Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tư tưởng phân tích quan điểm của đảng cộng sản việt nam về cnh hdh lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.22 KB, 18 trang )

Quan điểm 3:
Phân tích quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về CNH-HDH:
“lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững”. Em hãy nêu nhận thức của mình khi
nghiên cứu quan điểm trên.
I/ Cơ sở khoa học của quan điểm
1. Cơ sở lí luận
1.1, Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về vai trò của cá nhân và quần chúng lịch sử.
a, Khái niệm quần chúng nhân dân:
Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo phương thức hành vi đơn
lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà theo phương thức liên kết những con người
thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ
chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội-cộng đồng đó chính là quần chúng nhân dân.
Những lực lượng cơ bản tạo thành quần chúng nhân dân bao gồm:
 Những người lao động tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần – dó là hạt nhân
cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân
 Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp áp bức thống trị áp bức, bóc lột, đối
kháng với cộng đồng nhân dân
 Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thơng qua hoạt
động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Ngồi ra, có thể tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà cộng đồng quần chúng nhân
dân cịn có thể bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp khác.
Vậy quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi
cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển
nhất định

1


b, Khái niệm cá nhân trong lịch sử


Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội
nhất định, và được phân biệt với những con người khác thơng qua tính đơn nhất và tính
phổ biến của nó.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, những cá nhân kiệt suất có vai trị đặc biệt
quan trong trong các tiến trình lịch sử, đó là: những vĩ nhân, lãnh tụ
Trong chủ nghĩa Mác-Lenin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những các nhân
kiệt suất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với
quần chúng nhân dân
Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, tin yêu, lãnh tụ
phải có những phẩm chất cơ bản sau:
 Có tri thức khoa học uyên bác nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch
sử
 Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân,thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và
phát triển của lịch sử.
 Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân
dân
Bất kỳ ở một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ
cần giải quyết thì phong trào quần chúng nhân dân tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp
ứng nhiệm vụ đó.
c, Vai trị của quần chúng nhân dân trong lịch sử
 Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã
hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người, của xã hội – đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của
mọi xã hội ở mọi thời đại, giai đoạn lịch sử
 Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân
dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp sáng tạo ra các giá
trị tinh thần của xã hội; là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp “ kiểm chứng”
các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và các cá nhân sáng tạo ra trong lịch
sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực có ý nghĩa quyết

định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội.
Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là

2


để phục vụ hoạt động quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực
một khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
 Thứ ba, quần chúng nhân dân là lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng và
các cuộc cải cách trong lịch sử. Lịch sử nhâ loại đã chứng minh rằng khơng
có cuộc cách mạng hay cuộc cải cách xã hội nào có thể thành cơng nếu
khơng xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Với ý
nghĩa đó, có thể nói: “Cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân”,
và trong ngày hội đó quần chúng sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai
mươi năm”. Như vậy những cuộc cách mạng hay cải cách xã hội cần đến
lực lượng của quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân
dân cũng cần có những cuộc cách mạng hay những cuộc cải cách xã hội.
Đó cũng là biện chững của q trình phát triển xã hội.
d, Vai trò của cá nhân trong lịch sử
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân khơng bao giờ có thế tách rời
vai trị cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vai trò thủ
lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lenin, “Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng
đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có những nhiệm vụ chủ yếu
sau:
 Nắm bắt xu thế vận động và phát triển của lịch sử
 Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng
 Tổ chức lưc lượng giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và

hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những muc tiêu
cách mạng đề ra.
 Kết luận:
Tuyệt đối hóa vai trị của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của các cá nhân,
hoặc tuyệt đối hóa vai trị của các cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tu, vĩ nhân mà xem
thường vai trò của quần chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên
cứu về lịch sử và do đó khơng thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển
của lịch sử nhân loại nói chung cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nói riêng
1.2 Quan điểm của HCM về vai trị của con người trong cách mạng
Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên
3


một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Tuy khơng có một
tác phẩm nào bàn riêng về con người, nhưng tư tưởng về con người lại được hiểu thật đa
dạng, phong phú, trở thành một tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vấn đề con người ln ln được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng, cao
cả nhất của sự nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng,
được toả sáng trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy toát lên nội dung quan niệm về con người
như sau:
–  Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời khơng q bằng nhân dân. trong thế giới khơng gì
mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vơ luận việc gì, đều do người làm
ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người cho rằng "việc dễ mấy khơng có
nhân dân cũng chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là người sáng tạo ra
mọi giá trị vật chất và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người
phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lịng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào
Đảng, không sợ gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm

bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn,
mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra"'.
Đặc biệt là lịng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí
Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân
tộc ta, với lịng u nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những
chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. "Lịng u nước và sự đồn kết
của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi".
–  Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng, chăm sóc,
phát huy nhân tố con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh
thấy rõ u cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội.
Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước
đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Người ra đi với ý chí "quyết giải
phóng gơng ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
4


cơm ăn, áo mặc, ai cũng được cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm
của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là "làm sao cho nước học hành".
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ
và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thơng kiểu tơn giáo; ngược lại, người có
niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính
bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm
đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người
là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước cịn nơ lệ,
lầm than thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc. Sau
khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh
lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì

độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì vậy chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có
ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc,
Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người".
Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích
trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với
hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải hết sức làm. Việc gì hại
cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần
chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất cả"…
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ
lực lượng: nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân khơng có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo
nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân
hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo
nên sức mạnh vơ địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo
của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

5


Hồ Chí Minh tin ở dân cịn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời cộng sản thì
phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản.
Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân
dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu thương
nhân dân. Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy

hiểm – bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc".
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, tồn thể
đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nơng dân. Điều này có ý nghĩa to lớn
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư
tưởng của Hồ Chí Minh lấy cơng – nơng – trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại
mới,đó là giai cấp cơng nhân. Chỉ có giai cấp cơng nhân với những đặc điểm chung và
riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp công
nhân chỉ có liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực
lượng hùng mạnh.
Khơng phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác
ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên
nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị,
văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người – động
lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người – động lực thì sẽ
nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là
chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền
thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè khơng dám nói. khơng dám làm,
khơng dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.

2. Cơ sở thực tiễn
2.1 cơ sở thực tiễn từ các nước trên thế giới
6



Suy cho cùng, tiềm năng sức lao động, con người với trí tuệ và lao động đã và đang là tài
sản quý giá nhất của mỗi quốc gia, là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển
của mỗi quốc gia. Vì thế mà trong chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con
người vào vị trí trung tâm, quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng
khai thác vào chính bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông á là
những cứ liệu lịch sử xác thực cho nhận thức về vấn đề này. Sự thành công của những
nước đó do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một ngun nhân mang tính đặc trưng
chung, đó là là họ đã nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu
tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động - đặc
biệt là các yếu tố văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về giáo dục và đào tạo,
coi đó là chìa khố của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của sự
nghiệp Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố.

Chẳng hạn, để chuẩn bị cho Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố, Hàn Quốc đã có kế hoạch
“Trí tuệ hố toàn dân”.
___Trường hợp của Hàn Quốc cho thấy, các nước nghèo muốn rút ngắn thời kỳ
CNH phải đầu tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực.
+ Trong thời kỳ 1980 – 1990, tuổi giáo dục trung bình của dân số nước này đã tăng tới
9,54
+ Giảm số người mù chữ tới mức không
+ Các trường Đại học cung cấp cho đất nước 3.211 tiến sỹ, 22.000 tốt nghiệp cao học
(tính đến 1992)
+ Số nhân lực R&D đã tăng từ 2765 (năm 1965) lên 70503 (năm 1990)
+ 1990: đầu tư 3.5 triệu USD để mời 100 nhà khoa học nước ngoài về giúp đỡ phát triển
khoa học công nghệ trong nước
Vấn đề phát triển nhân lực mà Hàn Quốc gặp phải
Hệ thơng giáo dục khơng linh hoạt để có thể đáp ứng nhu cầu của phát triển công nghiệp,
dẫn đến sự mất tương xứng giữa cung và cầu nhân lực.
Một trong những lý do mất tương xứng là do các trường đại học khơng có khả năng đáp
ứng trước các nhu cầu thay đổi


7


____ Còn Nhật Bản trong kế hoạch phát triển của mình đã đặt giáo dục vào hệ thống 3
chiến lược: “Giáo dục - Khoa học và mở cửa”.
Người Nhật Bản được biết đến là những người có lịng tự trọng bản thân cao, luôn
nghiêm túc và trách nhiệm trong công việc, văn hóa ứng xử, văn minh lịch sự trong từng
cá nhân và một tinh thần đoàn kết to lớn cả dân khiến cả thế giới nể phục. Bước vào cnh,
Nhật bản có lực lượng lao động đơng đảo, trình độ văn hóa khá cao, có kỹ năng nghề
nghiệp, được đào tạo nghề chuyên sâu như lao động kỹ thuật, quản lý. Bên cạnh đó,
chính phủ Nhật sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực như chế độ đãi ngộ, đặc biệt đối với
lao động suốt đời hay tạo môi trường làm việc, quan hệ lao động mang tính gia đình.
Trong việc tiếp cận với kỹ thuật tiên tiến phương Tây là sự kết hợp “kỹ thuật phương
Tây” với “Tinh thần Nhật Bản”. Bằng con đường nhập khẩu với nhiều hình thức khác
nhau: nhập khẩu trực tiếp cơng nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người
Nhật đi du học để tiếp thu những tri thức mới của phương Tây, và “nhập khẩu" cả chuyên
gia giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Số người nước ngoài đến làm việc tại Nhật
Bản ngày càng nhiều, từ cố vấn kỹ thuật, giáo viên, nhà đầu tư, cho đến nhà quản lý và
thợ lành nghề
Hay ở Đài Loan trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng
26,43 lần nhưng chi phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần...
Có thể nói rằng nền kinh tế xã hội của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ
vào sự phát triển nguồn lực con người. Kinh nghiệm của các nước này là bài học bổ ích
cho đất nước Viêt Nam cũng như các nước đang phát triển khác đang trong sự nghiệp
Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá đất nước.
2.2. Thực tiễn của Việt Nam
Nhìn lại tồn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh phúc của
con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm

tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố
gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có
nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân,
của những người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân,
ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên
vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì
lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ
8


nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng
quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền
ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm
sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Đảng ta
đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên
cơ sở đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp
ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng
đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con
người, của mục tiêu phát triển con người Việt Nam, tồn diện trong cơng cuộc xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Từ Đại hội VII, vấn đề phát triển nguồn nhân lực đã được Đảng ta chú trọng, coi đây là
động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền
vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục,
đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000 khẳng định: “Lấy việc phát
huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Mục tiêu
và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý

tưởng độc lập dân tộc và CNXH.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu
thế lớn), đơng (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ
lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất
các nước trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý
cao rất ít so với dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất
lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát và mất cân đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92
công nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của
Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng
gấp đôi của nước ta…

9


Dân số: Việt Nam có quy mơ dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu
Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố khơng đều và có sự khác biệt lớn
theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn cịn là cư dân nơng thơn (khoảng 68 % - năm
2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm
2013 đạt 73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm
trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc
của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các
nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Sin-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn
cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là
thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,…
cịn nhiều hạn chế.

Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu
thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt
nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705
người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng
của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học
trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân
của nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương
đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề.
Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường
khơng có việc làm, 37% số cịn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều
người khơng làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những
doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực
chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học
mà đang làm công tác quản lý; số bài báo khoa học được cơng bố hàng năm chỉ bằng
khoảng ¼ của Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng
năm nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đơi…
Về trình độ chun mơn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng
lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở
khu vực nơng thơn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4%
đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao
10


động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013
là 6,9% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là
khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh

tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là
2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75%
(trong đó thành thị là 1,48%, nơng thơn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo
bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm
việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm
2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là
68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chun mơn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và
phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thơng, cơng
nghệ thơng tin, sản xuất ơ tơ, xe máy, đóng tàu, cơng nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,
… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và
cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.
Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng con
người Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, có nhiều
ưu thế không được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng.

II/ phân tích nội dung các yếu tố tiến hành cơng nghiệp hóa
Sự thành cơng của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố địi hỏi ngồi mơi trường
chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngồi. Các
nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố nhưng mức độ tác động và vai trị của chúng đối với tồn bộ q trình
cơng nghiệp hố, hiện đại hố khơng giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố
quyết định.
-

Khái niệm nguồn lực con người

Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng năng lực của mỗi cá nhân và cộng

đồng đã và đang và sẽ tạo ra sức mạnh để thúc đẩy XH phát triển.
Nguồn lực con người bao gồm cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực

11


Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch
sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ,… nhiều nhà kinh doanh
nước ngoài khi đến tham quan Nhật Bản thường chỉ chú ý đến kỹ thuật, máy móc và coi
đó là ngun nhân tạo nên “kỳ tích Nhật Bản”. Nhưng họ đã nhầm, chính người Nhật
Bản cũng không quan niệm như vậy. Người Nhật cho rằng kỹ thuật và cơng nghệ có vai
trị rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn đến
thành công của họ là con người. Cho nên họ đã tập trung cao độ và có những chính sách
độc đáo phát triển yếu tố con người.

Ngày nay đối với những nước lạc hậu đi sau, khơng thể phát triển nhanh chóng nếu
khơng tiếp thu những tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nướcphát
triển. Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà khơng cần tính đến
yếu tố con người. Cần nhớ rằng, công nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ
phát huy tác dụng tốt hay bị lãng phí, thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào
yếu tố con người khi sử dụng chúng. Nhiều công ty chỉ chú ý đổi mới kỹ thuật và cơng
nghệ nhưng vì khơng chú ý đến yếu tố con người nên đều thất bại. Ông Victor S.L.Tan,
giám đốc của Ohostate University đã viết: “Điều mỉa mai lớn nhất cịn là ở chỗ, trong có
nhiều công ty đã cố thực hiện đổi mới, nhưng lại có ít cơng ty thực hiện đủ mức để đạt tới
thành công. Nhiều công cuộc đổi mới đã tiến hành nhưng thất bại vì các cơng ty đó đã
khơng đưa vào cấu tạo của kế hoạch đổi mới hoặc chương trình đổi mới của họ một nhân
tố khó nhất để thành công- con người.”
Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở Việt
Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi
vì:

_ Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ
tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội
khi được kết hợp với nguồn lực con người thơng qua hoạt động có ý thức của con người.
Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết “lợi dụng”
các nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng
tác động vào q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những
khách thể chịu sự cải tạo, khai thác của con người, hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu
cầu, lợi ích của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại”.

12


Chẳng hạn như vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố
nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm
trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Tương tự như vậy, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý
cũng sẽ mất ý nghĩa nếu chủ nhân của nó khơng có năng lực khai thác.
Ngày nay trước xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác đầu tư nước ngồi
cũng là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có điểm
xuất phát thấp, nhưng sức mạnh của “cái hích” này đến đâu, tác động tích cực của nó như
thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó.

Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn
lực đều trở nên vơ nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng khơng cịn lý do gì để tồn
tại.
_ Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn
lực con người lại là vơ tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà cịn
tự đổi mới khơng ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi

dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực
tiễn của con người phát triển như một quá trình vơ tận xét trên bình diện cộng đồng nhân
loại. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều
nguồn tài nguyên mới, nhiều cơng cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa xã hội chuyển qua
các nền văn minh từ thấp đến cao.
_ Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vơ cùng to lớn một khi nó được vật thể hố, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.MáC đã và đang trở thành
hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và công nghệ
hiện đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh
tế của trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể
sáng tạo ra những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc tính trí tuệ của
chính con người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật cơng nghệ hiện đại do chính bàn tay
khối óc con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ
trong lịch sử phát triển của mình.
_ Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chĩnh nước ta cho thấy sự thành
công của cơng nghiệp hố, hiện đại hố phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường
lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và
hoạt động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa công
13


nghiệp hố thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui
định quy mô của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hố thì mặt chất lượng, cơ
cấu và cơ chế sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho q
trình cơng nghiệp hố phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các
học giả, các nhà kinh doanh, các nhà kỹ thuật và cơng nghệ, các cơng nhân lành nghề…
khơng có các chính khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những chiến lược,
chính sách phát triển đúng đắn; khơng có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì cũng sẽ khơng có
người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng
hay kém cỏi của một trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho q

trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.

Qua tồn bộ phân tích trên có thể kế luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai
trị quyết định sự thành cơng của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Do
vậy, muốn cơng nghiệp hố, hiện đại hố thành cơng thì phải đổi mới cơ bản các chính
sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hố, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển
nguồn lực con người cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó
khăn nhất trong công cuộc đổi mới hiện nay.

III/ nhận thức của bản thân
1/ Đánh giá về quan điểm
Quan điểm trên hoàn toàn đúng đắn vì:
 Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững điều đó động viên tồn dân cần kiệm xây dựng đất nước, khơng ngừng tăng tích luỹ
cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với đời sống nhân dân, phát triển văn hoá,
giáo dục, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội. Cơng nghiệp hố, hiện đại hố khơng chỉ
địi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên... mà còn cần phải phát triển một cách tương
xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố bao gồm những con người có đức, có tài, ham học
hỏi, thơng minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ
quốc; được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mơ nền kinh tế và tồn xã hội,
có trình độ khoa học- kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố, phải coi việc
đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo
dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu
14


nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ

nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các
ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Việc xây dựng nguồn nhân lực cho cơng nghiệp
hố, hiện đại hố phải tiến hành với tốc độ, quy mơ thích hợp, đáp ứng u cầu của mỗi
thời kỳ trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Đi đơi với việc đào tạo, bồi dưỡng,
phải bố trí và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở
trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế cao, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Liên hệ trực tiếp với ngành tài chính ngân hàng:
 Các vấn đề về nhân lưc của ngành tài chính ngân hàng hiện nay
-Thừa nhân sự: những năm gần đây sinh viên đổ xô học ngành tài chính -ngân hàng do dư
âm của thời kỳtăng trưởng nóng trước năm 2008.Hầu như các trường đại học đều mở
khoa tài chính -ngân hàng. Bởi ngành nghề này vẫn được cho là”hot” mặc dù nhu cầu
nguồn nhân lực lại rấthạn chế
Hiện tại cung về số lượng lực lượng lao động trong lĩnh vực Tài chính-Ngân hàng đã
vượt xa nhu cầu thực tếcủa các tổchức tài chính -tín dụng, nhất là trình độ cử nhân. Theo
sốliệu của Viện Nhân lực Ngân hàng tài chính (BTCI), lượng sinh viên trong ngành ra
trường trong năm học 2012-2013 khoảng 29000 đến 32000 và đến năm 2016 là 61000
người. Số sinh viên được tuyển dụng khoảng 15000 đến 20000 người.
-Thiếu chất lượng:Theo đánh giá của NHNN, tỷ lệ đạo tạo trong ngành ngân hàng cao
hơn các ngành khác, tuy vậy tỷ lệ đào tạo chuyên ngành lại thấp hơn các ngành khác. Cụ
thể, nguồn nhân lực có trình độ đại học ngân hàng là 30,06%, ngành khác 34,9%, cao học
ngân hàng 1,35%, ngành khác 1,75%.Theo nhận định của nhiều chuyên gia về đào tạo,
nguồn nhân lực ngành ngân hàng hiện vẫn có một thực tếlà vừa yếu, vừa thiếu, cụ thể:
Khối kiến thức bổ trợ(tin học, ngoại ngữ) yếu; kiến thức chuyên môn, và kỹ năng giao
tiếp hạn chế. Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần quy mơ trung bình trở xuống
thiếu đội ngũ quản trị điều hành, lãnh đạo cấp chi nhánh, phịng giao dịch. Trình độ
chun mơn, khả năng phân tích, am hiểu luật pháp và độc lập xử lí các vấn đề thực tế
không cao, hầu như chỉlàm tác nghiệp, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu khả năng lập
dựán, thiếu kĩ năng dân sự...

 Giải pháp
-Cải tiến chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên.
15


-Tạo điều kiện nhiều để sinh viên có thể tiếp cận nhiều kĩ năng mềm như: kĩ năng nói, kĩ
năng viết, kĩ năng thuyết trình, kĩ năng làm việc nhóm.
-Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị sử dụng lao động (các ngân hàng,tổ chức tài
chính,doanh nghiệp ) và các trường đào tạo nguồn nhân lực tài chính-ngân hàng.
2/ Trách nhiệm của bản thân:
Trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người là nhân tố quan trọng. Chính vì vậy với
cương vị là một cơng dân Việt Nam, chúng em nhận thức sâu sắc được trách nhiệm và
nghĩa vụ của bản thân. Hiện tại, đang là những sinh viên đại học, trong tương lai sẽ là
những người công dân của đất nước, là những người tiếp nối ông, cha xây dựng đất nước.
Chúng em hiểu rằng ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, cần rèn luyện, tu dưỡng một
cách nghiêm túc. Để trở thành công dân tốt, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt Nam và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc
năm châu.
Trách nhiệm với bản thân:
Cuộc sống, xã hội ngày càng phát triển, vì thế mà mỗi chúng ta đều cần không ngừng
thay đổi, rèn luyện bản thân. Đó khơng chỉ là việc học tập mà còn là việc luyện tập thể
dục thể thao, giữ sức khỏe, ăn uống điều độ để có một cuộc sống lành mạnh. Tập thể
được tạo nên từ những cá thể đơn lẻ, vì vậy, nếu muốn mơi trường tốt đẹp thì phải xây
dựng, giữ gìn từ từng cá thể.
Do đó, chúng em hiểu được rằng phải tự giác điều chỉnh để có chế độ sinh hoạt hợp lí,
lành mạnh. Đa số sinh viên Việt Nam hiện nay có tình trạng thức khuya, ngủ không đúng
giờ, sinh hoạt không điều độ. Đây là nguyên nhân khiến sức khỏe và khả năng làm việc
cũng kém đi. Chúng em nhận thấy phải xây dựng lại đồng hồ sinh học của bản thân, đi
ngủ đúng giờ, đủ giờ để ln có được sự tỉnh táo, minh mẫn trong học tập, làm việc. Cần
có chế độ dinh dưỡng phù hợp, an toàn, tránh sử dụng các thức ăn đường phố khơng đảm

bảo, để có đủ sức khỏe. Ngoài ra, nên tập thể dục, thể thao, rèn luyện thể lực, để nâng cao
sức đề kháng, đồng thời tạo nên cuộc sống lành mạnh, vui vẻ.
Việc có trách nhiệm với chính bản thân mình cũng chính là có trách nhiệm tạo nên một
xã hội tươi đẹp, giảm bớt các tệ nạn xã hội.
Trách nhiệm với gia đình:
Gia đình là những người gần gũi và ln sẵn sàng giúp đỡ chúng ta bất cứ khi nào. Một
người sinh ra và trưởng thành từ gia đình. Vì vậy mà mọi thói quen, tính cách cũng sẽ
16


ảnh hưởng bởi gia đình. Đồng thời, bản thân người đó cũng tác động lại các thành viên
trong gia đình. Xã hội được tạo thành từ các hộ gia đình. Gia đình văn hóa, hạnh phúc
cũng chính là mảnh ghép cho đất nước văn minh, hiện đại.
Hiểu được điều đó, chúng em biết rằng cần yêu thương, quan tâm ông bà, bố mẹ, hòa
thuận, đùm bọc anh, chị, em trong gia đình. Trong quá trình học đại học xa nhà, học thêm
được điều tốt điều hay, cần có ý thức truyền đạt lại cho người thân. Cùng mọi người từng
bước trở thành những công dân hiện đại, văn minh và giàu tình cảm.
Thế hệ ơng cha cũng là những người đã và đang xây dựng đất nước, hiểu thảo với ơng bà,
cha mẹ, cũng phần nào thể hiện lịng kính trọng và biết ơn tới công lao của những người
đã hi sinh vì cuộc sống, tương lai. Và từ đó, chúng em lắng nghe những câu chuyện lịch
sử, câu chuyện dựng nước, giữ nước, làm tiền đề cho sự nghiệp xây dựng xã hội sau này.
Trách nhiệm với xã hội:
Khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam, vẫn còn những tệ nạn xã hội, những mảnh đời bất
hạnh. Chúng em rất biết ơn vì được đi học, được cuộc sống tốt hơn mà nhiều người mong
muốn. Vì vậy, chúng em cần có trách nhiệm chia sẻ, đùm bọc những người có hồn cảnh
khó khăn. Có thể chưa có điều kiện về kinh tế, nhưng chúng em có thể tham gia tình
nguyện, hiến máu, ủng hộ đồ dùng học tập, quần áo cũ cho những em nhỏ vùng cao.
Đồng thời, cần nâng cao ý thức tránh xa các tệ nạn xã hội, tuyên truyền cho mọi người về
những điều tốt, điều hay.
Một vấn đề vơ cùng cấp bách đó là việc bảo vệ môi trường. Hiện tại, là những sinh viên

trong quá trình rèn luyện, chưa thể quyết định được các chính sách to lớn cho đất nước.
Nhưng việc mà chúng em có thể làm được đó là bảo vệ mơi trường, khơng vứt rác bừa
bãi, phân loại rác để có thể tái sử dụng. Không hái hoa, bẻ cành, hoặc gây ảnh hưởng xấu
đến cây xanh. Tuyên truyền và thực hiện các chương tình bảo vệ cây xanh, chống nạn
phá rừng, lâm tặc ở địa phương.
Trách nhiệm với bạn bè, người thân:
“Một cây chẳng làm nên non, ba cây chụm lại nên hịn núi cao” - đây chính là câu nói mà
mọi người đều biết. Câu nói mang ý nghĩa một người thì khơng tạo nên sức mạnh, nhưng
nhiều người cùng góp sức sẽ thành cơng. Chính vì vậy, chúng ta cần đoàn kết, giúp đỡ
bạn bè, người thân. Cùng nhau rèn luyện, học tập để có được kết quả tốt. Ln giữ thái
độ trong sáng và nhiệt tình, thân thiện, tạo dựng những tình cảm bạn bè bền lâu, tốt đẹp.
Trong tương lai, đây sẽ là những mối quan hệ giúp chúng ta trưởng thành. Cùng nhau
trưởng thành và góp phần xây dựng đất nước phát triển, giàu mạnh hơn.
17


Trách nhiệm trong học tập:
Có thể giúp đỡ đất nước, góp phần cơng sức trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa hay khơng, thì mỗi chúng ta đều cần có trí tuệ, có kiến thức. Chúng em nhận thức sâu
sắc được yếu tố quan trọng này, nên sẽ cố gắng học tập trên lớp chăm chỉ. Để có được
những kiến thức theo mỗi ngành nghề thật tốt, tạo nền móng cho cơng việc sau này.
Hơn ai hết chúng em hiểu được sự may mắn của bản thân khi được học dưới mái trường
Kinh tế Quốc dân đầy tự hào. Được trau dồi kiến thức bởi các thầy cơ có bề dày chuyên
môn, kinh nghiệm, chúng em càng cần cố gắng để tiếp thu được những kiến thức bổ ích.
Dù học ở ngành, khoa, viện nào, chúng em điều hiểu được tầm quan trọng của chuyên
ngành đó trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chúng em hứa
sẽ có ý thức học tập nghiêm túc, để chuẩn bị hành trang tốt nhất cho tương lai.

18




×