Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.07 KB, 95 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII về chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, Ngành Thủy
sản Việt Nam đã có nhiều nỗ lực phát huy mọi nguồn lực của xã hội vào đầu tư
phát triển và tổ chức tốt sản xuất kinh doanh Thủy sản. Ngành đã đạt được
thành tựu to lớn trong sản xuất kinh doanh, khẳng định được vai trò là một
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Xác định chiến lược phát triển dài hạn với định hướng rõ rệt trong từng thời
kì, đổi mới mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đưa nuôi trồng thuỷ sản thành một hướng
cân đối chiến lược ngang tầm khai thác biển, đã tạo nên những chuyển biến rõ
rệt trong Ngành, đưa vị thế của Thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế không
ngừng được củng cố và mở rộng. Đạt được những thành tựu như vậy là nhờ hoạt
động đầu tư phát triển không ngừng của Ngành trong thời gian qua, đặc biệt là
trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Để tạo điều kiện cho Ngành Thủy sản phát
triển hơn nữa, hòa nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế khi bước vào
thiên niên kỉ mới, sự cần thiết là đề ra các giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh
đầu tư phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản góp phần đưa Ngành Thủy
sản phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Nhận thức được vấn đề đó em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Đầu tư phát
triển nuôi trồng thuỷ sản - Thực trạng và giải pháp" cho luận văn tốt nghiệp
của mình.
Với đề tài này, nội dung của luận văn được chia làm 3 phần chính (ngoài
phần mở đầu, kết luận, phụ lục và các tài liệu tham khảo):
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư và Ngành Thủy sản
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta giai
đoạn 1996-2000
Chương III: Các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển nuôi trồng thủy
sản giai đoạn 2001-2010
Để hoàn thành được đề tài này, trong suốt quá trình thực tập em luôn nhận


được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà, các thầy cô giáo
- 1 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
trong bộ môn Kinh tế đầu tư, các cô chú ở Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thủy
sản, đặc biệt là chú Nguyễn Duy Vĩnh- chuyên viên của Vụ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Thủy sản về phương pháp nghiên cứu, bố cục, cách viết một chuyên đề,
cũng như những kiến thức thực tế cần thiết khác.
Qua đây, em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Nguyễn Thị
Thu Hà, các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế đầu tư, chú Nguyễn Duy Vĩnh
và các cô chú trong Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thủy sản đã chỉ dẫn, giúp đỡ
tận tình em trong quá trình hoàn thiện bài viết này. Tuy nhiên, do trình độ lí luận
cũng như trình độ hiểu biết còn non kém nên bài viết của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo tận
tình của các thầy cô giáo và các cô chú để em có thể hoàn thiện đề tài của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2001
Sinh viên: Trần Thị Thanh Bình
- 2 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG
I - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư
1.1. Khái niệm về đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có
thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào dó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.

Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn
trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ, là nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi
nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết
quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp được gọi là đầu tư phát triển. Từ đó ta có
định nghĩa: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,
nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa
và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự
hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao
đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
- 3 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh những giá trị ở hiện tại
gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán,
phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không
phải là đầu tư đối với nền kinh tế.
Ngoài ra, có thể hiểu khái niệm đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng.
Đầu tư thực chất là quá trình chuyển hóa vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc
tạo ra các năng lực sản xuất, tạo ra các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình
phát triển sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của mọi nền

kinh tế và là cơ sở của mọi sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn biểu hiện dưới những mục tiêu kinh
tế xã hội. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư luôn phải vạch ra các mục tiêu cụ
thể. Xác định mục tiêu cụ thể là yếu tố đảm bảo cho hoạt động đầu tư đem lại
hiệu quả cao.
Từ sự phân tích trên, ta thấy bản chất của đầu tư là một hoạt động kinh tế, là
một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở. Đó là tất cả
những sự hi sinh tiêu dùng ở hiện tại cả về tiềm lực vật chất, phi vật chất, con
người, tài nguyên, tiềm năng tài chính, phi tài chính, hữu hình và vô hình... với
mục đích tạo mới, hoặc tái tạo tư bản nhằm hướng tới sự tiêu dùng trong tương
lai tốt hơn. Như vậy, nếu nghiên cứu kĩ quá trình chu chuyển đầu tư ta thấy, đầu
tư là cơ sở hình thành tư bản, trong đó có cả tài sản cố định, vốn sản xuất và
nguồn nhân lực (tư bản con người).
1.2. Đặc điểm của đầu tư
Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt
các loại đầu tư sau:
 Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không
tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế
trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ
chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính,
vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách
nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để
- 4 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
giảm độ rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là
một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
 Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hóa và sau đó đem bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận

do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), và chỉ làm
tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại,
chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và
người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác
dụng thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng
tích lũy cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản
xuất xã hội nói chung.
 Đầu tư phát triển: là loại đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó
người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế, tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động
xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của
mọi người dân trong xã hội.
Từ sự phân biệt các loại đầu tư trên, ta thấy chỉ có đầu tư phát triển mới tạo
ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân. Và do đó, đầu tư phát triển có những
đặc điểm khác biệt so với loại hình đầu tư khác, được thể hiện ở các khía cạnh
sau:
+ Đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên việc quyết định đầu tư thường là quyết
định tài chính.
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi dưới các hình thức khác nhau,
nhưng vốn có thể được xác định dưới các hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết
định đầu tư thường được xem xét ở phương diện tài chính (tổn phí bao nhiêu, có
khả năng thực hiện không? Có khả năng thu hồi vốn không? Mức sinh lợi là bao
nhiêu?...). Trên thực tế hoạt động đầu tư và các quyết định chi tiêu (đầu tư)
thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của Ngân sách (Nhà nước, địa phương, cá
nhân...) và luôn được xem xét ở khía cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có thể
khả thi ở những phương diện khác (kinh tế-xã hội, môi trường), nhưng không
- 5 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A

khả thi về phương diện tài chính và vì thế dự án cũng không thực hiện được trên
thực tế.
+ Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài; tiền, vật tư, lao động cần huy
động lớn.
Khác với hoạt động đầu tư thương mại và đầu tư tài chính, đầu tư phát triển
thường có tính chất lâu dài, thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi thành
quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến
động xảy ra. Trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm
khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình
chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá
lớn của đầu tư phát triển.
Mặt khác, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với
các cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều
năm tháng, do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của
các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
+ Hoạt động đầu tư là hoạt động cần cân nhắc giữa lợi ích ở hiện tại nhằm
mong muốn có được lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn luôn có sự cân nhắc, so
sánh giữa lợi ích ở hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng, nhà đầu tư mong
muốn và chấp nhận chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn
lợi ích ở hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh.
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo nên. Do đó, các điều kiện về địa hình
tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau
này của các kết quả đầu tư.
+ Đầu tư là hoạt động mang tính rủi ro.
Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực
hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những
thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Mặt khác,
các kết quả và hiệu quả hoạt động của các thành quả đầu tư chịu nhiều ảnh
hưởng của các nhân tố bất ổn định theo thời gian và điều kiện địa lí của không

gian.
- 6 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Do hoạt động đầu tư phát triển có đặc điểm như trên nên để đảm bảo cho
mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải thực hiện
đầu tư theo dự án.
2. Vai trò của đầu tư trong nền kinh tế
Từ việc xem xét khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư phát triển, các lí
thuyết kinh tế, cả lí thuyết kinh tế kế hoạch hóa tập trung và lí thuyết kinh tế thị
trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là
chìa khóa của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những mặt
sau:
2.1.Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
Là một bộ phận của tổng cầu và tổng cung, đầu tư ảnh hưởng mạnh
mẽ tới cân bằng cung - cầu. Là bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi
tiêu, đầu tư có vai trò kinh tế vĩ mô.
Trong ngắn hạn, đầu tư ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập: khi
tổng cung chưa kịp thay đổi (do độ trễ thời gian của đầu tư), sự tăng lên của
đầu tư làm tổng cầu tăng theo, đường cầu dịch chuyển sang phải (đồ thị). Ở
điểm cân bằng, giá tăng và sản lượng tăng.
S


P
1
E
1
S’


E
0

P
0
E
o

P
2
E
2
D D’
Q

0 Q
0
Q
1
Q
2
Q
- 7 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
(HÌNH 1)
Trong dài hạn, đầu tư tăng làm sản lượng tăng lên, đường cung dịch
chuyển sang phải. Ở điểm cân bằng, giá giảm và sản lượng tăng thu nhập
của người sản xuất tăng, dẫn đến tăng tích luỹ, có tác dụng mở rộng năng
lực sản xuất. Vì vậy, về mặt dài hạn thì đầu tư làm tăng sản lượng tiềm

năng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hơn nữa, để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn kinh
nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra
sự phát triển nhanh mọi khu vực.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối
về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển
nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Mặt khác, để đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỉ lệ
đầu tư phải đạt được từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi
nước.
Mức
tăng
GDP
=
Vốn đầu tư
---------------------
I COR
Nếu như hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc
vào vốn đầu tư.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các
nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả
đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của
chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn
ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thường cao
chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất.
Ngoài những tác động về kinh tế, đầu tư còn động lực thúc đẩy sự phát
triển của khoa học và công nghệ cũng như các mặt của xã hội như văn hoá,

giáo dục, vui chơi, giải trí...
- 8 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn,
để tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào đều cần
phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị
trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí
khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất-kĩ thuật
vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật
chất-kĩ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng hoặc đổi mới để thích ứng với
điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kĩ thuật và nhu cầu tiêu
dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho
các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân
mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sữa chữa lớn định kì
các cơ sở vật chất-kĩ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả
những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
3.Vốn và nguồn vốn đầu tư
Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã
hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, vốn huy
động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội
nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho xã hội.
Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Thực tế những
quốc gia phát triển trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều
kiện tiên quyết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tốc độ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh hay chậm là do nguồn vốn đầu tư quyết
định. Nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ có thể tạo ra bằng tiết

kiệm trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó, vốn trong nước giữ
vai trò then chốt, có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau:
- Vốn tích lũy từ Ngân sách.
- 9 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
- Vốn tích lũy của các doanh nghiệp.
- Vốn tiết kiệm của dân cư.
- Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và
vốn đầu tư gián tiếp.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước
ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lí hoặc tham gia quản lí, sử
dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra.
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ
chức phi Chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại,
có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển
chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA).
4. Hoạt động đầu tư
Quá trình sử dụng vốn đầu tư, xét về bản chất chính là quá trình thực hiện
sự chuyển hóa vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những
yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt. Quá trình này còn
được gọi là hoạt động đầu tư hay đầu tư vốn.
Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn
có hoặc tạo ra những tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ và sinh
hoạt đời sống. Do đó, đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt
động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật của nền
kinh tế.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ

phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kĩ
thuật mới, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất-kĩ thuật hiện có. Vì thế
đầu tư là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư là một đòi hỏi khách quan của sự tồn tại và phát triển xã
hội trong mọi nền sản xuất khác nhau. Mục tiêu của hoạt động đầu tư luôn được
xem xét ở 2 góc độ: tầm vĩ mô và tầm vi mô. Những mục tiêu được xem xét ở
tầm vi mô là những mục tiêu cụ thể, trước mắt và rất đa dạng. Đạt được các mục
tiêu này sẽ góp phần vào việc thực hiện của các mục tiêu phát triển. Các mục
- 10 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
tiêu được xem xét ở tầm vĩ mô xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, của xã
hội và của địa phương, ngành.
4.1 Phân loại hoạt động đầu tư
Nhằm đáp ứng những nhu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế khác nhau,
người ta tiến hành phân loại các hoạt động đầu tư theo các tiêu thức sau:
 Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: bao gồm đầu tư cho các đối
tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng,
máy móc, thiết bị...), cho các đối tượng tài chính (đầu tư tài chính như
mua cổ phiếu, trái phiếu, và các khoản khác...) và đầu tư cho các đối
tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo,
nghiên cứu khoa học, y tế...)
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên
quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện
quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối
tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất
yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu
quả kinh tế xã hội cao.
 Theo cơ cấu tái sản xuất: Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư
chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó, đầu tư chiều rộng là đầu tư để

mở rộng sản xuất bằng kĩ thuật và công nghệ lặp lại như cũ. Đầu tư theo
chiều sâu là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kĩ thuật và công nghệ tiến
bộ và hiệu quả hơn. Đầu tư theo chiều sâu có thể thực hiện bằng cách
mua sắm tài sản cố định sản xuất loại mới tiến bộ và hiệu quả hơn, hoặc
bằng cách cải tạo và hiện đại hóa các máy móc và xí nghiệp hiện có đã
lạc hậu. Hơn nữa, đầu tư theo chiều rộng vốn lớn, để khê đọng lâu, thời
gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu,
tính chất kĩ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu
thời gian thực hiện đầu tư không dài, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư
theo chiều rộng.
 Theo phân cấp quản lí: Theo qui chế quản lí đầu tư và xây dựng ban hành
theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ phân thành
3 nhóm A, B và C tùy theo tính chất và qui mô của dự án, trong đó nhóm
- 11 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết định.
 Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Có thể phân
chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh,
đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kĩ
thuật và xã hội)...Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với
nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình hoạt động.
 Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, các hoạt động đầu tư
được phân chia thành:
- Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
- Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản
xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ
sở hiện có, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật không thuộc các

doanh nghiệp.
Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện
cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành
thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được. Ngược lại không có
đầu tư cơ bản sẽ không có đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài
hạn, đặc điểm kĩ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các
tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu (nếu có thể thu hồi).
Còn đầu tư vận hành chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kĩ thuật
của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa ra các kết quả đầu tư nói
chung vào hoạt động.
 Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội, có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh
thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất.
 Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra
của các kết quả đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư
- 12 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
ngắn hạn (như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (đầu tư sản xuất, đầu
tư phát triển khoa học- kĩ thuật, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...).
 Theo quan hệ quản lí của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân chia
thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
Đầu tư gián tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham
gia điều hành quản lí quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Còn
đầu tư trực tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lí,
điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
 Theo nguồn vốn:
- Vốn huy động trong nước (vốn tích lũy của Ngân sách, của doanh nghiệp,
tiền tiết kiệm của dân cư).

- Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, vốn đầu tư trực tiếp)
Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của
mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa
phương và toàn bộ nền kinh tế.
 Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh và theo vùng kinh tế của đất nước). Cách
phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế
và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế-xã hội ở từng
địa phương.
Ngoài ra, trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế,
người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo qui mô và theo các tiêu
thức khác nữa.
4.2. Một số chỉ tiêu phân tích hiệu quả của hoạt động đầu tư
 Chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp:
- Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay. Hệ số này phải ≥ 1. Đối với dự án có
triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ này có thể < 1, vào khoảng 2/3 thì
dự án thuận lợi.
- Tỉ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầu tư phải ≥ 50%. Đối với các dự án
triển vọng, hiệu quả rõ ràng thì tỉ trọng này có thể là 40%, thì dự án thuận lợi.
- 13 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
- Tỉ lệ giữa tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn phải ≥ 1 và được xem xét cụ
thể cho từng ngành nghề kinh doanh.
- Tỉ lệ giữa tài sản lưu động có so với tài sản lưu động nợ bằng 2/1 hoặc 4/1
thì dự án thuận lợi.
- Tỉ lệ giữa tổng thu từ lợi nhuận thuần và khấu hao so với nợ đến hạn phải
trả phải ≥ 1.
Trong 5 chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu thứ 4 chỉ áp dụng cho các dự án của các
doanh nghiệp đang hoạt động, 4 chỉ tiêu còn lại áp dụng cho mọi dự án. Hai chỉ
tiêu đầu nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho mọi dự án thực hiện được thuận

lợi, 3 chỉ tiêu sau nói lên khả năng đảm bảo thanh toán các nghĩa vụ tài chính
của dự án.
 Các chỉ tiêu phân tích tài chính :
* Giá trị hiện tại của thu nhập thuần (NPV-Net Present Value)
Thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí gọi là thu nhập thuần. Giá trị hiện
tại của thu nhập thuần còn được gọi là NPV. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối dùng để
đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư trên cơ sở cân đối thu chi hàng năm
và theo một tỉ lệ chiết khấu đã chọn.
Mục đích của việc tính NPV là để xem xét việc sử dụng các nguồn lực của
dự án có mang lại lợi ích lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng hay không. Với ý
nghĩa này, NPV được coi là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá dự án. NPV được
tính theo công thức sau:
NPV =

+

+
==

n
i
i
i
n
i
i
i
r
C
r

B
00
)1()1(
Trong đó: - B
i
: Thu nhập của dự án năm i
- C
i
: Chi phí của dự án năm i.
- n: Số năm hoạt động của dự án.
- r: Tỉ suất chiết khấu được chọn.
Dự án được chấp nhận (đáng giá) khi NPV ≥ 0.
- 14 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
* Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T)
Đó là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã
bỏ ra bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần và khấu hao thu
hồi hàng năm. Có thể tính chỉ tiêu này từ lợi nhuận (W) và khấu hao (D) như
sau:
(W+D)
iPV
≥ I
V0
hoặc I
V0t
- (W+D) ≤ 0
Trong phân tích tài chính, thời gian thu hồi vốn là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá tính khả thi của dự án.
* Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR - Internal Rate of Return)

Chỉ tiêu này còn được gọi là suất thu lợi nội tại, tỉ suất nội hoàn, suất thu
hồi nội bộ. Đó là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển
các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân
bằng với tổng chi, tức là:
)1()1(
11
00
IRR
C
IRR
B
i
n
i
i
i
n
i
i
+

+

==
=
Có thể xác định IRR theo công thức tổng quát sau:



IRR = r

1
+ (r
2
- r
1
)
)()(
)(
21
1
rNPVrNPV
rNPV

Trong đó: r
2
>r
1
và r
2
- r
1
≤ 5%
NPV(r
1
) > 0 gần 0, NPV(r
2
) < 0 gần 0.
 Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án
* Giá trị sản phẩm gia tăng thuần túy (NVA - Net Value Added) là chỉ tiêu
cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. NVA là mức chênh

lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính:
NVA = O - (MI + I)
Trong đó: NVA: là giá trị gia tăng thuần túy do dự án đem lại.
- 15 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
O : Giá trị đầu ra của dự án
MI : Là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ
mua ngoài theo yêu cầu để đạt được các đầu ra trên đây.
I : Vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dựng nhà xưởng,
mua sắm máy móc thiết bị.
Chỉ tiêu NVA biểu thị sự đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế.
Trong tổng số giá trị gia tăng sản phẩm thuần túy do dự án đem lại gồm có giá
trị gia tăng trực tiếp (do chính dự án tạo ra) và giá trị gia tăng gián tiếp (do các
dự án có liên quan tạo ra do sự đòi hỏi trong hoạt động của dự án đang xem xét.
* Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc
làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư.
- Số lao động có việc làm: bao gồm cả số lao động có việc làm trực tiếp cho
dự án và số lao động có việc làm gián tiếp ở các dự án liên đới. Phân tích và
đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội qua chỉ tiêu này là xem xét số lao động có việc
làm do dự án tạo ra, số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư và
những đóng góp của dự án đối với mục tiêu giải quyết việc làm của xã hội.
- Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư: để tính chỉ tiêu này, ta
phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các
dự án liên đới (Vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp đó tính các chỉ tiêu sau:
+ Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu
tư trực tiếp, kí hiệu là I
d
.
I

d
=
I
L
vd
d
Trong đó: L
d
- Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án.
I
vd
- Số vốn đầu tư trực tiếp của dự án.
+ Toàn bộ số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư đầy đủ
ký hiệu là I
T
:
I
T
=
I
L
vT
T
- 16 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Trong đó: L
T
- Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp.
I

vT
- Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự
án liên đới.
Nói chung tiêu chuẩn đánh giá là các chỉ tiêu này có giá trị càng cao thì dự
án càng có tác động lớn đến nền kinh tế và có ảnh hưởng đến vấn đề xã hội.
* Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người làm công
ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, Nhà nước thu thuế...) hoặc vùng
lãnh thổ:
Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư
hoặc vùng lãnh thổ. So sánh tỉ lệ giá trị giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư
hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động
bình thường của dự án với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng
do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ trong nước.
* Chỉ tiên ngoại hối ròng (tiết kiệm ngoại tệ)
Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem
xét tác động của dự án đến cán cân thanh toán của đất nước. Xác định mức tiết
kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức độ đóng góp của dự án và cán cân thanh
toán của nền đất nước. Dự án có thể có tác động tích cực làm tằng nguồn ngoại
tệ cho đất nước và cũng có thể làm bội chi ngoại tệ.
- 17 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
* Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án
sản xuất ra trên thị trường quốc tế.
* Những tác động khác của dự án
- Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: sự gia tăng năng lực phục vụ của
kết hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới.
- Tác động đến môi trường: đây là những ảnh hưởng của đầu vào và đầu ra
của dự án đến môi trường. Trong các tác động có tác động tích cực, tác động

tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực thì cần có các giải pháp khắc phục, chi phí để
thực hiện các giải pháp đó. Nếu chi phí này quá lớn, lớn hơn cái xã hội nhận
được thì phải chuyển địa điểm thực hiện dự án (nếu có thể được) hoặc bác bỏ dự
án.
- Nâng cao trình độ kĩ thuật sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao
động, trình độ quản lí của những nhà quản lí, nâng cao năng suất lao động, nâng
cao thu nhập của người lao động.
- Những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác (tận dụng và khai thác
tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện, tiếp nhận được công nghệ
mới nhằm hoàn thiện cơ cấu sản xuất, những tác động đến các ngành, các lĩnh
vực khác; tạo thị trường mới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát
triển các địa phương yếu kém, các vùng xa xôi nhưng có tiềm năng…)
II - NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN
1. Đặc điểm, vai trò của Ngành Thủy sản
1.1. Đặc điểm của Ngành Thủy sản
Thủy sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác,
nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại; là một trong những
ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên
khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nước, do
vậy có mối liên hệ ngành với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, du lịch, hải
quan...
- 18 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Ngành Thủy sản được xác định giữ vai trò quan trọng sự phát triển kinh tế-
xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài
nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước - những tài nguyên với tiềm năng
có thể đóng góp lớn cho các mục tiêu lớn về tài chính, về công ăn việc làm, và
về dinh dưỡng. Xét một cách tổng thể thì Ngành Thủy sản có các đặc điểm sau:
 Ngành thủy sản là ngành vừa mang tính công nghiệp, nông nghiệp,

thương mại, lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên.
 Ngành Thủy sản là ngành có năng suất và hiệu quả lao động tự nhiên cao,
có tác dụng tới tái sản xuất mở rộng. Các thành phần kinh tế tham gia
hoạt động sản xuất rất đa dạng: Tư bản Nhà nước (doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần), tập thể
(hợp tác xã, tập đoàn), tư nhân (hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
 Ngành Thủy sản là ngành sản xuất có liên quan đến việc sử dụng diện
tích mặt nước cũng như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt
nước. Các sản phẩm thủy sản có khẩu vị ngon, dễ chế biến, lượng đạm
không tích mỡ, đa dạng, có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được nhiều
người, nhiều nơi trong và ngoài nước ưa chuộng.
 Ngành Thủy sản là ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có thể thu
hoạch được sản phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn. Thực tiễn đã
chứng minh rằng: việc đầu tư lao động sống và lao động vật hóa vào hoạt
động sản xuất nghề cá một cách hợp lí sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Ví
dụ: một ngư dân bình quân hàng năm đánh bắt được từ 2,04-2,07 tấn cá
biển, giá trị tương đương với khoảng 10 tấn thóc, hay 1 ha nuôi tôm giá
trị bằng 100 ha trồng lúa. Trong khi đó, một lao động nông nghiệp nếu
thực hiện 1 ha gieo trồng lúa chỉ đạt được 3-4 tấn thóc/năm.
 Hoạt động sản xuất của ngành diễn ra trong một phạm vi rộng lớn từ
miền núi đến các vùng đồng bằng, vùng ven biển và ngoài khơi với nhiều
hình thức sản xuất như khai thác, nuôi trồng, chế biến...
 Ngành Thủy sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng
lớn, tạo khả năng khai thác qui mô lớn nhưng có sự tác động của con
người để tái tạo nguồn tài nguyên này.
- 19 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Như vậy, với những đặc điểm vốn có như vậy thì Ngành Thủy sản Việt
Nam muốn phát triển tốt phải biết tận dụng nguồn tài nguyên quý hiếm này để

đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất.
1.2. Vai trò của Ngành Thủy sản trong nền kinh tế
Nước ta là một nước có ưu thế về biển, cuộc sống xã hội gắn chặt với sông
nước, vì vậy Thủy sản nói chung, nghề cá nói riêng của nước ta là một Ngành có
truyền thống lâu đời. Đó là Ngành cung cấp chất dinh dưỡng và tạo mức an toàn
về thực phẩm cho con người. Các sản phẩm thủy sản là những yếu tố quan trọng
đối với sự an toàn về lương thực, thực phẩm.
Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, từ chỗ là một bộ phận không
lớn thuộc khối nông nghiệp, với trình độ lạc hậu vào những năm 80, Thủy sản
đã trở thành một ngành kinh tế công-nông nghiệp có tốc độ phát triển cao, qui
mô ngày càng lớn. Xuất khẩu thủy sản đã đóng vai trò đòn bẩy chủ yếu tạo nên
động lực phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta. Từ giai đoạn 1991-1995, cùng
dầu thô, gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn giữ vị trí thứ 2
hoặc thứ 3 trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến nay Ngành Thủy sản
đã vươn lên đứng thứ 19 về sản lượng, thứ 30 về giá trị kim ngạch xuất khẩu,
thứ 5 về sản lượng nuôi tôm trên thế giới.
Vai trò của Ngành Thủy sản cũng được khẳng định trong Nghị quyết của
Chính phủ (ngày 15/6/2000) về ‘một số chủ trương và chính sách về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp’, đó là: “Thủy sản là
Ngành sản xuất sản phẩm đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường
trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành Ngành sản xuất có lợi thế
lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thủy sản đạt 3-3,5 triệu
tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu
vươn lên hàng đầu trong khu vực Châu Á”.
Bên cạnh đó, vai trò của Ngành Thủy sản trong nền kinh tế còn thể hiện ở
chỗ: các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề thủy sản như là kế sinh nhai và thủy
sản là nguồn cung cấp thức ăn chính cho họ trong đời sống hàng ngày. Hơn nữa,
nhu cầu nhân lực hằng ngày cho hoạt động này không lớn, không tiêu tốn nhiều
thời gian, gần nơi ở của gia đình, thời gian quay vòng vốn nhanh, cung cấp thực
phẩm tại chỗ có chất lượng cao, phù hợp và dễ dàng được chấp nhận đối với

- 20 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
nông dân nông thôn miền núi. Mặt khác, nuôi trồng thủy sản dễ dàng kết hợp
với các hoạt động sản xuất khác trong hệ thống canh tác tại khu vực miền núi để
tăng thu nhập và đa dạng hoá các sản phẩm lương thực thực phẩm cho gia đình,
hạn chế rủi ro và tận dụng các phế phụ phẩm trong gia đình tạo thành sản phẩm
khác có giá trị sử dụng.
2. Đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thủy sản
2.1. Khái niệm nuôi trồng thuỷ sản
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Nuôi trồng thuỷ sản là một hoạt
động sản xuất tạo ra nguyên liệu thuỷ sản cho quá trình tiêu dùng sản phẩm,
hoạt động xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản.
Theo quan điểm của các nhà sinh học: Nuôi trồng thuỷ sản là hoạt động tạo
ra các điều kiện sinh thái phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của các loại
thuỷ sản để thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của vòng đời.
Theo hai quan điểm trên ta có khái niệm chung nhất: Nuôi trồng thuỷ sản là
một hoạt động sản xuất sử dụng các yếu tố nguồn lực đầu vào như con giống, tài
nguyên, đất, nước và các công cụ sản xuất khác để thúc đẩy việc tăng trưởng và
phát triển của các loại thuỷ sản, tạo nguồn thực phẩm cho người, thức ăn cho
chăn nuôi động vật và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản.
2.2. Đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản
• Mặt nước
Với 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông, lạch, hàng
ngàn đảo lớn nhỏ, ven biển; trong nội địa hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng
chịt và các hồ thủy lợi, thủy điện, đã tạo cho nước ta có tiềm năng lớn về mặt
nước với khoảng 1.700.000 ha, trong đó:
- Ao hồ nhỏ, mương vườn 120.000 ha.
- Hồ chứa mặt nước lớn 340.000 ha.
- Ruộng có khả năng nuôi thủy sản 580.000 ha.

- Vùng triều 660.000 ha.
- 21 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Chưa kể mặt nước các sông và khoảng 300.000-400.000 ha eo, vịnh, đầm
phá ven biển có thể sử dụng vào nuôi trồng thủy sản chưa được qui hoạch.
• Nguồn lợi giống loài thủy sản
* Nguồn lợi cá nước ngọt : đã thống kê được 544 loài trong 18 bộ, 57 họ,
228 giống. Với thành phần giống loài phong phú, nước ta được đánh giá
có đa dạng sinh học cao. Trong 544 loài đó có nhiều loài có giá trị kinh
tế.
* Nguồn lợi cá nước lợ, mặn : Theo số liệu được thống kê, hiện nay có 186
loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: Cá song, cá hồng, cá tráp,
cá vược, cá măng, cá cam, cá bống, cá đối,cá dìa... Trong đó đã đưa vào
nuôi các loại: Cá vược, cá song, cá măng, cá cam...
* Nguồn lợi tôm: Hiện nay đã thống kê được 16 loài chủ yếu có giá trị kinh
tế và đưa vào nuôi: tôm sú, tôm lớt, tôm he Ấn Độ, tôm rảo, tôm nương,
tôm càng xanh...
* Về nhuyễn thể: Có một số loài chủ yếu: Trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc….
đang đưa vào nuôi các loại: Trai, nghêu, sò...
* Về rong tảo: Với 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó đáng kể là rong câu
(11 loài), rong mơ, rong sụn...
• Khí hậu, thời tiết và điều kiện tự nhiên thích hợp phát triển nuôi trồng
thủy sản
Khí hậu, thời tiết Việt Nam chịu sự chi phối cúa khí hậu nhiệt đới gió mùa,
song ở mỗi miền có đặc trưng khác nhau:
Miền Bắc: Nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5
0
C, lượng mưa trung bình từ
1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 h/năm, mùa mưa từ tháng 6

- tháng 8, và là vùng chịu ảnh hưởng lớn của bão, bão thường xuất hiện sớm
trong cả nước. Vùng biển khu vực này thuộc nhật triều với biên độ 3,2 - 3,6m.
Miền Trung: Nhiệt độ trung bình 25,5 - 27,5
0
C, mưa tập trung vào cuối
tháng 9- tháng 11, nắng nhiều từ 2.300 - 3.000 h/năm. Chế độ thủy triều gồm
nhật triều và bán nhật triều, có nhiều đầm phá thích hợp nuôi thủy sản.
- 22 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Miền Nam: Khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 -
27,6
0
C, mưa tập trung từ tháng 5 - tháng10. Lượng mưa trung bình 1.400 -
2.400mm, nắng trên 2.000 h/năm. Vùng này chủ yếu chế độ bán nhật triều với
biên độ 2,5 - 3 m.
Chế độ khí hậu, thời tiết, các điều kiện tự nhiên đa dạng tạo điều kiện phát
triển nuôi trồng thủy sản đa loài, nhiều loại hình.
• Nguồn lực lao động
Với trên 4 triệu dân sống ở vùng triều và khoảng 1 triệu dân sống ở đầm
phá, tuyến đảo của 714 xã, phường thuộc 28 tỉnh, thành phố có biển và hàng
chục triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra lực lượng lao động nuôi trồng thủy
sản đáng kể, chiếm tỉ trọng quan trọng trong sản xuất nghề cá. Chưa kể một bộ
phận khá đông ngư dân làm nghề đánh cá nhưng không đủ phương tiện để hành
nghề khai thác cũng chuyển sang nuôi trồng thủy sản và lực lượng lao động vừa
sản xuất nông nghiệp, vừa nuôi trồng thủy sản. Trong nhiều năm qua, nông, ngư
dân đã tích lũy nhiều kinh ngiệm trong nuôi trồng thủy sản và là động lực quan
trọng góp phần thực hiện thắng lợi Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản.
3. Sự cần thiết phải đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản
Việc phân tích đặc điểm, vai trò của Ngành Thủy sản ở trên cùng với việc

đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thủy sản như: Diện tích mặt
nước, nguồn lợi giống loài thủy sản, khí hậu thời tiết cũng như nguồn lực lao
động dồi dào có thể cho chúng ta thấy được sự cần thiết của việc phát triển, tăng
cường đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nhằm tận dụng được các nguồn
lực, phát huy khả năng vốn có của Ngành. Sự cần thiết đó còn được thể hiện ở
các mặt sau:
Thứ nhất, Ngành Thủy sản của Việt Nam nhìn chung đã khai thác tới trần
thậm chí có một số vùng đã khai thác quá giới hạn cho phép. Điều này làm ảnh
hưởng lớn đến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong
nghề cá. Các Hội nghị quốc tế về sự đóng góp bền vững của nghề cá vào sản
xuất thực phẩm (hội nghị Kyoto 1992) và Hội nghị các Bộ trưởng Thủy sản
(Roma 1999) đã nhấn mạnh: Nuôi trồng thủy sản gắn liền với bảo vệ môi trường
là phương hướng rất quan trọng đang được sự quan tâm lớn của các quốc gia và
- 23 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
các tổ chức bảo vệ môi trường. Vấn đề bảo vệ các vùng nước khỏi bị ô nhiễm,
bảo vệ các vùng rừng ngập mặn... đang được xem xét gắn liền với việc nuôi
trồng thủy sản. Hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thủy sản luôn đi liền
với việc ngăn chặn và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên bị khai thác cạn kiệt.
Thứ hai, nuôi trồng thủy sản đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng thực
phẩm cho tiêu dùng, hàng hóa xuất khẩu và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Hiện nay, mức tiêu dùng của người Việt Nam đối với các loại thủy sản ước
tính chiếm khoảng 50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Protein. Riêng về cá đã
cung cấp khoảng 8 kg/người/năm, trong đó nuôi chiếm khoảng 30%. Những
năm tới xu thế đời sống nhân dân ngày một khá lên, mức tiêu dùng thực phẩm sẽ
tăng. Điều đáng quan tâm là ngày nay nhân dân đã có xu thế thiên về sử dụng
thực phẩm ít béo. Do đó, cá và sản phẩm gốc thủy sản làm thực phẩm chiếm
phần quan trọng. Trong đó cá nuôi cung cấp tại chỗ, ít chi phí vận chuyển đảm
bảo được tươi sống lại càng có vai trò quan trọng hơn. Theo chiến lược phát

triển kinh tế - xã hội của Ngành Thủy sản, đến năm 2010 tổng sản lượng thủy
sản trên 3,5 triệu tấn, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu khoảng 40%, và theo số
liệu của FAO sản phẩm thủy sản dành cho chăn nuôi 30%, thì sản lượng còn lại
dành cung cấp thực phẩm cho con người. Nếu so với lượng tiêu dùng thủy sản
bình quân đầu người trên thế giới theo ước tính của FAO là 13,4 kg/người vào
năm 1994 và so với mức 27 kg/người/năm của các nước đang phát triển hiện
nay thì ở nước ta chưa đáp ứng được. Phát triển nuôi trồng thủy sản để cung ứng
số lượng thiếu hụt đó.
Hơn nữa, hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được ưa chuộng
ở nhiều nước và khu vực. Năm 1997 đã xuất khẩu sang 46 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới, năm 1998 là 50 nước và vùng lãnh thổ. Điều đáng quan tâm
trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu, nhóm sản phẩm tôm vẫn là mặt hàng chủ
lực chiếm tỉ lệ ngày càng cao, trong đó có tôm nuôi. Các đối tượng khác như:
nhuyễn thể, cá song, cá hồng, cá ba sa, cá rô phi đực, cá sặc rằn, cá quả, lươn, ba
ba, ếch... xuất sống, phi lê đông lạnh
(1)
cũng được các thị trường ưa chuộng. Ở
Nhật xu thế tiêu dùng hàng thủy sản thay cho thịt bình quân 71,5 kg/người và
còn tiếp tục tăng. Thị trường Mỹ và EU cũng có xu thế như vậy. Dự kiến đến
năm 2005 cơ cấu sản phẩm thủy sản của Việt Nam xuất sang Nhật sẽ là 32-34%,
(
1)
Phi lê đông lạnh: loại cá được lọc vảy, tách xương và được ướp đông lạnh.
- 24 -
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Trần Thị Thanh Bình -
KTĐT39A
Châu Á (kể cả Trung Quốc) là 20-22%, Bắc Mỹ 20-22%, EU 16-18%, thị
trường khác là 8-10%.
Thứ ba, phát triển nuôi trồng thủy sản góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Với đặc thù dân số đông, đặc biệt là vùng nông thôn ven biển, biên giới, vùng

sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, hàng năm dân số tăng nhanh kéo theo là sự
gia tăng lao động dư thừa. Bên cạnh đó, một bộ phận ngư dân làm nghề khai
thác ven bờ do nguồn lợi cạn kiệt, khai thác kém hiệu quả từng bước chuyển
sang nuôi trồng thủy sản, một bộ phận nông dân vừa sản xuất nông nghiệp, vừa
nuôi trồng thủy sản làm phong phú thêm cho nền văn minh lúa nước, đưa nền
văn minh lúa nước lên cao hơn, hiện đại hơn. Phát triển nuôi trồng thủy sản góp
phần làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải
thiện mức sống cho nông, ngư dân, góp phần xây dựng trật tự xã hội, an ninh
nông thôn vùng biển, biên giới, vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, xu hướng phát triển nuôi trồng thủy sản trên thế giới hiện nay là đẩy
nhanh tốc độ gia tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản so với sản lượng khai
thác.Ví dụ: Thái Lan, Ấn Độ, Ecurador, Indonesia, Đài Loan có giá trị xuất khẩu
lớn, cũng là những nước có sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn. Các nước Châu Á
rất coi trọng phát triển nuôi trồng thủy sản, là khu vực nuôi trồng thủy sản chính
của thế giới. Năm 1995, tổng sản lượng thủy sản thế giới là 112 triệu tấn, trong
đó sản lượng nuôi trồng đạt 27,8 triệu tấn (chiếm 25%) và Châu Á sản xuất
90,1% tổng sản lượng nuôi thủy sản. Theo dự báo của FAO, đến năm 2005 sản
lượng nuôi trồng thủy sản thế giới sẽ là 51,9 triệu tấn. Các nước phát triển nuôi
trồng thủy sản nhằm cung cấp thực phẩm chứa đạm cho nhu cầu tiêu dùng của
con người, đảm bảo an ninh thực phẩm. Trung Quốc là nước phát triển mạnh
nuôi trồng thủy sản, sản lượng thủy sản năm 1998 là 32,1 triệu tấn. Theo hướng
nuôi bằng hình thức công nghiệp để nâng cao năng suất và sản lượng các đối
tượng nuôi có giá trị cao phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
Qua phân tích trên, ta có thể thấy được nuôi trồng thủy sản là một nghề có
lợi và sẽ phát triển mạnh trong những năm tới. Là một nước có nhiều ưu thế về
tự nhiên và con người như trên, nuôi trồng thủy sản đã được chú ý phát triển ở
nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, với tiềm năng lớn như vậy, đầu tư cho
nuôi trồng thủy sản của nước ta chưa được tương xứng và cần thiết phải đẩy
mạnh đầu tư hơn nữa trong thời gian tới.
- 25 -

×