Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Luật DN và thực tiễn áp dụng thời gian qua.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.67 KB, 47 trang )

Lời nói đầu
Đại hội VI 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến nền kinh tế nớc
ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nề kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
hoạt động theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nơc.
Nhằm cụ thể hoá đờng lối chung, ngày 21/12/1990 Quốc hội đã thông qua 2
đạo luật quan trọng là luật Doanh nghiệp ( DN ) t nhân và luật Công ty. Sự ra đời của
2 đạo luật này đã góp phần to lớn vào việc thể chế hoá nguyên tắc quyền tự do kinh
doanh nhằm thiết lập những điều kiện pháp lý khung cho quá trình thành cơ chế thị tr-
ờng nền kinh tế nớc ta. Trong gần 10 năm tồn tại luật DN t nhân, luật công ty đã góp
phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển thành phần kinh tế t doanh, tạo môi
trờng kinh doanh lành mạnh khuyến khích các nhà đầu t bỏ vốn vào kinh doanh. Cũng
trong thời gian này hàng chục ngàn DN đã đợc thành lập thu hút lợng vốn lớn trong xã
hội tạo ra nhiều việc làm mới tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống cho ngời lao
động.
Song hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, luật DN t nhân đặc biệt luật
công ty đã bộc lộ những bất cập thậm chí còn đang là những vạt cản đối với quá trình
phát triển của các hình thức biểu hiện tự do kinh doanh vào cuộc sống thực tiễn của cơ
chế thị trờng hiện đại. Vì lẽ đó dới ánh sáng của nghị quyết hội nghị lần thứ IV và
nghị quyết hội nghị lần thứ VI - BCH TW Đảng khoá VIII luật DN mới đợc soạn thảo
và đợc Quốc hội khoá X thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000.
Ngay từ những ngày đầu luật DN đã đợc chào đón nồng nhiệt của mọi tầng lớp
dân c nói chung và của giới doanh nhân nói riêng. Những qui đình mới cảu luật DN
đang thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực của nó trong giai đoạn
cách mạng ngày nay, giai đoạn đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn đang tồn tại nảy sinh những
mặt yếu kém, cần đợc khắc phục trong thực tiễn thi hành luật DN.
Là một sinh viên em rất háo hức chào đón sự ra đời của luật DN và tự nhận
thấy mình có một phần trách nhiệm nào đó trong việc đa luật DN đến với mọi ngời.
Xuất phát từ ý tởng đó, đợc sự gợi mở của các thầy cô bộ môn em quyết định chọn đề
tài Luật DN và thực tiễn áp dụng thời gian qua . Đây là vấn đề rất mới mẻ, thời
1


gian nghiên cứu không nhiều cùng với lợng kiến thức hạn chế của một sinh viên nên
đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót, nhầm lẫn, vậy em rất mong đợc sự đóng góp ý
kiến quí báu của các thầy cô trong Bộ môn cùng với bạn đọc để bản đề tài đợc hoàn
thiện thoả lòng khát khao tìm hiểu luật DN của bản thân.
I) Từ luật Doanh nghiệp T Nhân, luật Công Ty đến luật
Doanh nghiệp :
Nghị quyết Đại hội VI là bớc chuyển biến quan trọng mang ý nghĩa lịch sử đối
với nền kinh tế nớc ta. Trong một thời gian dài, dới tác động của cơ chế kế hoạch hoá ,
nền kinh tế nớc ta trì trệ và khủng hoảng, trong điều kiện đó sự chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trờng có sự điều tiết của nhà nớc là một nhu cầu bức thiết làm sống dậy
những tiếm năng của nền kinh tế quốc dân. Cụ thể hoá đờng lối trên nhà nớc đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật ,trong đó hai đạo luật quan trọng : Luật Công Ty, Luật
Doanh Nghiệp T Nhân là hành lang pháp lý cho s ra đời và phát triển của thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện do nhiều nguyên nhân
khác nhau , hai luật trên đã trở lên bất cập , không đáp ứng kịp sự phát triển của các
mối quan hệ kinh tế, trở lên kìm hãm sự phát triển nền kinh tế nói chung và thành
phần kinh tế t doanh nói riêng . Trớc yêu cầu đó , luật Doanh Nghiệp đã đợc Quốc
Hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999, và có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 1 năm
2000
1/ Luật Doanh Nghiệp T Nhân, Luật Công Ty, thành tựu, hạn chế và sự ra đời
Luật Doanh Nghiệp.
Luật Doanh Nghiệp T Nhân, Luật Công Ty đợc Quốc Hội nớc CHXHCN Việt
Nam thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1990, có hiệu lực thi hành ngày 12 tháng 7
năm 1991. Là hai đạo luật cơ bản tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh của
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Sở dĩ nói nh vậy, bởi vì trớc đó khi cha có
Nghị Quyết Đại Hội VI, nền kinh tế nớc ta vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp, theo cơ chế này phần lớn t liệu sản xuất trong xã hội đợc tập trung vào một
trung tâm duy nhất - đó là nhà nớc, nhà nớc thông qua hệ thống cơ quan hành chính
và các đơn vị trực thuộc - vừa tiến hành kinh doanh vừa quản lý hoạt động kinh
doanh, các thành phần kinh tế khác không có điều kiện phát triển, nếu có chỉ là những

cơ sở kinh doanh vụn vặt. Điều này kìm hãm hạn chế tiềm năng của các thành viên
2
trong xã hội, bởi trong một xã hội lạc hậu nh nớc ta, đang trong giai doạn quá độ thì
nh Mac đã nói : Tồn tại nhiều thành phần kinh tế, các thành phần này tồn tại đan xen,
đấu tranh và triệt tiêu lẫn nhau, mỗi một thành phần có một trình độ nhất định, một
tiềm năng kinh tế riêng. Do đó muốn tận dụng đợc tiềm năng đất nớc, không còn cón
đờng nào khác là phải sử dung triệt để năng lực của mỗi thành phần, mỗi cá nhân, cón
ngời cụ thể .
Xuất phát từ lý luận đó, cùng thực tế kinh tế đất nớc. Đại Hội VI đã chỉ ra
những sai lầm, khuyết điểm và tiến hành cải cách nền kinh tế: trên nguyên tắc giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đát nớc và sử dụng
có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lợng sản xuất đi đôi với xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất CHXHCN .
Để đa t tởng này vào thực tiễn cuộc sống, Đảng đã chỉ đạo nhà nớc phải nhanh
chóng cụ thể hoá đờng lối trên thông qua văn bản pháp quy tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động nền kinh tế. Luật DN T nhân, Luật CTy ra đời trong điều kiện nh vậy, và ngay t
khi ra đời nó đã phát huy tác dụng vô cùng to lớn của mình. Thành tựu đầu tiên và
cũng dễ nhận thấy nhất nh chúng ta đã đề cập ở trên : Là cơ sở pháp lý cho t tởng chỉ
đạo của Nghị Quyết ĐH VI .nó đã mở ra cơ hội mới cho mọi thành phần kinh tế trong
xã hội tạo đièu kiện cho các thành phần tham ra vào hoạt động sản xuất kinh doanh,
thông qua năng lực của mình mọi chủ thể đều có quyền tự do kinh doanh theo quy
định của pháp luật nh điều 3 Luật DNTN, điều 4 Luật CT, nó là cơ sở đảm bảo pháp
lý cho s phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị tr-
ờng có sự quản lý của nhà nớc . Khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành viên có tài
sản, vốn đầu t vào kinh doanh dời hình thức một chủ hoặc để phân chia rủi ro, thu hút
nguồn vốn lớn, tăng khả năng cạch tranh các chủ thể hoàn toàn có thể liên kết với
nhau thành lập công ty dới hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Ngoài ra
sự ra đời Luật CT, Luật DNTN còn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện pháp luật
kinh tế, khắc phục những khuyết tật trong các văn bản pháp luật trớc đây, nó đã nhất
thể hoá về mặt pháp lý các quy định riêng rẽ của các địa phơng, nó là cơ sở cho sự ra

đời và hoạt động của DNTN, công ty loại hình doanh nghiệp mới trong nên kinh tế n-
ớc ta, bên cạnh các loại hình doanh nghiệp đã có.
Trong gần 10 năm tôn tại những thành tựu mà luật DNTN , luậtCTy đạt đợc có
thề đợc lợng hoá thông qua những cón số ,nó tác động tích cực đối sự phát triên khu
3
vc kinh tế t doanh nói riêng và đối nền kinh tế nói chung. Trong thời gian này đã có
hơn 38000 doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký khoảng 21000 tỷ
đồng .Các doanh nghiêp đã tạo đợc hơn 500000 chỗ làm mới ,va có đóng góp không
nhỏ vào ngân sách nhà nớc,công ty và DNTN da tạo ra khoảng 8% tổng sản phẩm xã
hội,ngoài ra còn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể theo nghị định 66/HĐBT,sử dụng hơn
3 triệu lao động, các hộ kinh doanh này tạo ra khoảng 9% tổng sản phẩm xã hội . Sự
xuất hiện và phát triển các loại hình kinh doanh này góp phần làm cho nền kinh tế trở
nên sôi động và linh hoạt hơn đáp ứng nhu cầu đa dạng cuộc sống .
Tuy nhiên ngày nay do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hai đạo luật trên
không còn phù hợp. Xã hội loài ngời cũng nh một cơ thể sống, nó luôn luôn vận động
không ngừng cón ngời luôn có xu hớng tự hoàn thiện mình và thông qua tác động của
mình cải tạo thế giới đợc tốt đẹp hơn. Trong học thuyết về hình thái kinh tế xã hội
Mác đã khẳng định rằng: lực lợng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong
việc thay đổi phơng thức sản xuất dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội và thay
đổi chế độ này bằng chế độ khác .
Theo quan điểm trên LLSX luôn luôn phát triển, gắn liền với sự phát triển của
KHKT, sự phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ của khoa học đã đẩy LLSX phát triển
không ngừng, sự phát triển LLSX đòi hỏi QHSX phải đợc thay đổi cho phù hợp với
tính chất, trình độ LLSX, sự phát triển chậm hơn của kiến trúc thợng tầng đã kìm hãm
sự phát triển của cơ sở hạ tầng tức nền kinh tế. Nền kinh tế nớc ta từ khi chuyển đổi cơ
cấu, do tận dụng đợc tối đa tiềm năng đất nớc đã có những bớc biến chuyển không
ngừng, các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, nhu cầu SXKD ngày càng
tăng. Trong môi trờng canh tranh khốc liệt cơ hội đợc tính bằng giây, bằng phút các
Doanh Nghiệp đòi hỏi cần có sự thông thoáng, tự chủ hơn trong kinh doanh ...Những
nhu cầu đó luật DNTN, luật Cty không thể đáp ứng, do luật đợc ban hành ngay trong

thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế, lên các mối quan hệ kinh tế đã xuất
hiện song cha bộc lộ đầy đủ xu hớng phát triển dẫn đến khó dự đoán quy luật vận
động của nó. Hơn nữa các nhà làm luật trong một chừng mực nào đó còn hạn chế về
khả năng và trình độ ,lại vừa trải qua một thời gian dài với lối t duy kinh tế cũ khó
tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình soạn thảo .
Một lý do nữa không kém phần quan trọng :đó là sự ra đời của hàng loạt các
đạo luật, bộ luật trong thời gian này, trên mọi lĩnh vực: Bộ Luật Dân Sự, Luật Thơng
4
Mại, Luật Khuyến Khích Đầu T Trong Nớc ,... dẫn đến sự thiếu đồng bộ, nhất quán
trong các quy phạm pháp luật.
Từ những nguyên nhân đó dẫn đến sự ra đời của luật Doanh Nghiệp ngày
12/6/1999.
2/ Nội dung luật Doanh Nghiệp và những đổi mới .
Luật DN đợc ban hành xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế nhằm thay
thế luật DNTN và luật Cty ngày 21 tháng 12 năm 1990, có hiệu lực thi hành ngày
tháng 1 năm 2000. Luật DN ra đời là cả một quá trình tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu
thực tế, từ những sai lầm, thiếu sót trong công tác làm luật trớc đây, từ những bài học
kinh nghiệm của các nớc trong khu vực và trên thế giới.
2.1. Mục tiêu của luật DN
Hoạt động của cón ngời, theo Mac: Đó là hoạt động có ý thức bởi vậy trớc
khi thực hiện một hành vi, một công việc cón ngời luôn xác định cái mà mình mong
muốn đạt đợc thông qua hành vi hay công việc đó. Mỗi một quy phạm pháp luật đợc
ban hành ra nó trở thành khuôn mẫu, mực thớc mang tính cỡng chế đối với các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ đó. Do đó quá trình ban hành văn bản pháp luật phải
tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ có nh vậy sản phẩm tạo ra mới thực sự có hiệu quả
nâng đỡ, bảo vệ các quan hệ xã hội đợc nó điều chỉnh, vì đặc trng này của các quy
phạm pháp luật, lên trớc khi tiến hành soạn thảo, nhà làm luật phải luôn xác định muc
tiêu cần đạt đợc của dự luật mà mình định ban hành, trên cơ sở muc tiêu đả đợc xác
định, nó sẽ quyết định phơng hớng ban hành văn bản pháp luật. Luật DN cũng không
nằm ngoài quy luật trên, t tởng chỉ đạo của luật DN là nhằm đạt đợc các mục tiêu

sau:
Xuất phát từ thực tế nền kinh tế, kế thừa những bài học kinh nghiệm qua việc
thi hành luật DNTN, luật Cty, nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển nền
kinh tế thời gian tới. Luật DN cần phải cởi bỏ những hạn chế, kìm hãm đối nền kinh tế
nói chung, đối các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, giải phóng và phát
huy mọi lực lợng, mọi tiềm năng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi thành phần,
mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tạo môi trờng và điều kiện
thuận lợi cho kinh kế t nhân phát triển. Đây là mối quan hệ cơ bản trong một phơng
thức sản xuất, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thợng tầng, cơ sở hạ tầng
có tính quyết định đến tính chất,hình thức kiến trúc thợng tầng, song đến lợt nó, kiến
5
trúc thợng tầng lại tác động ngợc trở lại. Do đó mục đích đầu tiên mà luật DN hớng
tới không phải là cái gì khác, mà chínhlà hiện thực của nền kinh tế và xu hớng tiến
triển của các mối quan hệ kinh tế.
Nh chung ta dã biết cón ngời trong xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể cải tạo xã
hội, vừa là mục tiêu của cải tạo, do đó trong đờng lối chính sách của mình đảng luôn
đặt vấn đề cón ngời lên vị chí hàng đầu, làm sao để mọi ngời trong xã hội đều có cơ
hội phát huy mọi năng lực của mình để tạo ra của cải cho bản thân, cho gia dình và
cho xã hội, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống ngời lao động. Luật DN cũng vậy
với việc quy định những loại hình doanh nghiệp mới, đồng thờivới việc đơn giản hoá
thủ tục hành chính, cùng với việc bãi bỏ các loại giấy phép không cần thiết là điều
kiện để huy động tối đa nguôn lực trong xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới cho
ngời lao động.
2.2. Những nội dung mới đ ợc quy định trong luật Doanh Nghiệp .
Luật DN đơc chia thành 10chơng và 124điều. Quy định địa vị pháp lý của các
loại hình DN: quyền, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức của mỗi loại hình đó...
Luật DN là văn bản kế thừa và phát triển của hai đạo luật, luật DNTN, luật Cty
nó không phủ định sạch trơn các chế định trong hai đạo luật này, trên cơ sở giữ lại
những quy dịnh phù hợp, sửa đổi, bổ sung những quy định cha phù hợp, đồng thời bãi
bỏ những quy định đã lỗi thời, lạc hậu không đáp ứng dợc yêu cầu nền kinh tế trong

giai doạn mới, giai đoạn Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nớc.
So với pháp luật kinh doanh trớc đây luật Doanh Nghiệp có những nội dung
mới cơ bản sau đây:
2.2.1. Luật DN bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập.
Trong thời gian qua do kế thừa t duy quản lý kinh tế cũ: bộ máy hành chính
cồng kềnh, kém hiệu quả, thủ tục nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá, tập chung do
đó tệ giấy tờ, quan liêu của một số cá bộ gây lên sự bất bình trong các tầng lớp nhân
dân .
Đại hội VIII đã nhấn mạnh vấn đề cải cách nền hành chính nớc ta là nhiệm vụ
bức thiết trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhằm phục vụ cho sự nghiệp
CNH - HĐH đất nớc, trong đó cải cách thủ tục hành chính đợc cói là trọng tâm, cốt
lõi trong cải cách hành chính quốc gia .
6
Để thực hiện Nghị Quyết trên, đồng thời đáp ứng những mong muốn thiết thực
của giới kinh doanh, phù hợp với sự phát triển mới của nền kinh tế đất nớc, phù hợp
với thông lệ quốc tế, luật Doanh Nghiệp qui định bỏ giai đoạn xin giấy phép thành
lập.
Trớc đây trong luật Cty, luật DNTN qui định trớc khi thành lập, ngời muốn lập
doanh nghiệp phải gửi hồ sơ xin phép thành lập đến cơ quan nhà nớc có thẩm quyền,
hồ sơ xin giấy phép phả bao gồm các dữ liệu về thân nhân ngời muốn thành lập, các
điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh, phơng án kinh doanh ... Trong một chừng
mực nào đó việc qui đinh nh vậy cũng có một ý nghĩa nhất định : giúp nhà nớc có khả
năng quản lý đợc các doanh nghiệp đang hoạt động hoặc sắp đợc thành lập, nắm đợc
qui mô cũng nh lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin
cho các đối tợng quan tâm, đồng thời đả bảo nguồn vốn cho các nhà đầu t khi góp vào
công ty. Doanh nghiệp muốn đợc cấp giấy phép thành lập phải đáp ứng đầy đủ các
điều kiện về vốn, ngành nghề kinh doanh phải có phơng án kinh doanh khả thi ... đây
là bớc nặng nề nhất đối với doanh nghiệp bởi vì với qui định nh vậy, ngời muốn thành
lập phải xin nhiều loại giấy tờ, chứng thực khác nhau. Lợi dụng sơ hở đó các cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền đã ban hành nhiều loại giấy phép chuyên ngành, lĩnh vực mà

mình quản lý tạo ra nhng tiêu cực không đáng có trong xã hội, nạn cửa quyền,tham
nhũng có đất tồn tại.
Sau khi đợc cấp giáy phép thành lập,ngời muốn thành lập phải tiến hành đăng
ký kinh doanh tại sở Kế Hoạch-Đầu T,nơi doanh nghiệp dự định đặt trụ sở chính.Việc
quy định các cơ quan khác nhau cùng có thẩm quyền liên quan đến việc xem xét hồ
sơ xin thành lập doanh nghiệp, trong khi các cơ quan đọc lậpvới nhau, chỉ xem xét
phần việc của mình do đó thời gian hoàn thành việc thành lập doanh nghiệp và đăng
ký kinh doanh mất rất nhiều thời gian thờng từ bốn đến sáu tháng, cùng với một khoản
lệ phí không nhỏ.
Xét về mặt quản lý trong giai đoạn ngày nay, khi mà đảng và nhà nớc đang có
chủ trơng cải cách thủ tục hành chính, thì quy định nh vậylà không hợp lý và đi ngợc
lạivới đờng lối, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng ngày nay. Xét về mặt hiệu quả,
quy dịnh nh vậy khong tạo ra hiệu quả trong công tác quản lý, vìcó có quá nhiều cơ
quan tham gia vào cùng một vấn đề, trong khi đó khong có một cơ quan nào chịu
trách nhiệm chính dẫn đến nhà nớc rất khó quản lý một cách tập chung các doanh
7
nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa quy định nh vậy không khuyến khích đợc các nhà
đàu t bỏ vốn vào kinh doanh bởi thủ tục quá rờm rà dẫn đến tốn kém thời gian, tiền
của ảnh hởng tới hiệu quả sản xuất của nhà đầu t.
Xuất phát từ những lý do đó, luật DN quy dịnh trình tự thành lập doanh nghiệp
chỉ còn bớc đăng ký kinh doanh, trong bớc này, ngời muốn thành lập doanh nghiệp
tiến hành lập hồ sơ gửi đến cơ quan nhà nớc có thẩm quyền-phòng ĐKKD cấp tỉnh
thuộc sở KH_ĐT. Lụât DN không chỉ bỏ bớc xin phép thành lập, mà ngay trong bớc
ĐKKD luật quy định rõ ràng: cơ quan ĐKKD không đợc yêu cầu, đòi hỏi những giấy
tờ khác ngoài những giấy tờ quy định trong luật DN bao gồm: đơn đăng ký kinh
doanh; điều lệ đối công ty; tên chủ sở hữu đối DNTN, danh sách đối công ty; đối
ngành nghề kinh doanh đòi hỏi có vốn pháp định thì phải có giấy tờ chứng thực nguồn
vốn đó. Rõ ràng với việc quy định cụ thể các loại giấy tờ mà ngời muốn thành lập
doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ của mình là một bớc tiến trong cải cách thủ tục
hành chính, tránh đợc hiện tợng các cơ quan nhà nớc tuỳ tiện ban hành các loại giấy

phép cón gây khó khăn cho các nhà đầu t trong quá trình thành lập doanh nghiệp.
Ngoài ra với quy đinh nh vậy thì trách nhiệm của nhà nớc phần nào đợc giảm
nhẹ, theo quy định tại k2 Đ12 cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ chịu trach nhiệm về
tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD, còn về các lĩnh vc khác liên quan đến tình hình tài
chính, hoạt động của các doanh nghiệp... thì buộc các nhà đầu t phải tự tìm hiểu, nếu
muốn cùng nhau hợp tác kinh doanh, điều này khác với trớc đây, khi mà các doanh
nghiệp thờng thông qua sự xác nhận của nhà nớc để đánh giá tình hình kinh doanh
của các đối tác, bạn hàng từ đó xuất hiện t tởng dựa dẫm, trông chờ vào các cơ quan
nhà nớc dẫn đến tình trạng, thông tin thiếu chính xác, không cập nhập và còn là cơ sở
phát sinh các tệ nạn trong quản lý hành chính nhà nớc. Để việc tìm hiểu đợc dễ dàng,
các cơ quan nhà nớc có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết về các doanh nghiệp
cho những đơn vị, cá nhân có yêu cầu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tìm đợc
bạn hàng phù hợp nhất với mình.
2.2.2. Luật Doanh Nghiệp bỏ mức vốn pháp định đối hầu hết các ngành
nghề kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp là cơ sở vật chất quan trọng nhất để chủ doanh nghiểp
triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh, hơn nữa vốn còn là bảo đảm về mặt tài
chính của doanh nghiệp đối các chủ nợ. Do đó luật DNTN, luật Cty quy định vốn
8
pháp định là một trong những điều kiện bắt buộc phải có để có thể thành lập doanh
nghiệp. Điều này có nghĩa: vốn đầu t ban đầu mà doanh nghiệp bỏ ra phải phù hợp với
quy mô, ngành nghề dự định kinh doanh .Số vốn này không đợc thấp hơn số vốn tối
thiểu mà pháp luật quy định, tuỳ thuộc vào ngành nghề,lĩnh vực kinh doanh và loại
hình doanh nghiệp, đây là mức bảo đảm tối thiểu về tài sản của doanh nghiệp đối với
khách hàng.
Tuy nhiên trong khi thi hành hai đạo luật này, thì quy định về mức vốn pháp
định không còn phát huy đợc hiệu quả nh ý nghĩa ban đầu của nó, tức thể hiện khả
năng kinh tế của doanh nghiệp và đảm bảo khả năng thanh toán cho chủ nợ. Thc tế
cho thấy cả hai ý nghĩa trên đều không đợc đảm bảo, vì nhà nớc không quản lý đợc
nguồn vốn của doanh nghiệp sau khi đợc thành lập, dẫn đến có doanh nghiệp khi làm

hồ sơ thành lập đã đi vay mợn toàn bộ số vốn pháp định để đủ điều kiện khi thành lập
nhng sau đó lại rút toàn bộ số vốn để trả nợ, thực tế là doanh nghiệp đợc thành lập mà
không có vốn, đây chính là sơ hở để các doanh nghiệp lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của
nhau. Bên cạnh đó việc quy định về mức vốn pháp định đã tạo điều kiện cho hiện tợng
cửa quyền, tham nhũng phát triển làm giảm lòng tin của nhân dân, doanh nghiệp vào
các chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nớc.
Vì vậy luật DN quy định: các doanh nghiệp ĐKKD hầu hết các ngành nghề
đều không cần tuân thủ quy định về vốn pháp định, trừ một số ngành nghề quan trọng
ảnh hởng trực tiếp tới sự thăng trầm nền kinh tế dẫn đến đòi hỏi cần có sự đảm bảo về
mặt tài chính nh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán... quy định nh vậy là hoàn toàn
phù hợp, vừa giảm bớt thủ tuc hành chính ,vừa nâng cao trách nhiệm của chính doanh
nghiệp trớc khi giao kết hợp đồng kinh tế .
Nhng một câu hỏi đặt ra: Làm sao có thể bảo vệ đợc lợi ích của các chủ nợ, khi
bỏ các quy định về vốn pháp định ? giải pháp cho câu hỏi này trớc tiên ở phía các nhà
kinh doanh ,để đảm bảo quyền lợi của mình đòi hỏi mỗi doanh nhân trớc khi ký kết
hợp đồng với khách hàng đều phải xem xét kỹ lỡng năng lực tài chính của khach hàng
đó chánh trờng hợp lừa đảo ,gian lận trong kinh doanh .Về mặt pháp luật để giải quyết
vấn đề này trong luật Doanh Nghiệp đã quy định một loạt các nguyên tắc và nghĩa vụ
của DN đối với vốn và tài sản .
Với các loại hình công ty luật quy định: DN chỉ đợc giảm vốn điều lệ, thanh
toán phần vốn góp hoặc cổ phần đợc mau lại, chia lợi nhuận, trả cổ tức, ... Khi mà
9
doanh nghiệp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và các nghĩa vụ tài sản
khác. Ngoài ra luật còn quy định các biện pháp khác để bảo vệ quyền lợi các chủ nợ:
Tài sản góp vốn nếu không phải là tiền VN, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng thì phải
đợc định giá và đợc thông qua theo nguyên tắc nhất trí. Trong thờng hợp định giá cao
hơn so với giá trị tài sản tại thời điểm góp vốn, thì ngời góp vốn và ngời định giá phải
góp đủ số vốn nh trong biên bản định giá, nếu gây thiệt hại cho ngời khác thì phải liên
đới chịu trách nhiệm bồi thờng. Trờng hợp ngời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
bằng chứng cho rằng tài sản đã đợc định giá sai so với giá trị thực của nó thì có quyền

yêu cầu cơ quan ĐKKD buộc ngời định giá phải định giá lại giá trị tài sản góp vốn. Sở
dĩ phải quy định nh vậy, vì với các loại hình doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạnvề
công nợ trên tài sản hiện có của doanh nghiệp, thì việc định giá cao hơn giá trị thực
của tài sản dễ làm cho khách hàng lầm tởng khả năng thanh toán của doanh nghiệp
dẫn đến ký kết hợp đồng, song thực tế tài sản của doanh nghiệp lại không đủ để bảo
đảm khoản nợ đối khách hàng, đặc biệt khi doanh nghiệp bị phá sản khách hàng có
thể mất một khoản tiền nào đó ứng với phần tài sản bị định giá sai.
Đối loại hình Cty TNHH hai thành viên trở lên luật DN quy định, nếu không
góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết, thì số vốn đó đợc cói là nợ của thành viên đối
công ty và phải chịu trách nhiệm bồi thờng thiệt hại phát sinh do không góp đủ và
đúng hạn số vốn đã cam kết. Bản thân ngời đại diện theo pháp luật còn phải báo cáo
về trờng hợp nói trên cho cơ quan ĐKKD trong thời hạn nhất định, kể từ thời điểm
cam kết góp vốn, sau thời hạn này mà khong thông báo bằng văn bản đến cơ quan
ĐKKD ,thì ngời đại diện theo pháp luật của công ty phải liên đới chịu trách nhiệm
cùng với thành viên cha góp đủ vốn về phần vốncha góp và thiệt hại phát sinh do số
vốn đó gây ra. Quy định nh vậycũng do xuất phát từ bản chất của loại hình Cty TNHH
tức chỉ chịu trách nhiệm công nợ công ty trên cơ sở phần vốn góp, do đó số vốn thiếu
của thành viên đợc chuyển sang nợ, tơng đơng một khoản tài sản mà công ty có, do
vậy chủ nợ yên tâm hơn mặc dù tài sản đó không thực có tại Cty.
Ngoài những nguyên tắc trên, để bảo vệ lợi ích chính đáng của các nhà đầu t
luật còn quy định chế độ hậu kiểm của các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền đối các
doanh nghiệp thông qua chế độ thanh tra và kiểm tra, điều này khong những giúp cơ
quan nhà nớc tình hình các doanh nghiệp, mà còn có tác dụng cung cấp các thông tin
10
về khả năng tài chính, nguồn vốn khả dụng của các doanh nghiệp cho các khách hàng
có nhu cầu.
2.2.3. Luật Doanh Nghiệp qui định về công ty TNHH một thành viên .
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một loại hình doanh nghiệp
mới lần đầu tiên đợc đa vào nớc ta mặc dù nó đã đợc luật hoá từ lâu trên thế giới. Xuất
phát từ nhu cầu thực tế của giới kinh doanh, một số ngời trong số họ có vốn và đầu t

vào kinh doanh, song họ không muốn thành lập doanh nghiệp t nhân bởi tính rủi ro
qúa cao của nó, do DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của
doanh nghiệp, song họ cũng không muốn góp vốn vào công ty do không muốn chia sẻ
quyền chủ động trong kinh doanh cũng nh những khoản lợi mà doanh nghiệp có thể
thu dợc .
Trong thực tế những năm qua mặc dù pháp luật không quy định loại hình
doanh nghiệp này nhng lại mặc nhiên cho nó tồn tại dới một số hình thức và tên gọi
khác nh : DNNN do nhà nớc làm chủ sở hữu duy nhất, doanh nghiệp cuả các tổ chức
trính trị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài ngoài ra còn tồn
tai một thực tế là, hiện nay có nhiều công ty TNHH đợc thành lập và đang hoạt động
trên danh nghĩa hai thành viên trở lên nhng thực chất là công ty TNHH một thành
viên, bởi các thành viên góp vốn có thể là vợ, chồng hoặc anh em bạn bè nhờ đứng tên
cho đủ điều kiện đang ký kinh doanh theo quy định của pháp luật .
Từ nhu cầu và thực tế đó cùng với việc xem xét kinh nghiệm các nớc trên thế
giới, luật DN đã đu vào loại hình công ty TNHH một thành viên .
Tại điều 46 luật DN quy định "công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp
do một tổ chức làm chủ sở hữu ,chủ sở hữu chịu trách nhiệm về công nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ của công ty". Nh vậy theo
luật DN thì chỉ có các tổ chức mới đơc phép thành lập công ty TNHH một thành viên,
đây là điểm khác biệt giữa pháp luật nớc ta với pháp luật các nứơc trên thế giới và
khác biệt với luật Đầu T Nớc Ngoài Tại Việt Nam. Điều khác biệt cơ bản công ty
TNHH một thành viên với DNTN là ở việc quy định trách nhiệm của chủ sở hữu đối
nghĩa vụ và các khoản nợ của doanh nghiệp, và đây cũng chính là yếu tố tạo lên u
điểm của công ty TNHH một thành viên so với DNTN; việc chuyển nhợng toàn bộ
hoặc một phần vốn góp của công ty đợc thực hiện một cách dễ dàng, khác với loại
hình DNTN chủ sở hữu chỉ đợc cho thuê hoặc bán toàn bộ doanh nghiệp cho ngời
11
khác. Công ty TNHH chuỷên sang hoạt động theo cơ chế của công ty TNHH hai
thành viên trở lên khi mộtphần vốn đợc chuyển nhợng cho ngời khác. Cũng nh DNTN,
cty TNHH một thành viên không đợc phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán

nào ra công chúng để huy động vốn. Cty TNHH một thành viên có t cách pháp nhân
kể từ khi đợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh .
2.2.4. Luật công ty quy định về loại hình công ty Hợp Danh.
Trên thế giới từ lâu đã tồn tại hai loại công ty: công ty đối nhân, công ty đối
vốn. Việc chia làm hai loại hình công ty là căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách
nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp.
Cty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ
bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, vốn là nhân tố thứ yếu. Đặc
điểm cơ bản nhất của công ty đối nhân là: không có sự tách bạch rõ ràng giữa tài sản
công ty và tài sản thành viên, các thanh viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về công
nợ của công ty hoăc it nhât phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các
khoản nợ đó. Hiện nay cty Đối nhân tồn tại dói hai dạng cơ bản: công ty Hợp Danh và
công ty Hợp Vốn Đơn Giản .
Công ty Hợp Danh là công ty mà trong đó các thành viên cùng nhau tiến hành
các hoạt động kinh doanh dới cùng một doanh nghiệp và cùng liên đới chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty. Vì tính chất liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên
các thành viên phải có sự hiểu biết rõ về thân nhân cũng nh trình độ, chuyên môn và
khả năng tài chính của nhau. Công ty Hợp Danh đợc thành lập khi có ít nhất hai thành
viên thoả thuận với nhau trên cơ sở hợp đồng thành lập công ty. Chủ nợ có thể yêu cầu
bất cứ thành viên nào thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với mình và thành viên đó không
đợc quyền từ chối ,song có quyền yêu cầu các thành viên còn lại bồi hoàn.. Trong
công ty hợp Danh không có sự phân biệt rõ ràng giữa tài sản của công ty và tài sản cá
nhân thành viên, sự chuyển dịch từ tài sản chung sang tài sản riêng đợc thực hiện một
cách dễ dàngvà rất khó kiểm soát.
Đối với công ty hợp vốn đơn giản thì ngoài thành viên hợp danh còn có thành
viên góp vốn, cũng giống nh công ty Hợp Danh, thành viên hợp danh của công ty Hợp
Vốn Dơn Giản cũng phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công
ty, còn thành góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trên phần vốn mà họ đóng góp. Nh
vậy, so với công ty Hợp Danh công ty Hợp Vốn Đơn Giản có khả năng thu hút đợc
12

nguồn vốn lơn hơn, và rủi ro của các thành viên hợp danh cũng phần nào đợc san sẻ
cho các thành viên góp vốn, vì thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về
công nợ của công ty trên phần vốn mà họ đóng góp, do đó họ bị hạn chế quyền điều
hành và quản lý công ty, cụ thể :họ không có quyền đại diện công ty trong các quan
hệ đối ngoại, cũng nh không có quyền tham gia biểu quyết trong các cuộc họp của
công ty.
Thực tế ở nớc ta trong thời gian qua có một bộ phận dân c có tiền, muón tham
gia kinh doanh, nhng họ không muốn góp vốn vào công ty cổ phần vì loại hình này
cha phát triển, và không phù hợp với tâm lý cộng đồng của ngời Việt Nam, hơn nữa
thị trờng chứng khoán ở nớc ta cha đi vào hoạt động. Đối với công ty TNHH thì qui
định quá chặt chẽ về đối tợng tham gia thành lập công ty, đồng thời do tính chất chịu
trách nhiệm hữu hạn, nên nó không tạo đợc sự tin tởng đối với khách hàng đặc biệt là
những dịch vụ mà hậu quả của nó có thể xảy ra rất nghiêm trọng nh: dịch vụ t vấn
pháp lý, t vấn xây dựng ... Trong khi đó họ không muốn một mình gánh chịu rủi ro d-
ới hình thức DNTN, vì nh vậy có thể dẫn tới sự khánh kiệt gia tài của họ .
Xuất phát từ thực tế đó, trên cơ sở luật Khuyến Khích Đầu T Tong Nớc và chủ
trơng thu hút mọi nguồn lực, tiềm năng của đất nớc để phát triển kinh tế. Luật DN đã
qui định một loại hình doanh nghiệp mới đó là công ty hợp doanh. Công ty Hợp
Doanh theo luật DN ngày 12/6/1999 nó không giống với loại hình công ty HD truyền
thống của các nớc trên thế giới, mà nó là sự hoà trộn giữa hai loại hình công ty HD và
công ty hợp vốn đơn giản, tức là vừa có các thành viên hợp danh, chịu trách nhiệm vô
hạn về công nợ công ty, lại vừa có các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về
công nợ công ty trên phần vốn mà mình đã góp. Việc qui định loại hình công ty HD
trong luật DN là một bớc tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật kinh doanh ở
nớc ta, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu của giới kinh doanh mà còn phù hợp với thông
lệ quốc tế, là loại hình doanh nghiệp phù hợp nhất đối với các ngành nghề đòi hỏi
trách nhiệm cao của cá nhân với chất lợng của dịch vụ mà mình cung ứng .
Trên đây là những nội dung mới, cơ bản mà luật DN đã đa ra, ngoài ra luật DN
còn qui định mới về đối tợng đợc quyền tham gia thành lập, quản lý và góp vốn vào
các doanh nghiệp nhằm bảo đảm tnhs thống nhất giữa luật DN với các văn bản pháp

luật khác nh: Bộ Luật Dân Sự, luật Thơng Mại, pháp lệnh Công Chức ... đồng thời góp
phần phát huy tối đa mọi nguồn lực hiện có trong xã hội vào đầu t và phát triển sản
13
xuất, thúc đẩy mọi ngời làm giàu hợp pháp bằng tài năng và nguồn vốn của mình.
Luật DN qui định mọi ngời đèu đợc quyền quản lý và thành lập doanh nghiệp chỉ trừ
các đối tợng sau: cơ quan nhà nớc, đơn vị thuộc lực lợng vũ trang nhân dân sử dụng
tài sản nhà nớc và công quĩ để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho
đơn vị mình: cán bộ, công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân Đội Nhân Dân, sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp trong các đơn vị thuộc Công An Nhân Dân; cán bộ lãnh đạo quản
lý nghiệp vụ trong các DNNN ,ngời cha thành niên, bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự ; ngời đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành
hình phạt tù hoặc đang trong thời gian bị toà án tớc quyền hành nghề vì phạm một số
tội về kinh tế ;những ngời đảm nhiệm một số chức danh của doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản ; ngời nớc ngoài không thờng trú ở Việt Nam .
Cùng với việc mở rộng đối tợng đợc thành lập và quản lý doanh nghiệp , luật
DN còn cho phép mọi cá nhân , tổ chức đợc quyền góp vốn vào doanh nghiệp , trừ cơ
quan nhà nớc ,đơn vị lực lợng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nớc và công quĩ
góp vốn thu lợi riêng cho cơ quan , đơn vị mình ,các đối tợng không đợc quyền góp
vốn vào doanh nghiệp theo qui định của pháp luật về cán bộ , công chức . Ngoài ra
luật còn qui định tổ chức , cá nhân nớc ngoài không thờng trú tai Việt Nam , ngời
Việt Nam định c ở nớc ngoài đợc góp vốn vào công ty TNHH ,công ty cổ phần và
công ty Hợp Danh theo qui định luật Khuyến Khích Đầu T Trong Nớc .
II/ Thực tiễn áp dụng luật doanh nghiệp .
Luật DN có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2000 .việc đa luật doanh nghiệp
vào cuộc sống là một nhu cầu bức thiết nhằm cụ thể hoá đờng lối , chủ chơng của
Đảng , nhà nớc về CNH-HĐH trong giai đoạn cách mạng ngày nay . Hoàn thiện một
bớc cơ chế thị trờng theo định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa , tạo hành lang pháp lý chặt
chẽ và thống nhất , cải cách thủ tục hành chính theo xu hớng đơn giản gọn nhẹ đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trờng trong giai đoạn mới . Đồng thời mở ra một môi

trờng kinh doanh thuận lợi , bình đẳng cho mọi cá nhân , tổ chức có nhu cầu , làm
giàu chân chính và sẽ không phải là vô căn cứ khi nói rằng :trong một tơng lai không
xa , luật DN sẽ là đạo luật chính , duy nhất qui địn về địa vị pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế nớc ta . Sở dĩ chúng ta khẳng định nh vậy
14
bởi xét ngay bản thân luật DN các nhà làm luật đã có dụng ý đa ra hai phần riêng
biệt :
Phần chung qui định những vấn đề chung nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp
nh qui chế thành lập , phạm vi điều chỉnh , quản lý nhà nớc và ngành nghề kinh doanh
...
Phần riêng đề cập những vấn đề mang tinh đặc trng của mỗi loại hinh doanh
nghiệp trong nền kinh tế .
Qui định nh vậy vừa không mất đi nét riêng biệt của mỗi loại hình , lại vừa
thống nhất những phạm trù pháp lý chung đảm bảo quyền tự do , bình đẳng theo pháp
luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế . Tiến tới đa
các loại hinh doanh nghiệp ở các văn bản khác nhau , thống nhất dới sự điều chỉnh
của luật DN . Nh DNNN , doanh nghiệp tập thể của các tổ chức chính trị , tổ chức
chính trị xã hội có thể cổ phần hoá theo loại hình công ty cổ phần hoặc hoạt động nh
công ty TNHH một thành viên ; HTX có thể chuyển sang hoạt động dới hình thức
công ty hợp danh, công ty TNHH , công ty cổ phần ; các doanh nghiệp nớc ngoài thì
tuỳ thuộc vào tỷ lệ vốn góp của bên nớc ngoài và bên VN mà tơng ứng với loại hình
công ty TNHH một thành viên hay hai thành viên trở lên ...
Đây là một điểm tiến bộ mang tính lâu dài mà luật Doanh Nghiệp đã dự liệu ,
tránh hiện trạng tản mạn về pháp luật , loại bỏ những bất đồng , mâu thuẫn mà những
văn bản pháp luật khấc nhau đa ra . Song để t tởng này đợc thực hiện chúng ta cần
phải có thời gian , khi mà các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế phát
triển đến một mức độ nhất định , giữa các thành phần không có sự khác biệt quá xa về
năng lực cũng nh trình độ , đó cũng là lúc t tởng tự do và bình đẳng theo pháp luật
trong kinh doanh đợc thực hiện không chỉ đối với các thàmh phần kinh tế trong nớc
mà cả đối các chủ đầu t nớc ngoài , tạo ra môi trờng kinh doanh lành mạnh , thúc đẩy

nội lực trong nớc và thu hút nguồn vốn đầu t nớc ngoài .
Theo thống kê cha đày đủ ,tính đến ngày 30 tháng 6 năm2000 cả nớc có 6441
doanh nghiệp đợc thành lập mới theo luật DN với tổng số vốn đăng ký là
5.733.598(triệu) ,bao gồm 3031 DNTN,3132công tyTNHH,và 282 công ty cổ
phần.Tính riêng thành phố HCM số doanh nghiệp mới đăng ký tăng 89% so với cùng
kỳ năm trớc , tổng số vốn đăng ký 2626.8 tỷ tăng 52% so với cùng kỳ năm trớc .
15
Về cơ cấu nghành nghề kinh doanh cũng có chuyển biến theo hớng tích cực ,
xu hớng chuyển mạnh sang đăng ký các nghành nghề nh : chế biến , nông nghiệp ,lâm
nghiệp , số các doanh nghiệp đăng ký các nghành nghề nh :du lịch , khách sạn , dịch
vụ giảm xuống . Số doanh nghiệp mở chi nhánh , văn phòng đại diện , bổ xung thêm
nghành nghề kinh doanh , bổ xung thêm vốn tăng với tốc đọ nhanh . Điều đó chứng tỏ
sự hởng ứng nhiệt tình của giói kinh doanh nói riêng và xã hội nói chung đối với
những đổi mới của luật DN so với luật Cty, luật DNTN trớc đây .
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực , còn tồn tại một số mặt tiêu cực trong
quá trình triển khai thi hành luật DN mà cần phải khắc phục . Những hạn chế đó đôi
khhi tồn tại ngay trong những quy định mới , quy định mang tính tiến bộ của luật DN
nếu chúng ta không có một cơ chế điều chỉnh hợp lý , đồng bộ .
1/ Một trong những vấn đề đợc các chuyên gia quan tâm và gây nhiều tranh cãi , đó
là vấn đề :Bỏ thủ tục xin giấy phép thành lập trong quá trình thành lập doanh nghiệp .
Nhiều ngời lo rằng:Vơí việc đon giản hoá thủ tục hành chính trong tiến trình thành lập
doanh nghiệp nh hiện nay dễ tạo ra những lỗ hổng cho tiêu cực , lừa đảo có đất tồn
tại .
Trớc đây trong luật Cty , luật DNTN quy định : Muốn thành lập doanh nghiệp,
trớc hết ngơừi muốn thành lập phải làm thủ tục xin phép thành lập tại cơ quan nhà nớc
có thẩm quyền , trong đó ứng viên phải giải trình một số điều kiện về nghành nghề
kinh doanh , phơng án kinh doanh ... Song quan trọng nhất là điều kiện về vốn nh vậy
sáng lập viên phải thu hút đợc số vốn điều lệ lớn hơn số vốn pháp định mà luật quy
định , sau đó gửi vào tài khoản phong toả tại một ngân hàng . Chỉ khi nào đáp ứng đợc
đủ các điều đó thì mới đợc cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp . Việc quy định nh

vạy bảo đảm đợc quyền lợi ngời có vốn , chí ít nó đã đợc chứng thực bởi một cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền .
Ngày nay theo luật DN thì bất cứ một ai cũng có thể đứng ra vận động góp vốn
thành lập doanh nghiệp , song sự vận động này không có một cơ sở pháp lý vững chắc
, nó chỉ dựa trên hợp đồng thành lập đợc ký kết giữa các bên mà không đợc đảm bảo
bởi một cơ quan nhà nớc nào và số tiền vốn góp cũng không đợc đa vào một tài khoản
phong toả , điều đó dẫn tới quyền lợi của ngời góp vốn có thể bị lợi dụnh nếu nh
không nắm vững các thông tin về nhân thân của sáng lập viên cũng nh thiếu kinh
nghiệm trong kinh doanh tạo ra tâm lý lo lắng , e ngại của nhà đầu t.
16
Tuy nhiên để đi đến quyết này quốc hội cũng đã cân nhắc giữa cái lợi , cái hại
của việc bỏ vôns pháp định .Việc bỏ vốn pháp định có thể tạo ra khẽ hở nếu nh cóng
tác quản lý không chặt chẽ và thống nhất dẫn đến thông tin thiếu trung thực . Song đã
đến lúc cần tạo cho doanh nhân Việt Nam một phong cách kinh doanh mới :không chỉ
dựa vào cón dấu , chữ ký của cơ quan nhà nớc mà phải tự mình tìm hiểu, nghiên cứu
thị trờng cũng nh xem xét các thông tin liên quan đến đối tác , bạn hàng tạo ra sự
năng động và nhậy bén trong môi trờng kinh doanh mới . Hơn nữa việc quy định thực
tế hiện nay là cơ hội để cho các cơ quan chứng thực nhà nớc có điều kiện để sách
nhiễu doanh nghiệp và làm phi pháp . Do đó quốc hội đã quyết định chọn phơng án ít
hại nhất ,tức bỏ mức vốn pháp định và xin giấy phép thành lập , nhng để quy định mới
thực sự phát huy tác dụng đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của chính phủ, bộ và các
ban nghành đảm bảo lợi ích chính đáng cho các nhà đầu t
2/ Về chủ thể của công ty TNHH một thành viên. Theo quy định của Luật DN, công
ty TNHH một thành viên do một tổ chức góp vốn thành lập, quy địng nh vậy có nghĩa
là chỉ có các tổ chức có t cách pháp nhân mới đợc quyền thành lập công ty, còn cá
nhân thì không đợc phép. Quy định nh vậy phải chăng các nhà làm luật chỉ có ý đồ,
nhằm tạo cơ sở pháp lý để cho các DNNN, DNTT chuyển sang hoạt động theo luật
DN nh quy định tại điều một khoản 2 đáp ứng yêu cầu tự do, bình đẳng theo pháp luật
trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế. Hay suất phát từ thực tiễn môi trờng
kinh doanh ở nớc ta, khi thành phần kinh tế t nhân còn đang trong thời kỳ trứng nớc

yếu cả về khả năng tài chính cungx nh năng lực tổ chức quản lý hoạt động kinh
doanh. do đó các nhà làm luật e rằng nếu quy định chủ thể của công ty TNHH một
thành viên là cá nhân thì dễ dẫn đến sự đổ vỡ của các doanh nghiệp, khó đảm bảo
quyền lợi của khách hàng...Thiết nghĩ đây là vẫn đề của thị trờng và hãy để tự thị tr-
ờng giải quyết.
Song theo quan điểm của nhiều ngời quy định nh vậy không phù hợp với thực
tế, bởi trong xã hội có nhiều ngời có nhu cầu thành lập doanh nghiệp để kinh doanh
song họ không muốn thành lập DNTN bởi tính rủi do của nó rất cao, họ cũng không
muốn thành lập các loại hình công ty khác do phải phụ thuộc và mất quyền chủ động
trong KD. Do đó mô hình công ty TNHH một thành viên là phù hợp nhất với họ về
mặt này luật DN đã biểu hiện sự xa vời thực tế.
17
Để bảo vệ quan điểm trên có ngời còn cho rằng nếu quyết định cá nhân đợc
phép thành lập công ty TNHH một thành viên thì sẽ làm triệt tiêu loại hình DNTN,
đây là một quan điểm sai lầm bởi nh chúng ta đã biết mỗi một loại hình tổ chức kinh
doanh đều có u và nhợc điểm của nó. Công ty TNHH một thành viên có u điểm là chủ
sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về công nợ của công ty trên phần vốn góp.
Đây là u điểm của công ty TNHH một thành viên song nó cũng chính là hạn chế khi
cônh ty quan hệ với bạn hàng, bởi khách hàng sẽ không yên tâm nếu lợi ích của mình
vợt quá khả năng thanh toán của công ty. Còn đối với DNTN thì ngợc lại, mặc dù chủ
DN phải chịu dủi do cao song họ lại dễ dàng có đợc các mối quan hệ làm ăn với bạn
hangf bởi khách hàng sẽ yên tâm hơn vì ngoài tài sản của DN thì lợi ích của họ còn đ-
ợc bảo đảm bằng toàn bộ tài sản của chủ sở hữu DNTN. Thực tế,thời gian qua mặc dù
pháp luật không quy định về loại hình công ty THHH một thành viên do cá nhân là
chủ sở hữu nhng lại mậc nhiên thừa nhận sự tồn tại của nó dới một số hình thức khác
nhau (k2_d2).Trong luật đầu t nớc ngoài đợc quốc hội thông qua ngày 12/11/96 quy
định nhà đầu t nớc ngoài là tổ chức kinh tế,cá nhân nớc ngoài đầu t vào VN ,nh vậy
pháp luật đã cho phép nhà đầu t nớc ngoài thành lập công ty TNHH một thành viên d-
ới hình thứcDN 100% vốn nớc ngoài thí sớm muộn cũnh nên cho phép các nhà đầu t
trong nớc đợc hởng quyền đó.bởi một trong các nguyên tấc của công tác ban hành

pháp luật nh chúng ta đã có lần đề cập tới là nó phải đáp ứng đợc yêu cầu sát thực với
mối quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh,không chỉ ở hiện tại mà phải đón trớc xu hớng
phát triển của nó trong tơng lai.Pháp luật có ổn định thì kinh tế mới có cơ sở vững
chấc để phát triển,trong khi đó,nhà nớc đã có một chủ trơng về lâu dài kết hợp luật
đàu t nớc ngoài và luật đầu t khuyến khích thành một đạo luật đầu t chung.Đây là
quan điểm mới ở nớc ta,song nó đã đợc thực hiện ở nhiều nớc trong khu vực và trên
thế giới. Vẫn biết rầng trong giai đoạn trớc mất chúng ta cần phải có chính sách u đãi
đói với đầu t nớc ngoài,nhầm thu hút lợng vốn lớn cho quá trình CNH,HĐH đất n-
ớc.Song chúng ta phải luôn nhạn thức rõ ràng quan điểm của đảng và nhà nớc về quá
trình CNH,HĐH đã đợc đề ra trong đại hội 8Dựa vào nguồn nội lực là chính,nguồn
lực bên ngoài là quan trọng.Do vậy chúng ta quan tâm ,khuyến khích đầu t nớc ngoài
là chính sách hoàn toàn đúng đấn,song đồng thời và quan trọng hơn là phải phát huy
tới mức tối đa nguồn lực trong nớc.
18

×