Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh và vấn đề xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.07 KB, 7 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng cách mạng”. Qua đó ta có thể thấy rằng Bác đã
khẳng định muốn làm cách mạng trước hết phải có đẳng cách mạng. Cách mạng muốn thành công trước hết phải xây dựng Đảng Cộng
Sản Việt Nam và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Những điều căn dặn tâm huyết ấy của bác luôn có ý nghĩa đối với mỗi đảng viên
cán bộ trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng.
Trong 87 năm qua, Đảng ta không ngừng hoàn thiện và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đã nỗ lực phấn đấu, đồng tâm đồng lòng chung sức cùng nhau vượt qua muôn ngàn khó khăn, thách thức. Với tư cách là một đảng cách
mạng chân chính, dày dặn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân
tộc, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng. Cụ thể như trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam
với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải phóng dân tộc thoát khỏi gông xiềng nô lệ, đưa đất nước ta từ một đất
nước thuộc địa nửa phong kiến thành một nước độc lập, người dân Việt Nam từ một người nô lệ lên địa vị của một người tự do, người
làm chủ. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo dân tộc ta đánh thắng hai đế quốc xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập cho dân tộc,
thống nhất đất nước.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là người lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử để đất nước ta vững bước trên con đường đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Theo đó, đất
nước đã có những bước tiến vượt bậc về mọi mặt, làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết quả quan trọng. Vị thế uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.
Đất nước đang đứng trước thời cơ vận hội và thách thức mới. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của một đảng cầm quyền, hoàn thành sứ
mệnh mà nhân dân tin cậy giao phó, xứng đáng với truyền thống vẻ vang suốt 87 năm qua, đòi hởi đảng ta phải tiếp tục rèn luyện để có
đủ bản lĩnh , năng lực trí tuệ và sự tín nhiệm lãnh đạo cách mạng lãnh đạo đất nước tiếp tục phát triển “sánh vai cùng với các nước năm
châu”.
Nhận thấy, là một sinh viên một công dân Việt Nam. Với lòng tin vào đảng, đang và sẽ phấn đấu vào hàng ngũ của đảng, việc
hiểu vận dụng nội dung đường lối chính sách của đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh là một vấn đề hết sức quan trọng góp phần xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh và phát triển toàn
diện. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh và vấn đề xây dựng
Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận môn tư tưởng Hồ Chí Minh của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Do thời gian, điều kiện, yêu cầu của một bài tiểu luận thì bài tiểu luận này chỉ tập trung nghiên cứu chủ đề: “Tư tưởng hồ chí
minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh và vấn đề xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay”
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


3.1 Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và vấn đề xây dựng Đảng Cộng
Sản Việt Nam hiện nay, giúp ta hiểu sâu hơn về vai trò của Đảng và tính cấp bách của việc xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
sạch vững mạnh.
3.2 Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận thực hiện nhiệm vụ sau đây: tìm hiểu và phân tích những tư tưởng quan điểm
của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Đề ra những phương hướng một công dân cần làm để góp phần xây dựng
Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Trong đó sử dụng các
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Có các phương pháp cụ thể như sau:
- Phân tích và tổng hợp
- Lôgic và lịch sử
5. Kết quả của nghiên cứu đề tài
Bài tiểu luận trình bày có hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh và
vấn đề xây dựng Đảng ở nước ta hiện nay. Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những đường lối chính sách của Đảng, để ta có thể dễ dàng tiếp
nhận, tham gia và có thể phấn đấu thành một người đảng viên ưu tú, góp phần vào việc xây dựng ý thức cá nhân, lòng yêu thương và tin
tưởng tuyệt đối vào Đảng.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh
1.1. Xây dựng Đảng - quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng trong sạch vững mạnh chiếm một vị thế đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư
tưởng của Người. Đối với người, việc xây dựng đảng là một việc làm thường xuyên, lâu dài và mang tính cấp bách. Người liên tục đề
cập vấn đề xây dựng Đảng và hình thành các luận điểm mang tính nhất quán để đảng ta hoàn thành vai trò chiến sỹ tiên phong trước giai
cấp và dân tộc.
Xây dựng Đảng là làm cho mỗi cán bộ đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
mặt khác giúp cho cán bộ đảng viên nhìn lại, phát huy mặt tốt loại bỏ mặt xấu vốn có của con người. Với người, xây dựng đảng là một
nhiệm vụ hết sức quan trọng, mang tính tất yếu, thường xuyên, cấp bách và lâu dài để đảng hoàn thành vai trò của một người chiến sỹ
tiên phong trước giai cấp và dân tộc.
Tính chất khách quan của công tác xây dựng Đảng được Hồ Chí Minh lý giải theo những căn cứ sau đây:

“Xây dựng đảng bị chế định bởi quá trình phát triển liên tục của sự nghiệp cách mạng do đang lãnh đạo” [1,146]. Đảng lãnh đạo
giai cấp và nhân dân đánh đỗ đế quốc phong kiến xây dựng chế độ dân chủ mới tạo điều kiện tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sinh thời, mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn, bắt đầu truyển khai nhiệm
vụ mới Hồ Chí Minh bao giời cũng chủ trương trước hết phải xây dựng đảng. Chủ trương đó vừa khẳng định vị trí vai trò lãnh đạo của
đảng, vừa thể hiện khả năng nhạy bén, làm chủ thời cuộc của người đứng đầu tổ chức đảng. Trong suy nghĩ và nhận thưc của Hồ Chí
Minh, đảng ta lớn lên trưởng thành gắn liền với sự phát triển của đất nước và dân tộc, đang thật sự là một cơ thể sống luôn hoàn thiện và
vươn lên.
“Đối với toàn đảng, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: đảng sống trong xã hội là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, mỗi cán bộ
đảng viên đều chịu ảnh hưởng tác động của môi trường xã hội, các quan hệ xã hội cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực tiến bộ và cái tiêu
cực lạc hậu.” [1, 146] Vì vậy, việc chỉnh đốn làm cho đảng viên thật sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm cho
đôi ngũ cán bộ đảng viên không ngừng năng cao phẩm chất và năng lực trước yêu cầu cách mạng là hết sức quan trọng.


Xây dựng đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà đảng
và nhân dân giao phó, đặc biệt giữ được các phẩm chất cách mạng tiêu biểu. Theo Hồ Chí Minh, “ vì điều kiện khó khăn, mà số đông
cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ vẫn còn thấp kém và lạc hậu. Điều đó tỏ ra ở mỗi khuyết
điểm như: không nắm vữngchính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cách sinh, không phân biệt rõ bạn và địch, bệnh quan liêu, công
thần và tham ô hủ hóa khá nặng,v.v” [1,147]. Qua đó ta thấy rằng Bác đã chỉ rõ những hạn chế trong mỗi cán bộ đảng vên, mỗi đảng
viên cần phải hiểu rõ, hiểu đúng và thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của đảng. Hồ Chí Minh nêu lên luận điểm: “Một dân
tộc, một đảng một và mỗi con người ngày hôm qua, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu xa vào chủ nghĩa cá nhân.”[10] Vì vậy, chúng ta nhận thấy rõ việc cần phải chính đón và sửa chữa
những sai lầm ấy là một việc hết sức cấp bách để xây dựng đảng trong sạch vững mạnh. Theo người, đảng viên không phải là thần thánh,
họ là con người. Đã là con người thì ai cũng có hai mặt tốt xấu, thiện ác thường xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều kiện môi trường
tốt, nếu cán bộ đảng viên nỗ lực tu dưỡng phấn đấu rèn luyện thì mặt tốt mặt thiện sẽ nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại. Vì
thế, việc giúp đỡ, kiểm soát, quản lý từ phía đảng là một nguồn sức mạnh chủ đạo để mỗi cán bộ đảng viên luôn giữ trộn phẩm chất tốt
đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng về mọi mặt trong điều kiện, môi trường xã hội khác nhau.
Ngày nay, đảng trở thành đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh coi việc xây dựng và chỉnh đốn là công việc thường xuyên của đảng.
Người nhận thấy hai mặt của quyền lực: một mặt quyền lực có sực mạnh cải tạo xã hội nếu biết sử dụng đúng quyền lực. Mặt khác, có
sức phá hoại ví con người có thể thoái hóa biến chất nếu đi vào tham vọng quyền lực dẫn đến lạm quyền, đặc quyền, đặc lợi. Vì vậy,
đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đẩy lùi mọi tệ nạn do thoái hóa biến chất. Trong di chúc người căn dặn toàn đảng:

“việc cần phải làm là chỉnh đốn lại đảng phải làm cho mỗi đảng viên làm tròn nhiệm vụ mà đảng và nhân dân giao phó, toàn tâm toàn ý
phục vụ nhân dân”
1.2. Nội dung công tác xây dựng đảng
1.2.1. Xây dựng đảng về tư tưởng lý luận
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh cùng toàn đảng lãnh đạo nhân dân ta phấn đấu để dạt tới là chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường để đạt mục tiêu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, đảng phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhiệm vụ chủ yếu của đảng cộng sản cầm quyền là lãnh đạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa khoa học chính là sự định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hồ Chí
Minh luôn luôn nhân mạnh việc Đảng Cộng Sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Người xem chủ nghĩa Mác-Lênin như là trí khôn của con người. Bác cho rằng: “cách mạng phải có đảng, đảng phải có chủ
nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất trong thời đại hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lênin.” [9,43]. Tư tưởng này ở Hồ
Chí Minh được thể hiện từ rất sớm. Trong cuốn đường cách mệnh, người viết: ““Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong
đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, “Đảng mà không có chủ nghĩa giống như người không có trí khôn, tàu không có
bàn chỉ nam” và người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất là chủ nghĩa Lênin””
[6, 268]. Chủ nghĩa Mác-Lênin được Hồ Chí Minh khẳng định là học thuyết khoa học và cách mạng bởi vì nó chỉ ra thế giới quan và
phương pháp luận, là kim chỉ nan cho giai cấp công nhân và các lực lượng đứng lên làm cách mạng, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Khi khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, cần phải chú ý:
“Một là, việc học tập, nghiên cứu tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng.” [1,151] thật vậy,
mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, mỗi cá nhân đều có cách tiếp cận chủ nghĩa Mác-Lênin khác nhau. Chúng ta không nên quá rập khung đi
theo lối mồn trong quá trình học tập nghiên cứu. Cần có những cách thức tiếp cận phù hợp với bạn thân để hiểu sau hơn nội dung tư
tưởng nhưng đừng đi sai lệch ý nghĩa tư tưởng đường lối của chủ nghĩa Mác-Lênin.
“Hai là,việc học tập vận dụng tư tưởng Mác-Lênin phải luôn luôn phù hợp với mọi hoàn cảnh.” [1,151]. Khi vận dụng phải sáng
tạo, tránh giáo điều, đồng thời cũng phải tránh xa rời các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh chống các khuynh hướng cơ
hội, xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin và các tư tưởng phản động khác.
“Ba là, trong quá trình hoạt động, đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, đồng
thời đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác-Lênin.” [1,151]. Trong quá trình hoạt động đảng ta cần
chú ý tới việc kế thừa và phát huy những kinh nghiệp tốt của các đảng cộng sản khác. Tìm tòi, học hỏi, tổng kết những kinh nghiệm của
các đảng cộng sản, của các nước anh em, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ
nghĩa Mác-Lênin.

“Bốn là, đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin” [1,152]. Để giữ vững sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin trước hết đảng ta phải giữ vững tư tưởng trong đảng. Tránh sự cán dỗ của các thế lực thù đich làm tha hóa
đảng. Tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin là một việc rất cấp bách.
Sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi
đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mọi biểu hiện từ bỏ học
thuyết cách mạng và khoa học này đều chỉ dẫn đến sự thất bại đối với sự nghiệp cách mạng nước ta và làm cho đảng biến chất, không
còn là đảng cộng sản nữa.
1.2.2. Xây dựng đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng về chính trị gồm nhiều nội dung cơ bản như: xây dựng và bảo vệ đường lối chính trị,
xây dựng và thực hiện nghị quyết, cũng cố lập trường chính trị, năng cao bản lĩnh chính trị… và theo người đường lối chính trị là vấn đề
cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của đảng.
Đảng có vai trò định hướng phát triển cho toàn xã hội. Và để thể hiện vai trò chủ yếu của mình, đảng đã đề ra cương lĩnh, đường
lối chiến lược đúng đắn, phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, cũng như sách lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội
theo hướng lâu dài cũng như từng giai đoạn. Cương lĩnh, đường lối phải được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghãi Mác-Lênin,
vận dụng nó vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội Việt Nam trong từng thời kỳ. Trong xây dựng đường lối chính trị, phải thường xuyên học
tập kinh nghiệm các đảng cộng sản anh em. Có đường lối chính trị đúng vẫn chưa đủ, đảng còn phải là đội ngũ tiên phong dũng cảm và
là bộ tham mưa sáng suốt của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Như thế, đảng phải có đường lối, nghị quyết đúng với mỗi giai đoạn cách mạng, tổ chức thắng lợi nghị quyết do đảng đề ra, bảo
vệ tốt chính trị nội bộ của đảng.
1.2.3. Xây dựng đảng về tổ chứ, bộ máy và công tác cán bộ
Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ cao nhất của giai cấp công nhân. Vì vậy, đảng phải tuân thủ những nguyên tác
tổ chức và sinh hoạt nhất định mà nếu vi phạm thì đảng sẽ bị suy yếu và tan rã. Trong công tác xây dựng đảng nói chung, xây dựng đang
trong điều kiện đảng cầm quyền nói riêng, Hồ Chí Minh đề cập nhiều nguyên tắc. Những nguyên tác đó đều xuất phát từ học thuyết
Mác-Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng:


Tập trung dân chủ
Hồ Chí Minh viết về mối quan hệ đó như sau: ““ tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”. Hoặc
Người viết: “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến

của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi, mà cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm
thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền phục tùng chân lý”” [1,154]
Như vậy, chúng ta không được tách rời và càng không được đối lập hai vế của nguyên tắc, không thể coi “ tập trung” và “dân
chủ” như lửa với nước như một số lời tuyên truyền của các thành phần chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta rêu rao.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc sinh hoạt cơ bản nhất của đảng. Hồ Chí Minh xác định dân chủ là tạo điều kiện cho tất cả đảng
viên bày tỏ hết ý kiến để đóng góp cho đảng. Người nhấn mạnh: “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả nhân viên bày tỏ hết ý kiến của
mình, phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ trung ương chuẩn bị đại hội đảng cho thật tốt” [7, 118]. Tập trung trong đảng phải
trên cơ sở của bảo đảm dân chủ, nghĩa là dân chủ càng tốt thì tập trung sẽ đúng hơn. Hồ Chí Minh quan niệm tập trung trong tổ chức và
sinh hoạt đảng theo đúng nguyên lý xây dựng của Lênin.
Tập thể lãnh đạo, các nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: “vì sao phải có tập thể lãnh đạo?
Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trong thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều
mặt của một vấn đề, không thể trong thấy và xem xét tất cả mọi măt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trong thấy rõ mặt khác
của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề
ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.” [6, 504-505]
Hồ Chí Minh giải thích về cá nhân phụ trách như sau: “vì sao cần phải có cá nhân phụ trách?
Việc gì đã được đông người bàn bạc ky lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít
người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, quả là không ai thi
hành. Như thế thì việc gì cũng không xong.” [6, 504-505]
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải gắn chặt với nhau. Theo người, trong công tác xây
dựng đảng, không được phép cá nhân nào phụ trách để lấn át tập thể hoặc không phải việc nhỏ nhặt, vụn vặt, một người một lần có thể
giải quyết được cũng đưa ra bàn.
Tự phê bình và phê bình
Là nguyên tắc sinh hoạt hết sức qua trọng của đảng, là quy luật phát triển của đảng. Tại sao trong đảng lại phỉa thường xuyên tự
phê bình và phê bình? Phải thực hiện nguyên tắc này vì đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách rất trung thành, rất
kiên quyết, rất vĩ đại, song trong đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nét, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài
lây ngắm vào đảng. Đảng ta gồm những người có đức có tài. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất,

kiên quyết nhất, dũng cảm nhất đều ở trong đảng ta. Mặc dù vậy, nhưng không phải tất cả đều tốt mọi người đều có thiện ác ở trong lòng
không ai là không có lúc mắc những khuyết điểm và sai lầm nên việc làm thiết thực nhất để sửa chữa sai lầm là phê bình và tự phê bình.
Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt của con người nảy nở như hoa, phần xấu bị mất dần đi tức là nói đến sự
vươn tới chân, thiện, mỹ. Người viết: “ “mỗi người đều có thiện ác trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy
nỡ như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. “mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa,
giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ.” ” [6, 232]. Với thái độ tự phê
bình và phê bình như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng mới luôn luôn trong sạch vững mạnh hơn.
Kỷ luật nghiêm minh tự giác
Sức mạnh của một tổ chức, một cán bộ đảng viên phải dựa trên tính kỷ luật nghiêm minh tự giác.Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn
đề nghiêm minh tự giác trong đảng, coi đó là sức mạnh vô địch của đảng. Tính nghiêm minh của kỷ luật đảng đòi hỏi tất cả mội tổ chức
đảng, tất cả mọi đảng viên đều phải bình đẳng trước điều lệ đảng, trước pháp luật của nhà nước, trước mọi quyết định của đảng. Uy tín
của đảng bắt đầu tự sự gương mẫu của mỗi đảng viên trong sự tự giác tuân thủ kỷ luật của đảng, của nhà nước và của toàn thể nhân dân.
Cán bộ, công tác cán bộ của đảng
Cán bộ là người có năng lực tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của đảng và nhà nước. Hồ
Chí Minh coi người cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Đường lối, chủ trương, nghị quyết của đảng và nhà nước cũngnhư của đoàn thể
chính trị xã hội sẽ không biến thành thực hiện, sẽ chỉ nằm trên giấy khi không có nhữngcán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiện
nó. Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với đảng, với sự nghiệp cách mạng. Điều thiết yếu trong mỗi cán bộ trước hết phải có
đức. Phải vừa có đức vừa có tài nhưng đức làm gốc. Đức ở đây là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó điều quan trọng nhất trong
người cán bộ là không vi phạm khuyết điểm tham ô, lãng phí, quan liêu.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của đảng. Nội dung của nó bao hàm các khâu liên hoàn, có quan hệ chặt
chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ, thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
1.2.4. Xây dựng đảng về đạo đức
Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là đạo đức, là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Đảng phải thường
xuyên tự đổi mới trong điều kiện đảng cầm quyền cần chú ý:
- Đảng luôn luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức xứng đáng là người lãnh đạo của nhân dân.
- cán bộ đảng viên phải luôn toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, có đức, có tài.
- chú ý khắc phục tiêu cực, luôn giữ gìn đảng trong sạch, vững mạnh.
- đảng phải vươn lên đáp ứng nhu cầu, tình hình nhiệm vụ mới.
Hồ Chí Minh khẳng định một đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Vì có đạo đức sẽ tạo nên uy tín, sức mạnh của đảng,
giúp cho đảng có đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân. Xét về bản chất đạo đức mà đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh

chủ trương xây dựng là đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân có nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Hồ chí minh
nhấn mạnh đảng ta là một đảng cầm quyền mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng thất sự là một người có
đủ các yếu tố cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có đạo đức trong sáng đảng mới lãnh đạo được nhân dân chiên đấu giải phóng dân
tộc, làm cho tổ quốc độc lập, đồng bào ấm no hạnh phúc.
CHƯƠNG 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh trong việc đẩy
mạnh công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2.1. Xây dựng đảng về tư tưởng lý luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong quá trình mài mò và nghiên cứu của Người, qua một thời gian dài
nghiên cứu bác đã vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, tìm ra được những phương hướng đường đi phù hợp với đất


nước ta. Người đã lãnh đạo đảng và nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới. Từ tư tưởng ấy của người trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng tốt những nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn
cách mạng nước ta. Trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII( tháng 6-1991), trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, lần
đầu tiên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng
nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh” [4, 29]
Không ngừng kế thừa và phát triển, trong đại hội IX, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011) đã nêu định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh: “tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa vấn hóa nhân loại; là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”
[5,88]. Và trong đại hội IX đảng tiếp tục khẳng định: nhiệm vụ then chốt trong hoàn cảnh bấy giờ chính là xây dựng, chính đốn đảng
trong đó một nhiệm vụ trung tâm và quan trọng nhất là phát triển kinh tế. Qua đó ta thấy được đảng ta không ngườn hoàn thiện và phát
triển trong từng thời kỳ lịch sử. Có những phương pháp và hướng đi phù hợp với từng giai đoạn từng hoàn cảnh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tài sản vô giá đối với đất nước nó có ý nghĩa rất lớn đối với
sự nghiệp cách mạng nước ta. Những quan điểm quý giá ấy trong tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới nói
chung, và xây dựng chỉnh đốn đảng nói riêng của nước ta hiện nay. Để vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết chúng ta cần phải
hiểu rõ ý nghĩa nội dung tư tưởng ấy, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng tốt khả năng của bản thân trong việc hiểu và phải thể
hiện ở việc xây dựng đảng về chính trị. Đường lối của đảng phải dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa mác-lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vấn đề cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh càng phải được nhận thức sâu sắc để có thể vận dụng một cách sáng tạo các tư tưởng cách mạng ấy vào hoàn cảnh cụ thể của nước
ta hiện nay. Nhất là trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi đảng ta phải luôn luôn sáng suốt, vận dụng tốt nội dung
tư tưởng của Hồ Chí Minh trong việc tổng kết để hoạch định đường lối một cách đúng đắn không mất những sai lầm đáng tiết. Chỉ cần
mắc phải một sai lầm về đường lối cũng là một sai lầm cực kỳ nghiêm trọng và vô cùng nguy hiểm nhất đối với một đảng cầm quyền.
Ngoài ra, sức mạnh của một chính trị và của Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền còn thể hiện ở lĩnh vự tư tưởng. Vì vậy, việc xây dựng
đảng về tư tưởng vẫn luôn luôn là vấn đề quan trọng và cấp thiết được đặt ra. Muốn xây dựng đảng thật sự vững mạnh về mặt tư tưởng
trước hết Đảng ta phải là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động, toàn đảng phải lập trường vững vàng về mọi mặt, không dễ
dàng hoang mang, dao động trước mọi tác động xấu từ bên ngoài, phải kiên trì mục đích và lý tưởng sống vững chắt của mình đối với
đảng. Hiện nay, đất nước ta đang trên con đường hội nhập đứng trước những thời cơ và thách thức mới, đảng ta cần tiếp tục có ý chí kiên
định giữ vững sáng suốt và phát huy lập trường của mình nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo đất nước thực hiện thành công
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm đáp ứng không phụ lòng mong mỏi của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong nghị quyết trung ương 4 khóa XI về xây dựng đảng và nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu,
trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, đảng ta đã không ngừng hoàn thiện và phát triển, hơn 86 năm qua đảng ta đã có những bước
chuyển lớn, đảng luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp cách mạng trong thời buổi hiện đại ngày nay. Đã
có những thành công lớn trong công cuộc đổi mới của đất nước, bản chất cách mạng và khoa học;luôn giữ vững vai trò chủ đạo của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đảng ta không ngừng thường xuyên tự đổi mới,
tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến
thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, đảng đã đề ra được các phương hướng và lãnh đạo đất
nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ tổ quốc;đảng ta chú trọng việc giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường
quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với đảng. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó
có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta là một công dân việt nam có quyền tự hào về
bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của đảng ta - đảng của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt
Nam anh hùng. Việc thực hiện tốt nghị quyết trung ương 4 khóa XI trong vấn đề xây dựng đảng đã tạo được những chuyển biến tích cực
trong hệ thống chính trị.
2.2. Xây dựng đảng về chính trị
Xây dựng đảng về chính trị là một nhiệm vụ cấp bách của đảng ta hiện nay. Sau 4 năm triển khai thực hiện nghị quyết, đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của đảng đã tổng kết và đánh giá: nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở đã tập trung

lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết trung ương 4 với quyết tâm chính trị cao và đạt được những kết quả bước đầu quan
trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, phòng ngừa sai phạm.
Trong hội nghị trung ương 6, khóa XII: tiếp tục đổi mới, năng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy hệ thống chính trị. Đảng ta đã đưa ra
một số quan điểm cụ thể. Trong đó đảng ta cần phải tăng cường sự lãnh đạo của đảng một cách hiệu lực, hiệu quả trong quá trình quản
lý nhà nước, phát huy vai trò của mật trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị đại hội, cần phải bám sát cương lĩnh, hiến pháp, điều lệ và
các văn kiện của đảng, để có thể đáp ướng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Muốn là một đảng vững mạnh về hệ thống chính trị, đảng ta cần phải bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông, kết hợp hài hòa
giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển, thực hiện thường xuyên liên tục đáp ứng được yêu cần trước mắt và lâu dài. Đảng yêu cầu
một cách sáng tạo trong quản lý bộ máy chính quyền. Không nhất thiết tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương phải có mô hình và quy
mô tổ chức bộ máy giống hệt nhau mà phải dựa vào hoàn cảnh quy mô của từng nơi, từng điều kiện cụ thể. Cơ bản, chúng ta không
được duy trì tổ chứ trung gian. Cần phải có những cách thức sắp xếp, tinh gọn trong tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là đầu
mối bên trong gắn liền với việc giảm biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, thu hút người có
đức, có tài là một việc rất cần thiết đối với đảng ta lúc bấy giờ. Đồng thời đảng ta cần phải có cơ chế, chính sách phù hợp đối với những
người bị tác động trực tiếp trong quá trình sắp xếp. Để có thể làm được điều đó đòi hỏi đảng ta phải có những quyết tâm chính trị phải
cao, nỗ lực hết sức mình, hành động phải quyết liệt hiệu quả, đồng thời phải kiên trì, bền bỉ, cứng rắn và có lộ trình phù hợp, những
đường lối rõ ràng, những việc đã hiểu rõ, cần phải đưa vào thực hiện và có thể thực hiện được thì thực hiện ngay, những việc mới chưa
có tiền lệ và chưa được quy định nhưng thực tiễn đòi hỏi, thì phải mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, đưa ra các phương hướng cụ thể,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, không cầu toàn, không nóng vội.
Để có thể xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch vững mạnh đòi hỏi đảng ta cần phải giữ vững các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của đảng, đề cao kỹ cương, kỷ luật của đảng và pháp luật của nhà nước, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của từng
cấp từng ngành, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu, tăng cường công tác kiểm tra giám sát và kịp
thời biểu dương, khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh. Làm tốt công tác chính trị tư tưởng, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tạo sự thống


nhất trong đảng và sự đồng thuận trong xã hội, không để các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá, chia rẽ nội
bộ.
Với những quan điểm cụ thể trên đòi hỏi đảng ta phải có mục tiêu và phương hướng cụ thể để xây dựng bộ máy chính trị cỉua
đảng ngày càng hoàn thiện hơn. Theo đó, những mục tiêu được đặc ra như sau:
Mục tiêu tổng quát là chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả để góp phần xây dựng nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng, năng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước và chất lượng của mật trận tổ quốc,
các đoàn thể chính trị xã hội. Tinh giảm biên chế gắn với cơ cấu lại, năng cao chất lượng, sử dụng hiệu quả đội ngủ cán bộ, công chức,
viên chức, giảm chi thường xuyên, cải cách chế độ tiền lương.
Đảng ta đã nêu ra những mục tiêu cụ thể như sau:
“Đến năm 2021: sửa đổi, bổ sung một số quy định cần thiết liên quan đến tổ chức bộ máy và cơ bản hoàn thành viện kiện toàn,
sắp xếp các đầu mối bên trong của từng tổ chức theo hướng giảm đầu mối, giảm cấp phó. Thực hiện thí điểm và sơ kết, tổng kết một số
mô hình mới về tổ chức bộ máy để tinh gọn đầu mối, góp phần làm rõ về lý luận và thực hiện. Tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành
chính cấp xã không đạt 50% tiêu chuẩn về quy mô dân số, diện tích tự nhien theo quy định và sắp xếp hợp lý thôn, tổ dân phố.
Từ năm 2021 và những năm tiêp theo: tiếp tục thể chế hóa một số chủ trương của đảng liên quan đến đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy thành các quy định của đảngvà chính sách pháp luật của nhà nước để thực hiện. Phân tích rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của
từng tổ chức, khắc phục được tình trạng trùng lắp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tiếp tục
sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tôn, tổ dân phố theo các tiêu chuẩn quy định, phấn đấu tới năm 2025 cơ bản hoàn
thành việc sắp xếp xấp xã, thôn, tổ dân phố” [11]
Trong những năm qua, đảng, nhà nước ta đã có nhiều chủ trương nghị quyết, chính sách, cơ chế về xây dựng tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị và chỉ đạo thực hiện. Nhờ đó, tổ chức đảng, nhà nước, mật trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước
được sắp xếp kiện toàn, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh
hợp lý hơn, bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân , góp phần quan trọng vào
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới và bảo vệ tổ quốc.
2.3. Xây dựng đảng về tổ chức bộ máy, công tác cán bộ.
Trong công tác lý luận đảng ta đã chủ động nghiên cứu nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới, diễn biến mới
của tình hình thế giới; giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đảng đã tập trung vào tổng kết và
bổ sung, phát triển cương lĩnh, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và các văn kiện khác trình đại hội XI của
Đảng.
Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế hoá, cụ thể hoá thành các quy chế, quy định. Đảng
đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và
thực hiện chính sách cán bộ, trong đó công tác quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ có những chuyển biến tích cực. Tăng cường
phân cấp trong công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ được bổ sung về số lượng, chú trọng nâng cao về chất lượng. Việc củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú trọng hơn xây
dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ
sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng

viên mới kết nạp hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên, đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức
tăng hơn khoá trước. Sau hơn hai năm triển khai thực hiện quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của ban chấp hành trung ương
đảng (khóa x) về đảng viên làm kinh tế tư nhân, đã có nhiều đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan Đảng, nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng
góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo; tiếp tục
giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
Hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát của đảng được coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Cấp uỷ đảng các cấp đã chỉ
đạo thực hiện có kết quả việc kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của đảng; các chương trình, dự án; quản lý và sử dụng đất đai, đầu tư
xây dựng cơ bản; chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm và công tác cán bộ; xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có sai
phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ chính trị. Chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy, điều kiện hoạt động của uỷ ban kiểm tra và cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp tiếp tục được làm
rõ. Các phương thức lãnh đạo của đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động,
sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong đảng được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại
hội đảng bầu trực tiếp ban thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo đảng từ trung ương đến cơ
sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát.
Và các quan kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo nghị quyết trung ương 4 ở các cấp đã từng bước đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi được một số biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong đảng; khắc phục được một số khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện các
nguyên tắc tổ chức của đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng
nghiêm trọng, phức tạp đã được chỉ đạo tiến hành điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng
viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao.
Lịch sử 80 năm đấu tranh cách mạng của đảng khẳng định, khi đã có đường lối chính trị đúng đắn thì yếu tố quyết định sự thành
bại của cách mạng là công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ. Mục tiêu, lý tưởng của đảng không thay đổi, nhưng nhiệm vụ của từng
thời kỳ lại khác nhau, do đó công tác tổ chức, cán bộ phải luôn luôn đổi mới để đáp ứng yêu cần của mỗi gia đoạn lịch sử. Theo đó, đảng
ta tiêp tục đề ra các biện pháp nhằm năng cao và hoàn thiện hơn.
Về tổ chức, bộ máy của đảng. Đảng ta cần phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số ban, bộ, ngành trung ương để có chủ trương phù hợp. Kiện toàn, nâng cao
chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược. Tổng kết, đánh giá đúng thực trạng,
đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng, nhất là của đảng đoàn, ban cán sự
đảng. Tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém; kịp thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn,
nội bộ mất đoàn kết. Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong

sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt ban bí thư, bộ
chính trị, ban chấp hành trung ương; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật trong đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chống
quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ .
Về công tác cán bộ,cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng và thực
hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao


chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán
bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ, dân tộc thiểu số, chuyên gia trên các lĩnh vực; xây dựng quy hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng
đúng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân
dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ,
uy tín giảm sút. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy
huân chương. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư tưởng cục bộ, khép
kín. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp, đội ngũ chuyên gia
đầu ngành. Đổi mới, trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển.
2.4. Xây dựng đảng về đạo đức
Từ lâu nay, khi làm việc bác luôn xem trọng đến đạo đức con người. ở bác có rất nhiều phẩm chất đạo đức về mọi mặt đời sống
xã hội. Đặc biệt, đối với đảng, bác luôn luôn quan tâm nhắc nhở các đảng viên luôn giữ vững đạo đức các nhân, không ngừng hoàn hiện
và phát triển đảng. Người đảng viên muốn tốt trước tiên phải có đạo đức. Ngày nay, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Đặc
biệt đối với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên nói riêng và toàn thể đảng nói chung cần phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối sống. Các cán bộ cấp trên cần phải là người đi đầu của quá trình phát triển
đạo đức trong đảng. Phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân dân không có những hành vi lợi dụng chức quyền để làm
những việc xấu như ăn hối lộ làm tha hóa đạo đức trong đảng. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước tổ quốc, trước
đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức trong đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao
động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Đặc biệt, tronmg đảng phải đẩy mạnh tự phê
bình và phê bình thực hiện tốt các kỹ luật đối với các đảng viên vi phạm đạo đức trong sinh hoạt đảng. Sử dụng các biện pháp răng đê
nhằm ngăn chặc các hành vi làm tha hóa đạo đức trong đảng. Đảng có trong sạch vững mạnh thì mới lãnh đạo được nhân dân trong quá

trình công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay.
“Theo chỉ thị số 05-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Đảng ta tiếp tục
chú trọng công tác hoàn thiện đạo đức trong đảng và đã có những phương hướng cụ thể được đặt ra với yêu cầu thực hiện tốt được các
mục tiêu được đề ra như: toàn đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận
tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng; góp phần xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm
vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội
bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Tiếp tục làm cho toàn đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày
càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức,
phong cách của người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hoá, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” [3]
Tổ chức học tập, quán triệt và tuyên truyền sâu rộng, là một vấn đề mang tính chất thường xuyên, liên tục của đảng ta có hệ
thống bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động các nội dung chủ yếu về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn đảng,
toàn dân và toàn quân. Đó là hệ thống quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân
dân, về khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về xây dựng, phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng; về chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng đảng,...
Đó là các quan điểm và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của đảng,
của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng, hết sức phục vụ tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với dân; hết lòng
yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên
quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,... Đó là phong cách Hồ Chí Minh, phản ánh những giá trị cốt lõi trong tư tưởng, đạo đức của
người và được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, có sức thu hút, cảm hoá kỳ diệu trong hoạt động, ứng xử hằng ngày. Đó là:
phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; phong cách làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng, cụ
thể, tới nơi, tới chốn; phong cách ứng xử văn hoá, tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân; phong cách
nói đi đôi với làm, đi vào lòng người; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phong cách sống thanh cao, trong sạch, giản dị;

phong cách quần chúng, dân chủ, tự mình nêu gương,...
Đảng đã đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực
hiện nghị quyết đại hội XII của đảng, nghị quyết của cấp uỷ và nội dung sinh hoạt thường xuyên của chi bộ, gắn với các cuộc vận động,
các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các vấn đề bức xúc, nổi cộm ở từng địa phương, cơ
quan, đơn vị; gắn với việc xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam, xây dựng hệ giá trị văn hoá và hệ giá trị chuẩn mực của
con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Lấy kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét,
phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm. Lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc triển khai thực hiện theo phương châm trên trước, dưới sau;
trong trước, ngoài sau; học đi đôi với làm theo, chú trọng việc làm theo bằng những hành động và việc làm cụ thể. Xây dựng, tổng kết và
nhân rộng những điển hình tiên tiến về làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, kết hợp giữa "xây" với "chống".
Đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng đầu và cán bộ chủ chốt các cấp,
của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh, gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức hằng năm và cả nhiệm kỳ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa
phương, cơ quan, đơn vị với phương châm "sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện". Hoàn
thiện chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Những thành tựu đó là những tiên đề quan trọng để dân tộc Việt Nam có thể đi đến tự do, hạnh phúc. Để thực hiện hoài bão của chủ


tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời, đồng thời cũng là hoài bão chung của dân tộc ta thì điều kiện quan trọng nhất là đảng phải giữ vững
quyền lãnh đạo, phải thường xuyên tự chỉnh đón năng cao phẩm chất chính trị, năng lực lãnh đạo, đưa sự nghiệp đổi mới đến toàn thắng.
Ngày nay, trong việc xây dựng đảng về chính trị trước hết đòi hỏi đảng ta phải đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đồng thời tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối đó ở tất cả các cấp, các ngành. Xây dựng đảng đòi hỏi phải giáo dục rèn luyện, đảng viên kiên định
lập trường tư tưởng, kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không hoang mang dao động trước mọi diễn
biến phức tạp, luôn đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn lựa. Đồng thời, xây dựng chương trình, hướng dẫn nội dung học tập,
sinh hoạt định kỳ, sinh hoạt chuyên đề của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp; định hướng nội dung, chương trình
giảng dạy về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng kế hoạch sơ kết, tổng kết hằng
năm và toàn khoá trình ban bí thư ban hành; chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng, đội ngũ báo cáo viên tuyên truyền về các điển hình

tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những cách làm sáng tạo trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
đồng thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, những cách làm hình thức, kém hiệu quả.
Để quan điểm, nghị quyết của đảng sớm đi vào cuộc sống, đòi hỏi đảng ta phải luôn kiện toàn các tổ chức làm cho đảng có sức
mạnh vô địch. Đảng mạnh là do tổ chức của đảng từ trung ương đến cơ sở phải trong sạch vững mạnh. Cán bộ đảng viên luôn trao dồi
đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh, chống chủ nghĩa các nhân, chống tham nhũng và các tiêu cực khác. Đồng thời, cần thể chế
hóa, thực hiện hóa bằng các chính sách, cơ chế, nguồn lực của nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt, chủ động, gương mẫu của hệ thống
chính trị, sự đồng tình hưởng ứng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, ra sức đoàn kết, phấn đấu thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững
mạnh, tất cả vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo (2014) Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh NXB. Chính trị quốc gia- sự thật Hà Nội
2. Chỉ thị 03
3. Chỉ thị số 05-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
4. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2007): Văn kiện đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 51
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011): Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ XI, Nxb chính trị quốc gia- sự thật, Hà Nội
6. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tập 5
7. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tập 10
8. Nghị quyết trung ương khóa 11,12
9. Nguyễn Thị Mỹ Lang Bài giảng tư tưởng Hồ Chí Minh
10. Nguyễn Thị Mỹ Lang slide bài giảng môn tư tưởng Hồ Chí Minh
11. Thế Nguyễn “ trong hội nghị trung ương 6, khóa XII: tiếp tục đổi mới, năng cao hiệu lực, hiệu quả bộ máy hệ thống chính trị”



×