Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Nhà nước và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.27 KB, 45 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của Nhà nước có vài trò vô cùng quan trọng trong quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại. Trong một xã hội có giai cấp, Nhà nước
không chỉ là người đại diện cho giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích cho giai cấp
thống trị mà ở một mức độ nhất định, còn là người đại diện cho lợi ích chung
của xã hội. Nhà nước là nhân tố điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đặc biệt là nền
kinh tế thị trường. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu ở các
nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị
trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi
nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội
phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới
giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư
bản mà nó là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử.
Từ đại hội VI của Đảng (năm 1986) đất nước ta thực hiện đường lối đổi
mới, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 20 năm đổi
mới, Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế cũng như xã
hội, được công nhận trên toàn thế giới . Tuy nhiên trong các Văn kiện của
Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4 nguy cơ thách thức đối với
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó “chệch hướng xã
hội chủ nghĩa” được đánh giá là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực
hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà
nước, là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sư phát triển nhanh
chóng của khoa học - công nghệ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước thì
không thể giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc


tế. Vì thế kết hợp hài hoà giữa sự vận hành của cơ chế thị trường với sự điều
tiết của Nhà nước là cần thiết và là giải pháp mang lại thành công trên con
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, Nhà nước giữ vai trò định hướng tạo
“hành lang” pháp lý và môi trương đầu tư để các chủ thể có thể có thể phát
huy tính năng động, sáng tạo của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng về Nhà nước và vai trò của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường nên em đã chọn đề tài “Nhà nước và vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta’’ Là một sinh viên năm
nhất nên tầm hiểu biết, nhận thức và lý luận của em còn nhiều hạn chế . Bởi
vậy em rất mong được sự giúp đỡ và đóng goáp ý kiến của thầy giáo và các
bạn để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I.Lý luận chung về Nhà nước
1. Các quan điểm trước Mác về Nhà nước
1.1. Thời kỳ cổ trung đại
Trong thời kỳ này, đã có nhiều nhà tư tưởng tiếp cận và đưa ra những
kiến giải khác nhau về nguồn gốc Nhà nước.
Các nhà tư tưởng thuyết thần học cho rằng thượng đế chính là người sắp
đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra Nhà nước nhằm bảo vệ trật tự
chung, Nhà nước là một sản phẩm của thượng đế.
Các nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng đã cố gắng chứng minh rằng
Nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia
trưởng, thực chất Nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và
quyền lực Nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên hình thức
tổ chức tự nhiên của xã hội loài người.
1.2. Thời kỳ trung đại
Thời kỳ này đánh dấu bằng hàng loạt quan điểm mới về Nhà nước. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên
chưa giải thích được cội nguồn vật chất và bản chất giai cấp của Nhà nước.

Đa số các học giả tư sản đều tán thành quan điểm cho rằng sự ra đời của
Nhà nước là sản phẩm của một khế ước (hợp đồng) được ký kết trước hết
giữa những con người sống trong tự nhiên không có Nhà nước. Chủ quyền
Nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp Nhà nước không giữ được vai
trò của mình.các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và
nhân dân có quyền lật đổ Nhà nước và ký kế khế ước mới. Tiêu biểu cho
Thuyết khế ước xã hội là các nhà tư tưởng tư sản như Jean Bodin, Thomas
Hobben, John Locke, S.L Montesquieu,...
Thuyết bạo lực cho rằng Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến
tranh xâm lược chiếm đất,là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với các thị
tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc
biệt - Nhà nước - để nô dịch kẻ chiến bại.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các học giả của thuyết tâm lý quan niệm Nhà nước xuất hiện do nhu cẩu
về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh,
giáo sỹ,…
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác về Nhà nước
2.1. Nguốn gốc, bản chất, đặc trưng, chức năng, kiểu và hình thức Nhà
nước
2.1.1. Nguồn gốc Nhà nước
Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác Lênin được thể
hiện rõ nét trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình,của chế độ tư hữu và của
Nhà nước” của Ăngghen. Đây là tác phẩm được phát triển từ tư tưởng “Quan
niệm duy vật về lịch sử” của Mác, tiếp thu và phát triển những thành tựu
nghiên cứu “xã hội cổ đại” của nhà bác học Mỹ - Lewis H.morgan.Với quan
điểm biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin đã chứng một cách
khoa học rằng Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải
hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn luôn vận động, phát
triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển
của chúng không còn nữa. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã

phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan
rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Nhà nước chỉ xuất hiện nơi nào và thời
gian nào khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.
Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có Nhà nước:
Trong chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ là hình thái kinh tế xã hội đầu tiên trong
lịch sử nhân loại, một xã hội không có giai cấp, chưa có Nhà nước. Nhưng
những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước lại nảy sinh chính trong
xã hội đó. Vì vậy, việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thuỷ sẽ làm cơ
sở để giải thích nguyên nhân làm phát sinh Nhà nước sau này.
Cơ sở kinh tế của xã hội cộng sản nguyên thuỷ là chế độ tư hữu chung về
tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Mọi người đều bình đẳng trong lao
động và hưởng thụ, không ai có tài sản riêng, không có người giàu kẻ nghèo,
không có sự chiếm đoạt tài sản của người khác.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tế bào cơ sở của xã hội không phải là gia đình mà là thị tộc. Thị tộc là
một tổ chức lao động và sản xuất,một đơn vị kinh tế xã hội. Trong thị tộc mọi
người đều bình đẳng, không một ai có đặc quyền đặc lợi. Trong thị tộc đã tồn
tại sự phân công lao động, nhưng mới chỉ là sự phân công lao động tự nhiên
giữa đàn ông và đàn bà, giữa người già và trẻ nhỏ chứ chưa mang tính xã hội.
Thị tộc tổ chức theo huyết thống. Ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh
tế, xã hội và hôn nhân, do phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ
trong thị tộc, các thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần dần, sự phát
triển của kinh tế xã hội đã làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, mặt khác địa
vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông đã giữ vai trò
chủ đạo trong đời sống và chế độ mẫu hệ chuyển thành chế độ phụ hệ.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực và hệ thống
quản lý các công việc của thị tộc. Nhưng quyền lực trong xã hội cộng sản
nguyên thuỷ mới chỉ là quyền lực xã hội, chưa mang tính giai cấp và hệ thống
quản lý còn rất đơn giản. Quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà nó gắn liền với

xã hôi, do toàn xã hội tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho cả cộng đồng.
Để tổ chức và quản lý thị tộc, đã xuất hiện hình thức hội đồng thi tộc.
Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực cao nhất trong thi tộc. Trong đó mọi
người lớn tuổi không phân biệt đàn ông hay đàn bà, đều là thành viên của hội
đồng thị tộc. Hội đồng có quyền quyết định tất cả các vấn đề quan trọng của
thị tộc. Các quyết định của hội đồng thị tộc thể hiện ý chí chung và có tính bắt
buộc chung đối với mọi người. Hội đồng thị tộc bầu ra những người đứng đầu
thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh quân sự… để thực hiện quyền lực và quản lý
các công việc chung. Họ có quyền lực rất lớn nhưng quyền lực đó hoàn toàn
không dựa vào bộ máy cưỡng chế đặc biệt mà dựa vào tập thể cộng đồng trên
cơ sở uy tín cá nhân, sự tín nhiệm của các thành viên. Những người đứng đầu
thị tộc không hề có đặc quyền đặc lợi so vơí các thành viên khác trong thị tộc.
Họ cùng chung sống, lao động và hưởng thụ như mọi thành viên và phải chịu
sự kiểm tra của cộng đồng. Họ có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào nếu mất uy
tín và không được tập thể ủng hộ.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhiều yếu tố tác động trong đó có tác động của chế độ ngoại tộc hôn, đòi
hỏi các thị tộc phải mở rộng các quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất
hiện các bào tộc và bộ lạc.
Bào tộc là một liên minh bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Tổ chức quyền
lực của bào tộc dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức quyền lực thị tộc, sự
tập chung quyền lực ở mức độ cao hơn.
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc. Tổ chức quyền lực trong bộ lạc cũng dựa
trên cơ sở những nguyên tắc của tổ chức thị tộc và bào tộc nhưng mức độ tập
trung quyền lực cao hơn. Tuy nhiên, quyền lực vẫn mang tính xã hội, chưa
mang tính giai cấp.
Sự tan rã của thị tộc và sự xuất hiện của Nhà nước
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề làm thay
đổi phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ và sự phân công lao động tự
nhiên phải được thay thế bằng phân công lao động xã hội. Lịch sử đã trải qua

ba lần phân công lao động xã hội lớn, mỗi lần lại có những bước tiến mới làm
sâu sắc thêm quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ.
Lần đầu tiên trong xã hội thị tộc có sự phân công lao động xã hội lớn,
nghề chăn nuôi dần dần trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi
ngành trồng trọt. Lần phân công lao động này làm cho xã hội có những biến
đổi sâu sắc. Năng xuất lao động tăng nhanh, sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều, của cải làm ra nhiều hơn cả nhu cầu duy trì cuộc sống của chính bản
thân. Do đó, đã xuất hiện sản phẩm dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt
những sản phẩm dư thừa đó. Chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành
người giàu, kẻ nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện làm thay đổi chế độ hôn nhân.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế chế độ quần hôn. Gia đình cá
thể ra đời.
Thủ công nghiệp ra đời và phát triển dâẫ đến lần phân công lao động
thưứhai là thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, đẩy nahnh quá trình phân
hóa xã hội. Sau lần phân công lao động xã hội đàu tiên nô lệ đã ra đời nhưng
còn lẻ tẻ, thì nay đã trở thành bộ phận cấu thành chủ yếu của hệ thống xã hội.
Mâu thuẫn giai cấp ngày càng tăng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự ra đời của sản xuất hang hóa làm cho thương nghiệp phát triển đã dẫn
đến sự phân công lao động xã hội lần thứ 3. Lần phân công lao động xã hội
này làm xuất hiện một giai cấp không còn tham gia vào sản xuất mà chỉ làm
công việc trao đổi sản phẩm nhưng lại chiếm toàn bộ quyền lãnh đạo sản xuất
và buộc ngưòi sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế và bóc lột cả người
lao động lẫn người tiêu dung. Sự ra đời và bành trường của thương mại đã
kéo theo sự xuất hiện của đồng tiền, nạn cho vay nặng lãi, quyền tư hữu về
ruộng đất và chế độ cầm cố.
Tất cả những yếu tố mới xuất hiện nói trên đã làm đảo lộn đời sống thị
tộc. Chế độ thị tộc đã tỏ ra bất lực và phải nhường chỗ cho sự ra đời của Nhà
nước.
Tổ chức thị tộc, vốn sinh ra và tồn tại trong một xã hội không biết đến

mâu thuẫn nội tại, thì nay một xã hội mới ra đời do ba lần phân công lao động
xã hội đã phân chia xã hội thành các giai cấp đối lập nhau, luôn mâu thuẫn và
đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội mới
đòi hỏi phải có một tổ chức đủ sức dập tắt các cuộc xung đột công khai giữa
các giai cấp và giữ cho xã hội trong vòng “trật tự”. Chính vì vậy, Nhà nước
xuất hiên. Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của cả một
xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước không phải là một
quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội mà là “một lực lượng nảy sinh từ xã
hội” có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột ấy có “trật
tự”. Lênin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà
được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”. Nhà nước chỉ ra
đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ bị
mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
2.1.2. Bản chất của Nhà nước
Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong
vòng trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất - giai
cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy Nhà
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nước. Nhờ có Nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt
chính trị, và do đó có thêm những phương tiện mới đẻ đàn áp và bóc lột giai
cấp khác. Theo Mac và Anghen thì Nhà nước về bản chất “Nhà nước chẳng
qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác”
(1)
được thể hiện trên hai mặt phương diện là giai cấp và xã hội. Xét về
phương diện tính giai cấp thì Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt của giai
cấp cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để thực hiện sự thống trị giai cấp,thiết

lập và duy trì trật tự giai cấp trong xã hội. Không có và không thể có Nhà
nước đứng trên các giai cấp hoặc Nhà nước chung cho mọi giai cấp. Thực tế
lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như
thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, Nhà nước
trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị.tuy nhiên cũng có trường hợp, Nhà nước giữ được một mức
độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp đối địch, khi cuộc đấu tranh giữa
chúng đạt tới thế cân bằng nhất định, hoặc Nhà nước cũng có thể thực hiện sự
thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa những giai cấp để chống lại một giai cấp
khác.những trường hợp trên có tính chất ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển
của nền kinh tế - xã hội nói chung và của cuộc đấu tranh giai cấp thù địch với
nhau,sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự
thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp thù địch với nhau, sẽ phá vỡ sự thỏa hiệp
tạm thời giữa các giai cấp với nhau và tất yếu sẽ tập trung quyền lực vào tay
một giai cấp nhất định. Xét về phương diện tính xã hội thì Nhà nước là bộ
máy quan trọng nhất của kiền trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp, Nhà
nước còn phản ánh lợi ích của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội thể
hiện ở việc Nhà nước bao giờ cũng là công cụ để đảm bảo những điều kiện
cho quá trình sản xuất của xã hội, là công cụ đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, là công cụ chủ yếu giai quyết các vấn đề nảy sinh từ xã hội.
Nhà nước không thể là Nhà nước điều hoà sự xung đột, mà trái lài, nó
càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Theo đó thì Nhà nước là
bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.
Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do Nhà nước tiến hành, xét
cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
(1)
Mác - Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.22, tr.290-291.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vậy Nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
2.1.3. Đặc trưng của Nhà nước

Bản chất của Nhà nước thể hiện ở đặc trưng của nó.Bất kỳ Nhà nước nào
cũng có 3 đặc trưng cơ bản sau:
Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Khác với tổ chức bộ lạc, thị tộc nguyên thuỷ, thì ở đây quyền lực Nhà
nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết
thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng
đồng với Nhà nước. Mỗi Nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc
gia nhất định.
Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chê đối với mọi thành viên trong xã hội
Khác với cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, Nhà
nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp.
Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt như: quân đội, cảnh
sát, nhà tù… và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực
của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế
bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và
các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng
bức để nuôi sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khoá, cống nạp như vậy hàon
toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn
liền với hình thức tổ chức Nhà nước.
Bằng các hình thức khác nhau như vậy, Nhà nước của giai cấp bóc lột
không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện bóc
lột của giai cấp bóc lột
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.1.4. Chức năng cơ bản của Nhà nước
Bản chất giai cấp của Nhà nước còn được thể hiện ở các chức năng của
nó.tùy theo góc độ khác nhau, chức năng của Nhà nước được phân chia khác

nhau. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị, Nhà nước có chức năng
thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác
động của quyền lực, Nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp - chức năng giai cấp - là chức
năng Nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự
thống trị của giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của Nhà
nước bắt nguồn từ lí do ra đời của Nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu
của nó.
Chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng Nhà nước thực hiện sự
quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu
cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của Nhà nước.
Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất,
chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị.Giai cấp
thống trị bao giờ cũng biết giới hạn chức năng xã hội trong khuôn khổ lợi ích
của mình.Song, chức năng giai cấp chỉ có thể được thực hiện thong qua chức
năng xã hội. Ph.Angghen viết: “Ở khắp nơi,chức năng xã hội là cơ sở của sự
thống trị chính trị,và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn
thực hiện chức năng xã hội đó của nó”.
(2)
Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã
hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm, và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được
xá lập.
Chức năng đối nội và chức năng đói ngoại
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước thể
hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
Chức năng đối nội của Nhà nước: nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội,
chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp
(2)
Sđd, t.20, tr.253

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thống trị, được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy Nhà nước. Ngoài ra,
Nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác (bộ máy thông tin, tuyên
truyền, các cơ quan văn hoá, giáo dục) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý trí của
giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của Nhà nước: Nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ
quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các Nhà
nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi
ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay thi
chức năng đối ngoại của Nhà nướccó tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước đều xuất phất từ
lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất,
chúng tấc động tới nhau và. liên quan tới nhau.
2.1.5. Các kiểu và hình thức Nhà nước
Kiểu Nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về
giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái
kinh tế - xã hội nào.
Mỗi kiểu Nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình
thức Nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức
thực hiện quyền lực Nhà nước.Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của
giai cấp thống trị.
Hình thức Nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của Nhà nước, bởi
tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp – xã hội, bởi đặc
điểm truyền thống chính trị của đất nước…
Các kiểu và hình thức Nhà nước trong lịch sử
Tương ứng với ba chế độ xã hội có đối kháng giai cấp trong lịch sử là
hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phong
kiến và hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa là ba kiểu Nhà nước: Nhà
nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến và Nhà nước tư sản. Tùy theo
tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu Nhà nước được

tổ chức theo những hình thức nhất định.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là Nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ
đại mà tiêu biểu là các hình thức lịch sử Nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã
cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể quý tộc và
chính thể dân chủ.các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế
hoạt động của tổ chức bộ máy Nhà nước, còn bản chất của chúng đều là Nhà
nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến: Đây là Nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến.
Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói
chung, ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức phổ biến.
Quyền lực Nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán.
Mỗi chúa phong kiến là một ông vua trên lãnh thổ của mình.Chúa phong kiến
nhỏ chỉ là chư hầu của chúa phong kiến lớn. Hoàng đế là chúa phong kiến lớn
nhất nhưng chỉ có thực quyền trên lãnh thổ của mình, ít có khả năng chi phối
các lãnh địa khác. Mối liên hệ thực sự giữa chúa phong kiến Châu Âu chủ yếu
được thiết lập bằng các hình thức liên minh của các Nhà nước cát cứ, trong đó
Thiên chúa giáo trở thành mối quan hệ tinh thần thiêng liêng giữa các tiểu
vương quốc phong kiến.
Ở phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Ấn Độ), hình thức quân chủ
tập quyền là hình thức Nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước
về ruộng đất. Trong Nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất
mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Tuy nhiên,
tính tập quyền đó trong thực tế lịch sử là dựa vào sức mạnh quân sự là chủ
yếu. Do vậy, nguy cơ cát cứ phân quyền luôn thường trực. Mỗi khi chính
quyền Nhà nước trung ương suy yếu thì nguy cơ cát cứ lập tức xuất hiện biến
thành các cuộc nội chiến tranh giành quyền lực giữa các thế lực địa chủ các
địa phương.
Dù tồn tại dưới bất cứ hình thức nào, Nhà nước phong kiến cũng chỉ là
chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền

phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống
trị nông nô.
Nhà nước tư sản: Đây là Nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dưới nhiều hình thức khác nhau,nhưng nói chung, chỉ có hai hình thức cơ bản
nhất là hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng
hòa lại được tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng hòa Đại nghị,
cộng hòa tổng thống trong đó hình thức cộng hòa Đại nghị là hình thức điển
hình và phổ biến nhất. Trong thực tế, nhằm thích úng với điều kiện lịch sử cụ
thể của mỗi quốc gia, các hình thức cụ thể của Nhà nước tư sản hiện đại lại có
sự khác nhau khá lớn, về chế độ bầu cử, chế độ tổ chức một viện hay hai viện,
về nhiệm kỳ tổng thống, về sự phân chia quyền lực giữa tổng thống và nội
các.
Hình thức Nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi
bản chất của nó - đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị
giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị
của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lenin đã chỉ ra: “Những hình thức của Nhà
nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một:chung quy lại
tất cả những Nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiện phải là nền chuyen
chính tư sản”.
Ngày nay Nhà nước tư sản hiện đại có vẻ bề ngoài như là những hình
thức và thể chế dân chủ nhất: nó tuyên bố quyền dân chủ và bình đẳng trước
pháp luật của mọi công dân, thừa nhận quyền của người lao động được ứng
cử vào các cơ quan quản lý Nhà nước. Song trong thực tế, đó chỉ là sự dân
chủ và bình đẳng có tính chất hình thức và hạn chế. Pháp luật bảo vệ tài sản
của giai cấp tư sản đưa ra những điều kiện mà người lao động khó vượt qua.
Và trong những cuộc bầu cử, giai cấp tư sản nắm trong tay mình bộ máy
tuyên truyền đồ sộ, chi những khoản tiền khổng lồ để cổ động cho người của
mình. Tính chất hình thức và hạn chế đó của dân chủ tư sản trước hết do chế

độ kinh tế tư bản chủ nghĩa - chế độ kinh tế do chế độ sở hữu tư bản tư nhân
chủ nghĩa quy định. Theo đó, từ dân chủ được chính thức tuyên bố, đến dân
chủ được thực hiện trong thực tế còn tùy thuộc vào cuộc đấu tranh của quần
chúng.
Song, trong khi chỉ ra những mặt hạn chế của dân chủ trong chủ nghĩa tư
bản hiện đại, cũng cần thấy trước khi có nền dân chủ vô sản, dân chủ đạt được
trong chủ nghĩa tư bản là nấc thang khá quan trọng trong sự tiến hóa của nền
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dân chủ trong lịch sử. Sự ra đời chế độ dân chủ tư sản là một bước tiến về
chất trong sự phát triển của Nhà nước. Ở đó, nó đã kết tinh được những giá trị
dân chủ được sang tạo ra trong thời kỳ trước khi giai cấp công nhan cầm
quyền, đồng thời thể hiện được những nhân tố mang tính nhân loại, mang tính
nhân dân chứa đựng trong một số chuẩn mực dân chủ đang được thực hiện ở
các nước tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển hợp quy luật của các giá trị đó là
những nhân tố nội nội tại dẫn tới phủ định chủ nghĩa tư bản. Nền dân chủ vô
sản với tư cách là nền dân chủ cao về chất so với dân chủ tư sản cũng chỉ ra
đời một khi biết kế thừa phát triển toàn bộ những giá trị dân chủ mà loài
người đã sáng tạo ra trong lịch sử, đặc biệt là những giá trị dân chủ đạt được
trong chủ nghĩa tư bản.
Mặt khác, chúng ta cũng phải thấy rằng, ngay ở những nước tư bản phát
triển khá cao trong thời kỳ hiện nay, không ít những yêu cầu dân chủ sơ đẳng
của người dân vẫn bị chà đạp. Vì vậy chỉ có thể đạt được một Nhà nước thật
sự dân chủ của nhan dân, khi xóa bỏ Nhà nước tư sản để xá lập Nhà nước xã
hội chủ nghĩa.
II.Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Hồ Chí Minh - người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trực
tiếp đứng đầu Nhà nước trong 24 năm, đã lãnh đạo nhân dân ta nhằm thực
hiện sứ mệnh lịch sử: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đi lên con

đường ấm no hạnh phúc, sánh vai với các nước tiên tiến trên thế giới.
Có thể nói quá trình đi tìm đường cứu nước của người cũng là quá trình
tìm kiếm một Nhà nước mới phù hợp với đất nước Việt Nam, với dân tộc Việt
Nam, bởi lẽ trong cuộc cách mạng, vấn đề chính quyền Nhà nước luôn luôn là
một vấn đề cơ bản.
Sau khi tìm được con đương cứu nước, Người đã tổ chức, lãnh đạo nhân
dân ta giành lấy tự do hạnh phúc độc lập cho tổ quốc. Ngay từ trước cách
mạng tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh đã chủ
trương thành lập chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa, ở các khu giải
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phóng lúc bấy giờ. Đến đầu tháng 8 năm 1945, mặc dù tình hình lúc đó hết
sức khó khăn, Người đã kiên quyết triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào, cử
gia Uỷ Ban dân tộc giải phóng Việt Nam - một tổ chức tiền chính phủ ra đời
bảo đảm tính hợp pháp của chinh quyền mới. Tháng 8 năm 1945, Hà Nội và
các địa phương trong toàn quốc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít
Nhật. Trước khi quân đội Đồng Minh đổ bộ vào miền Nam, Hồ Chí Minh đã
đọc bản tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba
Đình để tuyên bố với toàn thế giới và quốc dân đồng bào khai sinh của nước
việt nam mới - nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Chính phủ lâm thời đã ra mắt trước quốc dân Việt Nam và thế giới.
Tuyên ngôn độc lập là văn kiện chính trị đặc biệt, khẳng định độc lập tư do và
kiên quyết bảo vệ quyền tự do và độc lập đó.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là hợp hiến, hợp pháp. Chính
phủ lâm thời là hợp hiến, hợp công lý.
Trong phiên họp đầu tiên của chính phủ. Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiêm vụ
cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ 3 là “phải có một hiến pháp dân chủ” và đề
nghị sớm tổ chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Đó là việc
tiếp tục xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một Nhà nước dân chủ, hợp
pháp, một Nhà nước thực sự đại diện cho nhân dân, do toàn dân bầu cử ra và
quản lý xã hội bằng pháp luật. Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nươc việt nam

dân chủ cộng hoà được thực hiện ngày 6 tháng 1 năm 1946 và đã bầu ra quốc
hội đầu tiên của nước ta. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng
hiến pháp và pháp luật, khẳng định pháp luật của nước ta là ý chung của nhân
dân, của dân tộc Việt Nam. Người yêu cầu các cơ quan Nhà nước , cán bộ
viên chức Nhà nước từ trung ương đến địa phương phải gương mẫu chấp
hành pháp luật của đảng cầm quyền cũng phải hoạt động trong khuôn khổ
của hiến pháp và pháp luật. Người rất coi trọng việc đưa hiến pháp và pháp
luật vào thực hiện có hiệu quả trong cuộc sống.
Trong tư tưởng của Người luôn chứa những tư tưởng hết sức có giá trị.
Trong tư tưởng trị nước của Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuẫn giữa
“pháp trị”và “đức trị”. Người nói: “Nhà nước phải vừa giáo dục và sử dụng
pháp luật để cải tạo họ trở nên lương thiện”. Xây dựng và củng cố Nhà nước
Website: Email : Tel : 0918.775.368
pháp quyền, yêu cầu mọi người sống và làm việc tuân thủ theo pháp luật là
nội dung chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Bác nói: “Nhà
nước của ta là Nhà nước của dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân”,
“Vận mệnh quốc gia trong tay nhân dân”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước pháp quyền đã được phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của
Người. Người đã dành không ít tâm trí, nghị lực để xây dựng một Nhà nước
kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
1.2. Mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII. Đảng ta bước đầu đã
phác họa ra mô hình chủ nghĩa xã hội với sáu đặc tưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta cần xây dựng. Đó là một xã hội:
• Do nhân dân lao động làm chủ.
• Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
• Có nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
• Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo

nǎng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
• Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
• Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Sáu đặc trưng trên đây, bao quát cả sáu lĩnh vực: chính trị, kinh tế, vǎn
hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Gọi là đặc trưng, bởi lẽ đây là những khác
biệt so với mọi kiểu loại xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, những khác biệt
đem lại sự giải phóng hoàn toàn và triệt để cho dân tộc, cho xã hội và cho con
người.
Đảng ta cũng đã nêu ra bảy phương hướng cơ bản cần phải nắm vững
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Những phương
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hướng này cũng chính là con đường đưa chúng ta đi tới mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, con đường để từng bước hiện thực hóa mô hình chủ nghĩa xã hội
đã vạch ra.
Quá trình phác họa mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta gắn liền với việc đổi mới nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội, và từng bước kiểm nghiệm những nhận thức mới trong thực
tiễn. Tiêu chuẩn để đánh giá những nhận thức mới ấy là ở kết quả đã giành
được trong thực tiễn đổi mới, qua đó những nhận thức mới lại tiếp tục được
bổ sung, hoàn chỉnh. Riêng về mặt kinh tế, những nhận thức mới được thể
hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau đây: Muốn đi tới mục tiêu chủ nghĩa
xã hội, phải thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch theo kiểu cũ, phải kiên quyết
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị truờng có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói gọn lại thì đây là nền kinh tế thị
trường định huớng xã hội chủ nghĩa.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ
chế hoạt động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Nhà
nước; trong đó, quan niệm về Nhà nước pháp quyền là một tư tưởng nhất
quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền. Trong di sản lý
luận của mình, Hồ Chí Minh đã có lần chính thức sử dụng thuật ngữ “chế độ
pháp trị”. Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức,
điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp
luật là dân chủ, tiến bộ và có tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919,
tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm
liên quan đến vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con
người.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau này, bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển
thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là:

×