiểm ban hành kèm theo Quyết định số
1296 TC/QĐ/CĐKT ngày 31 tháng 12 năm 1996.

Các nghiệp vụ tái bảo hiểm và đầu tư vốn được thực hiện tập trung tại Văn
phòng Công ty.
Các chi nhánh của công ty thực hiện hoạch toán phụ thuộc. Báo cáo tài chính
của toàn công ty được lập trên cơ sở cộng hợp tác Báo cáo tài chính của các chi
nhánh, Báo cáo tài chính của Văn phòng Công ty và Báo cáo tài chính của phòng
quản lý các Phòng bảo hiểm khu vực Nam Đính sau khi bù trừ công nợ nội bộ.
Báo cáo tài chính kèm theo không nhằm phản ánh tình hình tài chính, kết quả
hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ theo các nguyên tắc và thông
lệ kế toán được chấp nhận chung tại các nước khác ngoài Việt Nam. Báo cáo tài
chính được dịch sang tiếng Anh từ báo cáo tài chính phát hành tại Việt Nam bằng
tiếng Việt.
 Quy trình lên báo cáo tài chính của công ty như sau:
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………
2.2. Áp dụng các chuẩn mực kế toán
Trong thời gian gần đây,Công ty đã áp dụng các chuẩn mực kế toán (“VAS”)
22
như sau:
VAS 02
VAS 03
VAS 04
VAS 14
Hàng tồn kho
Tài sản cố định hữu hình
Tài sản cố định vô hình
Doanh thu và thu nhập khác
VAS 04 đưa ra hướng dẫn tổng quát đối với kế toán tài sản cố định vô hình.
Việc hoạch toán kế toán chi tiết tài sàn cố định vô hình cùa Công ty được trình bày
ở phần sau đây. Ành hưởng cơ bản của việc áp dụng VAS 04 là các chi phí trước
hoạt động của Công ty được giảm vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh tại

thời điểm đầu năm vì vhi phí này không áp dụng đủ các tiêu chuẩn là tài sản cố định
vô hình nữa. Tuy nhiên, sự thay đổi chính sách kế toán này không ảnh hưởng đến
lợi nhuận của năm tài chính kết thúc ngày 31/12/2006 vì chi phí trước hoạt động đã
khấu hao hết theo các chính sách kế toán trước đây của công ty. Tại thời điểm kết
thúc năm 2006, Công ty đã ghi giảm toàn bộ nguyên giá tài sản cố định vô hình đã
khấu hao hết .
2.3. Ghi nhận doanh thu
Doanh thu hoạt động bảo hiểm gốc được ghi nhận trên cơ sở đã phát hành
hoá đơn giá trị gia tăng. Hoá đơn giá trị gia tăng được phát hành khi đã cấp đơn bảo
hiểm hoặc có xác nhận chắc chắn thu được tiền. Các đơn bảo hiểm đã phát hành
chưa phát sinh trách nhiệm bảo hiểm được phản ánh tại tài khoản ngoài bảng cân
đối kế toán của công ty.
Doanh thu từ các hoạt động đầu tư được ghi nhận trên cơ sở thực thu được.
2.4. Thuế
Công ty có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 32%.
Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2006 là số thuế tạm tính dựa trên cơ sở
lợi nhuận kế toán của năm 2002 trừ đi lãi công trái xây dựng Tổ Quốc.
Thuế suất giá trị gia tăng (GTGT) là 10% áp dụng đối với doanh thu bảo
hiểm gốc, riêng loại hình bảo hiểm con người không thuộc đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng.
Thuế GTGT đầu vào của nghiệp vụ bồi thường bảo hiểm, công ty khấu trừ
23
như sau:
- Nếu có hoá đơn GTGT khấu trừ thì khấu trừ theo tỷ lệ ghi trên hoá đơn
- Nếu không có hoá đơn GTGT khấu trừ thì tỷ lệ 3% trên tổng giá trị bồi
thường đối với những hóa đơn phát sinh trước ngày 30 tháng 9 năm 2006 và khấu
trừ 1% trên tổng giá trị bồi thường đối với các hoá đơn phát sinh từ ngày 01 tháng
10 năm 2006
2.5. Tài sản cố định hữu hình
Tài sản cố định hữu hình được trình bày theo nguyên giá trừ đi hao mòn luỹ

kế.
Nguyên giá tài sản cố định mua sắm bao gồm giá mua và toàn bộ các chi phí
liên quan trực tiếp đến việc tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
Nguyên giá tài sản cố định do các nhà thầu xây dựng bao gồm giá trị công
trình hoàn thành bàn giao,và các chi phí liên quan trực tiếp khác
Tài sản cố định hữu hình được khấu hao theo phương pháp đường thẳng dựa
trên thời gian sử dụng ước tính, phù hợp với Quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày
30 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính. Tỷ lệ khấu hao hang năm như
sau:
Tài sản Tỷ lệ (%)
Nhà cửa, vật kiến trúc
Phương tiện vận tải
Thiết bị văn phòng
5
14-17
33,3
* Tài sản cố định vô hình và hao mòn tài sản cố định
Tài sản cố định vô hình thể hiện giá trị quyền sử dụng đất đai tại các chi
nhánh, được trình bày theo nguyên giá trừ đi hao mòn luỹ kế và được khấu trừ trong
vòng 25 năm.
2.6. Dự phòng nghiệp vụ
Dự phòng phí: Mức trích lập quỹ dự phòng phí đối với các loại hình vận
chuyển hang hoá được tính bằng 17% phí giữ lại, còn đối với những loại hình bảo
hiểm khác là 40% phí giữ lại của năm.
Dự phòng bồi thường: Công ty thực hiện trích lập theo phương pháp từng hồ
24
sơ. Đối với các loại hình đã phát sinh tổn thất nhưng chưa thanh toán bồi thường,
mức trích lập dự phòng dựa trên số tổn thất ước tính thuộc trách nhiệm bảo hiểm
gốc theo từng hồ sơ. Đối với các loại hình bảo hiểm khác như chưa có hồ sơ tổn thất
thì mức trích lập dự phòng là 10% phí giữ lại trong năm.

Dự phòng dao động lớn: Năm 2006, mức trích lập dự phòng dao động lớn
được áp dụng thống nhất đối với tất cả các loại hình nghiệp vụ là 5% phí giữ lại.
2.7. Dự phòng phải thu khó đòi
Dự phòng phải thu khó đòi được trích lập cho các khoản công nợ về bảo
hiểm gốc phát sinh từ năm 2003 trở về trước.
Các loại dự phòng khác như dự phòng giảm giá chứng khoán: được trích lập
cho các cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán khi giá trị khớp lệnh
của các loại cổ phiếu này tại ngày 31/12/2006 thấp hơn giá trị ghi sổ
2.8. Chi phí
Chi phí bồi thường bảo hiểm gốc được ghi nhận trên cơ sở thực chi.
Chi phí hoa hồng bảo hiểm gốc được ghi nhận trên cơ sở thực trích đối với
các khoản doanh thu đã thu được tiền.
Chi phí quản lý, chi phí bán hang được ghi nhận trên cơ sở thực chi.
Các khoản Ký quỹ: Trước đây công ty ký quỹ theo quy định. Tuy nhiên số
ký quỹ này chưa đủ 5% trên vốn pháp định như quy định tại Nghị định số 43/2001/
NĐ-CP ngày 01/08/2001 của Thủ trưởng Chính phủ quy định chế độ tài chính đối
với doanh nghiệp bảo hiểm.
3. Hệ thống báo cáo tài chính của công ty.
Theo chế độ kế toán áp dụng tại công ty hiện nay (kỳ kế toán công ty được
xác định theo từng quý) nên cuối mỗi quý công ty phải tiến hành tổng hợp số liệu
và lập báo cáo tài chính theo quy định. Các báo cáo tài chính chủ yếu của công ty
bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Hệ thống báo cáo này sẽ được gửi kèm với báo cáo kế toán tới cơ
quan sau: Tổng công ty BVNĐ, tổng cục thuế TP Nam Định, cục tài chính doanh
nghiệp, tổng giám đốc công ty.
3.1. Bảng cân đối kế toán
Nội dung:Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính chủ yếu phản ánh
25

×