Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

FDI tại khu vực kinh tế động lực miền bắc - thực trạng và phương hướng phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.02 KB, 44 trang )

CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra sâu
rộng và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang tạo ra sự thay
đổi vượt bậc trong cơ sở vật chất của nền kinh tế thế giới. Trong đó, phân
công lao động quốc tế có nhiều bước chuyển biến mới với một phạm vi
rộng hơn, tốc độ nhanh hơn và chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu. Điều
này có nghĩa là các quan hệ kinh tế quốc tế cũng mang nội dung toàn diện
hơn, phức tạp và ở cấp độ cao hơn. Cùng với xu hướng này là sự hình
thành nên sức liên kết kinh tế quốc tế như các khối EU, APEC, ASEAN,...
Với các hình thức liên kết như - khu vực mậu dịch tự do (FTA), liên minh
thuế quan, thị trường chung. Việc liên kết kinh tế quốc tế đem lại nhiều lợi
ích cho các nước tham gia song nếu một nước thành viên có trình độ phát
triển thấp sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Việt Nam là một quốc gia còn hạn chế về kết quả phát triển kinh tế.
Trong tiến trình tham gia vào các liên kết kinh tế như gia nhập AFTA (khu
vực mậu dịch tự do các nước ASEAN), Việt Nam cần phải có nhiều cố gắn
để cải thiện vị thế của mình nếu không muốn gặp khó khăn và chịu nhiều
thiệt thòi. Muốn vậy, Việt Nam cần phải tạo điều kiện khuyến khích việc
chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tạo ra cơ cấu sản xuất mới phù
hợp với việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế mới! Rõ ràng là nhiệm vụ
này chỉ có thể hoàn thành khi có sự trợ giúp đắc lực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một đầu mối rất quan trọng để tháo gỡ các khó khăn mà Việt Nam
đang gặp phải. Vì vậy, nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài là một
nhiệm vụ cần thiết hơn bao giờ hết.
Đề tài này mang tên “ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI KHU VỰC
KINH TẾ ĐỘNG LỰC MIỀN BẮC - THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT


TRIỂN”, chỉ tập trung đi vào nghiên cứu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh. Khu vực kinh tế này tuy ra đời muộn và kém phát
triển hơn tam giác kinh tế TP. Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bà Rịa Vũng Tàu
song lại có một vị trí hết sức quan trọng đòi hỏi cần được đầu tư nghiên
cứu một cách thích đáng.
1
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Vùng kinh tế động lực miền Bắc có diện tích tự nhiên của ba cực
thuộc tam giác tăng trưởng là 8.562 km
2
, số dân 5,7 triệu người chiếm tỉ lệ
2,52% diện tích và 6,5% dân số cả nước. Đây là vùng kinh tế còn nhiều
tiềm năng chưa được khai thác nên rất cần có đầu tư trực tiếp nước ngoài
để thúc đẩy sản xuất phát triển, tận dụng được mọi thế mạnh. Tam giác
kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh phát triển là điều kiện tiên quyết
để kinh tế cả nước đi lên. Lý do là vì các tỉnh phía Bắc cần phải có một chỗ
dựa đáng tin cậy và chỉ khi Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh vững mạnh
thì mới có thể giúp đỡ cho các tỉnh lân cận cùng đi lên. Xét theo khía cạnh
vùng là như vậy, còn xét theo khía cạnh toàn quốc thì vùng kinh tế động
lực miền Bắc cũng giữ một vai trò rất quan trọng vì miền Nam và miền Bắc
nếu cùng phát triển thì sẽ có thể thay nhau trợ giúp cho kinh tế miền Trung
còn quá nhiều khó khăn.
Tuy giữ một vai trò quan trọng như vậy song kinh tế miền Bắc còn
chưa phát triển đủ mức để có thể hoàn thành nhiệm vụ của nó. Tiềm năng
của vùng kinh tế này đang cần có sự tham gia của đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhằm khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả. Để biết rõ về tình
hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh cần xem xét kỹ về thực trạng đầu tư trên các khía cạnh: số liệu

đầu tư, thu hút vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư,...
Với điều kiện thời gian và tài chính có nhiều hạn chế, đề tài này chỉ có
thể sử dụng phương pháp thu thập và phân tích tài liệu để nghiên cứu. Từ
những số liệu có được về tình hình đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế động lực miền Bắc cùng các số liệu
khác tham khảo từ các nước trong khu vực, đề tài này sẽ đi vào phân tích
để tìm ra các vấn đề còn tồn tại, các giải pháp và phương hướng phát triển
cho đầu tư trực tiếp nước ngoài của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh.
Với mục tiêu và phương pháp như trên, đề tài đi vào giải quyết các nội
dung cụ thể như sau:
• Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nhiệm vụ của phần này là làm sáng tỏ các căn cứ về mặt lý
thuyết của vấn đề đang xem xét, giúp hiểu rõ hơn bản chất của vấn
đề. Đây là cơ sở kiến thức để tiếp tục nghiên cứu vào phạm vi cụ
thể là vùng kinh tế động lực miền Bắc.
2
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
• Nội dung thứ hai là nghiên cứu thực tiễn tình hình đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Phần này một mặt sẽ nêu lên những con số thống kê thực tế, mặt
khác sẽ đi vào phân tích các yếu tố dựa trên cơ sở lý thuyết song
chú trọng vào những nét đặc thù của vùng, từ đó tìm ra được những
vấn đề còn tồn tại và cần khắc phục.
• Nội dung tiếp theo là nghiên cứu bài học kinh nghiệm của các nước
trong khu vực để có thể tìm ra giải pháp cho vùng trong lĩnh vực
thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
• Cuối cùng, tổng kết, nêu rõ các vấn đề cần giải quyết và đưa ra các

kiến nghị giải quyết các vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã phát hiện được.
B- NỘI DUNG
I-/ LÝ LUẬN CHUNG
1-/ Khái niệm
a-/ Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cũng như một cơ thể sống, một nền kinh tế muốn tồn tại và phát triển
cần luôn luôn được cung cấp thêm “năng lượng”, đó chính là cần có sự tái
sản xuất cả chiều sâu và chiều rộng. Muốn vậy cần tiến hành hoạt động đầu
tư. Đầu tư chính là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế nói
chung, của địa phương của ngành và của các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ nói riêng.
Như vậy đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nó chính là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì đó ở hiện
tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.
Để tiến hành hoạt động đầu tư cần phải có vốn đầu tư. Theo nguồn
hình thành và mục tiêu sử dụng vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của
các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy
động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất
3
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã
hội. Theo khía cạnh pháp lý, vốn đầu tư bao gồm vốn pháp định và vốn
vay.
Hiện nay trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, có sự
giao lưu, trao đổi kinh tế giữa các quốc gia đã làm hoạt động đầu tư không
còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, đã có sự phân chia trong thành

phần vốn đầu tư thành vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.
Vốn đầu tư trong nước phản ánh nội lực của nền kinh tế, được hình thành
từ tích luỹ ngân sách, tích luỹ của doanh nghiệp, tiết kiệm trong dân cư.
Vốn đầu tư nước ngoài là vốn dùng cho đầu tư được thu hút từ bên
ngoài. Vốn này gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp.
Vốn đầu tư gián tiếp với hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay với điều kiện ưu đãi (về lãi suất, thời gian trả nợ,...) của các cơ quan
chính thức thuộc các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ.
Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) là vốn của các doanh nghiệp và các cá nhân
nước ngoài đầu tư sang các nước khác và sự trực tiếp quản lý sử dụng và
thu hồi vốn bỏ ra.
Khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhận thức rõ tầm quan trọng
của đầu tư, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vốn trong nước là chủ yếu,
vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng. Nước ta đã và đang tiến hành mọi
điều kiện để mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
b-/ Sự phát triển và bản chất của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong lịch sử thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã từng xuất hiện
ngay từ thời tiền tư bản. Khi chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới,
đánh dấu bằng sự kiện “công xã Pari” thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài
của các nước công nghiệp phát triển càng có qui mô to lớn hơn.
Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên
mạnh mẽ, các nước công nghiệp lúc bấy giờ (Anh, Mỹ, Đức,...) tích luỹ
được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho
việc xuất khẩu tư bản.
Thực chất xuất khẩu tư bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất
yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức
độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá
4
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận


: 6.280.688
trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ
chật hẹp của một quốc gia hình thành nên qui mô sản xuất trên phạm vi
quốc tế.
Theo Lênin “xuất khẩu tư bản” là 1 trong 5 đặc điểm kinh tế của chủ
nghĩa đế quốc, thông qua đó các nước tư bản phát triển thực hiện việc bóc
lột đối với các nước lạc hậu thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính
Lênin khi đưa ra “chính sách kinh tế mới” đã nói rằng, những người cộng
sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của các
nước công nghiệp phát triển (chủ nghĩa tư bản) thông qua hình thức “chủ
nghĩa tư bản Nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận”
phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản (CNTB) để phát triển kinh tế, như
thế có thể còn nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay vốn để mua lại
những kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển.
Thực tế sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước công nghiệp
phát triển lại rơi vào một cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này, để vượt qua
giai đoạn khủng hoảng và tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi
mới tư bản cố định. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài các nước công
nghiệp phát triển có thể chuyển máy móc, thiết bị cần thay thế sang các
nước kém phát triển hơn và sẽ thu hồi được một phần giá trị để bù đắp các
khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm các thiết bị, máy móc mới.
Thêm vào đó nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép hoạt động đầu tư
nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại
lợi ích cho cả hai bên bên đầu tư và bên nhận đầu tư.
Cho đến nay đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng lên cả về số lượng,
qui mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư.
Về số lượng, nếu năm 1986 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn
thế giới là 78 tỷ USD thì đến năm 1995 con số đó là 235 tỷ USD. Vào cuối
thập kỷ 70 vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5% tổng số vốn đầu tư toàn thế
giới thì đến 1984, tổng vốn đầu tư nước ngoài chiếm 13%. Điều này chứng

tỏ xu hướng phát triển sản xuất quốc tế ngày càng được mở rộng và ngày
càng có nhiều nước tiến hành đầu tư ra nước ngoài.
Trong những năm 60, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào
các nước đang phát triển tập trung chủ yếu vào Mỹ La tinh, thì cuối những
năm 70 và đầu 80, lại có xu hướng chuyển sang các nước và vùng lãnh thổ
5
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
ở Đông Nam Á, là nơi có sự phát triển năng động nhất thế giới đang phát
triển hiện nay. Đứng sau các nước Châu Á là các nước ở Châu Mỹ La tinh
trong nhiều năm qua đã rất thành công trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài. Và tiếp sau đó là các nước thuộc SNG, Đông Âu, Châu Phi và Trung
Đông.
Trong thời gian gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngài tập trung nhiều
vào hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ. Nguyên nhân là do: lực
lượng sản xuất phát triển, nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ đời sống sản
xuất kinh doanh tăng lên; ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều
phân ngành mà những phân ngành đó thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ: điện tử, thông tin, liên lạc, vật liệu
mới,... và do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng hợp tác. Thêm
vào đó: việc đầu tư vào hai ngành này cho phép người đầu tư thu được lợi
nhuận cao, đỡ gặp rủi ro hơn và nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài đã có lịch sử phát triển hàng trăm
năm nay gắn liền với chủ nghĩa tư bản.
2-/ Ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đến nền kinh tế của nước tiếp
nhận đầu tư
a-/ Lợi ích
a1. Tạo nguồn vốn:
Vốn cho phép đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nguồn vốn trong nước

và vốn từ nước ngoài. Đối với các nước lạc hậu, sản xuất còn ở trình độ
thấp, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn hạn hẹp thì vốn đầu tư nước
ngoài có giá trị đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển nền kinh tế.
Ở các nước này có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên
nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo
nàn, lạc hậu nên chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Để thoát
khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, các nước này chỉ có thể tăng
cường đầu tư phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định. Muốn vậy các nước này cần phải có nhiều vốn đầu tư. Trong điều
kiện hiện nay, trong xu hướng hội nhập có nhiều nước trên thế giới đang
nắm trong tay một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước
ngoài thì đây chính là cơ hội tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài cho việc phát
triển kinh tế đối với các nước đang phát triển.
6
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Đối với các nước công nghiệp phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài
vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong quá trình
phát triển kinh tế. Các nước này đã thu hút tới 82% vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nước họ thời kỳ 1987-1991. Thực tế chính các nước công
nghiệp phát triển là những nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất và cũng
thu hút phần lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, không phải do trình độ kỹ
thuật kém và cũng không phải do thiếu vốn đầu tư.
a2. Chuyển giao công nghệ
Khi đầu tư vào một nước nào đó, ngoài vốn bằng tiền, chủ đầu tư còn
chuyển cả vốn hiện vật như: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... (công
nghệ cứng) và vốn vô hình như: chuyên gia kỹ thuật - công nghệ, tri thức
khoa học, bí quyết, kỹ năng quản lý, năng lực tiếp cận thị trường,... (công
nghệ mềm). Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình

chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh chóng và thuận
tiện cho cả hai bên: bên đầu tư và bên nhận đầu tư.
Đối với các nước đang phát triển, trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc
hậu, việc tự nghiên cứu để phát triển khoa học kỹ thuật cho kịp với trình độ
của các nước phát triển là rất khó khăn và tốn kém, đặc biệt là trong thời
đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Thay vào đó, con
đường nhanh nhất là tận dụng những thành tựu kỹ thuật công nghệ tiên tiến
của nước ngoài thông qua chuyển giao công nghệ. Mà một trong những
phương thức để đạt được điều đó là tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đây là lợi ích căn bản của các nước khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Đối với các nước phát triển, mặc dù đã có trình độ sản xuất hiện đại,
khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng không thể nào toàn diện được. Để đạt
hiệu quả kinh tế cao, mỗi nước chỉ tập trung vào một số lĩnh vực nào đó mà
họ có ưu thế hơn và chính sự tập trung đó cho phép họ vượt trội lên ở một
hay một số địa vị nào đó.
Xu hướng phát triển phân công lao động xã hội cũng là quá trình
chuyên môn hoá và liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động đầu
tư trực tiếp nước ngoài là kết quả trực tiếp của quá trình trên, nó tuân theo
qui luật của quá trình phân công lao động quốc tế.
7
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Sự phát triển khoa học kỹ thuật đòi hỏi phải có chuyển giao công
nghệ. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ mới thì
cũng phải tìm được nơi thải những kỹ thuật công nghệ đã cũ. Việc “thải”
những công nghệ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận. Và chính điều
này đã tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của khoa
học kỹ thuật.

a3. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển
trên thế giới cho thấy: có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức tăng trưởng
kinh tế với khối lượng vốn đầu tư nước ngoài huy động và sử dụng và sự
tăng trưởng kinh tế gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu.
Qua nghiên cứu tình hình thực tiễn của nhiều quốc gia đang phát triển
Châu Á trong hai thập kỷ 80 và 90, các chuyên gia của ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB) đã đưa ra kết quả phân tích như sau:
ẢNH HƯỞNG NHÂN QUẢ KHI TĂNG 1% CỦA CÁC NHÂN TỐ
Chỉ tiêu AID FPI CX CLF GDPN GR S
Nhịp độ tăng trưởng 0,047 0,119 0,097 0,137 0,803
Tỷ lệ tiết kiệm -0,016 0,032 0,016 0,40 0,053
Nguồn: Tuyển tập báo cáo hội thảo “Một số vấn đề kinh tế vĩ mô”.
Trung tâm nghiên cứu hệ thống và quản lý - 1992
GR : nhịp độ tăng trưởng của GDP
AID : vốn chính thức; % của GDP
FPI : đầu tư nước ngoài tư nhân
CX : tỷ lệ xuất khẩu so với GDP
S : tỷ lệ tiết kiệm
SLF : gia tăng lực lượng lao động
GDPN : GDP/đầu người.
Kết quả trên cho thấy vai trò to lớn của đầu tư tư nhân nước ngoài đối
với tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ tiết kiệm khi tăng 1% đầu tư tư nhân nước
ngoài sẽ làm nhịp độ tăng trưởng thêm 0,119% và tỉ lệ tiết kiệm tăng 0,032%.
a4. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
8
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của hoạt động

kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Quá trình đó đòi hỏi từng quocó
gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp, và điều này sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngược lại chính đầu tư
trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ
cấu kinh tế. Vì thông qua đó đã xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế
mới ở các nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp vào
sự phát triển nhanh chóng trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ở nhiều
ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này
và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài một số ngành được kích thích phát triển nhưng cũng sẽ có
nhiều ngành bị mai một rồi đi đến chỗ xoá sổ.
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số đóng góp khác như sau:
Góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua
việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư nước ngoài và tiền thu từ việc cho thuê
đất. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm “hướng vào xuất khẩu”.
Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài còn giúp mở rộng thị trường
trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều
có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiện tượng “hai chiều” đang
trở thành khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm
việc mới, thu hút được một lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu
tư vào làm việc trong các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều này đã góp
phần đáng kể vào việc giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là một tình trạng nan
giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt đối với nhiều nước đang phát triển tuy có
lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử
dụng được thì đây chính là một chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết
vấn đề này. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra các điều kiện về vốn kỹ

thuật cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng của nền kinh tế, trong
đó có tiềm năng về lao động.
b-/ Hạn chế
9
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Bên cạnh những tác động tích cực, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ
khiến cho nước tiếp nhận phải chịu lệ thuộc nhiều về kinh tế, chính trị. Về
lâu dài đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm giảm đi tỉ lệ tiết kiệm và đầu tư
nội địa, gây ra cạnh tranh không lành mạnh, tăng sự phát triển không đồng
đều giữa thành thị và nông thôn, phân hoá giàu nghèo, tạo ra mối đe doạ về
bất ổn định chính trị cho Chính phủ của các nước đang phát triển.
Thêm vào đó khi tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước đang
phát triển trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ lạc hậu lại thiếu những
chuyên gia giỏi hoặc tư cách đạo đức không tốt và thiếu kinh nghiệm trong
thẩm định dự án đầu tư có thể dẫn đến tiếp nhận những dự án công nghệ
không phù hợp, thậm chí những công nghệ quá lạc hậu không thể áp dụng
được, hoặc nếu áp dụng thì hiệu quả không cao.
3-/ Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
a-/ Yếu tố bên ngoài nước tiếp nhận
a1. Xu hướng đầu tư trực tiếp trên thế giới
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang ngày càng chiếm giữ vị trí quan
trọng trong đời sống kinh tế quốc dân. Như phần trên đã nêu phần lớn vốn
đầu tư trực tiếp được thực hiện ở các nước phát triển, từ đầu thập kỷ 70 đến
nay tỷ trọng đầu tư vào các nước phát triển trong tổng đầu tư trực tiếp trên
toàn thế giới đã liên tục gia tăng. Nói cách khác các nước đang phát triển
không những chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) trên toàn thế giới, mà tỉ trọng này còn liên tục bị giảm
xuống. Nếu như vào đầu thập kỷ 70 các nước đang phát triển còn chiếm

trên 30% tổng vốn FDI trên toàn thế giới thì tỉ trọng này đã giảm xuống
còn 25% tính bình quân trong thời kỳ 1980-1985 và 17% trong thời kỳ
1986-1990. Trong số các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài
chỉ tập trung vào một số ít các nước có chính sách thông thoáng, cơ sở hạ
tầng tương đối phát triển. Do vậy cuộc cạnh tranh để thu hút FDI giữa các
nước đang phát triển tiếp tục gia tăng. Và hiện nay, cùng với sự phát triển
năng động, Châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành địa bàn đầu tư ngày
càng được quan tâm.
a2. Tiềm lực của nhà đầu tư:
Đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài,
tiềm lực và mong muốn của nhà đầu tư sẽ quyết định nước tiếp nhận,
10
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
ngành và lĩnh vực đầu tư. xu hướng của các nhà đầu tư là đa dạng hoá với
đa phương hoá đầu tư ở các nước khác nhau để giảm thiểu rủi ro. Trong
điều kiện hiện nay khi nền kinh tế thế giới đang có những biến chuyển
phức tạp và không ổn định dẫn đến các nhà đầu tư rất thận trọng trong việc
lựa chọn phương hướng và đối tác đầu tư.
a2. Sự cạnh tranh của các nước trong thu hút đầu tư
Nhận thức vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài, các quốc gia
trên toàn thế giới đều đề ra những chính sách, biện pháp và điều kiện thuận
lợi nhằm thu hút đầu tư. Điều này dẫn tới sự cạnh tranh giữa các nước
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước
ngoài nói riêng. Một nước với vị trí địa lý thuận lợi, môi trường chính trị
ổn định và cơ sở hạ tầng phát triển cùng với các điều kiện về tài nguyên,
thiên nhiên dồi dào phong phú và các chính sách thông thoáng chắc chắn sẽ
là một môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài.
b-/ Yếu tố bên trong nước tiếp nhận đầu tư

b1. Ổn định chính trị - xã hội
Nghiên cứu đã cho thấy ổn định chính trị sẽ khuyến khích đầu tư nước
ngoài. Đây là khi tình hình chính trị không ổn định, nhất là thể chế chính trị
không ổn định và đi liền với nó là luật pháp thay đổi dẫn đến mục tiêu có
thể sẽ thay đổi, làm cho phương thức thực hiện mục tiêu cũng thay đổi.
Điều này có nghĩa là những cái ngày hôm qua đã xây dựng dưới chế độ
chính trị cũ có thể trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Hiệu quả của sự
phá bỏ ấy là sự thiệt hại về lợi ích, trong đó nhà đầu tư nước ngoài phải
gánh chịu một phần thêm vào đó rủi ro của nhà đầu tư liên quan chặt chẽ
đến sự bất ổn định chính trị bao gồm tổn hao chi phí khi có sự đổ vỡ chính
trị, sự quốc hữu hoá của Chính phủ, tỉ lệ hoàn vốn chắc chắn, cung ứng
hàng hoá, dịch vụ và nhân lực bị phá vỡ. Điều này đã không đáp ứng được
mục tiêu lợi nhuận của các nhà đầu tư.
Kinh nghiệm của hầu hết các nước cho thấy rằng khi tình hình chính
trị mất ổn định, thậm chí có dấu hiệu mất ổn định thì các nhà đầu tư sẽ
không đầu tư hoặc ngừng việc đầu tư của mình.
Tiêu chí ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự bền vững
của Chính phủ, mức độ tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị,
sự hoạt động của các đảng phái. Nếu các điều kiện khác của môi trường
11
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
đầu tư không đổi, thì chính trị càng ổn định và độ tin cậy càng cao, càng
hấp dẫn đầu tư tư nhân. Đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt
trên thị trường đầu tư, sự ổn định chính trị có thể được xem là một lợi thế
so sánh cần phát huy.
b2. Sự vững mạnh của Nhà nước và Đảng cầm quyền
Thị trường đầu tư không thể thiếu vai trò điều tiết của Nhà nước. Kinh
nghiệm quốc tế chỉ ra rằng một Nhà nước mạnh với bộ máy chính sách cởi

mở là điều kiện quan trọng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Một Nhà nước có bộ máy cồng kềnh với các quan chức quan liêu, ăn
hối lộ, kém năng động là trở lực lớn nhất đối với thu hút đầu tư. Bởi vì các
nhà đầu tư từ một “xứ lạ” tới, dù họ đã nghiên cứu luật đầu tư, song họ
không tránh khỏi bỡ ngỡ khi làm việc trực tiếp với các quan chức Nhà
nước sở tại, mà nhiều khi các quan chức này có tính quyết định đến việc
thành công hay không thành công đối với dự án mà họ theo đuổi.
b3. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư bao gồm các văn bản luật,
các qui định và các văn bản quản lý hoạt động đầu tư. Đây là thành phần
quan trọng của môi trường đầu tư vì nó xác định mức lợi nhuận của nhà
đầu tư và quyết định của họ khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra bằng hệ
thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội trong những điều kiện cụ thể
nhất định trên cơ sở vận dụng sáng tạo những qui định luật kinh tế khách
quan nói chung và các qui luật vận động đặc thù nói riêng.
b4. Các chính sách chiến lược kinh tế
Chính sách và chiến lược kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo
lập đối tác trong nước, lựa chọn đối tác trong nước và nước ngoài và các
hình thức thu hút vốn. Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của
các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận
chính sách thuế cởi mở với tỷ suất thấp, giá thuê đất thấp cùng với tiền
lương thấp,... sẽ làm cho chi phí tư bản thấp đi và như vậy trong điều kiện
bình thường thì mức lợi nhuận sẽ cao, có lợi cho nhà đầu tư. Vì vậy nhiều
nước đã sử dụng biện pháp này như một công cụ lợi hại trong cạnh tranh
trên thị trường đầu tư.
12
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Hiện nay để thu hút đầu tư nước ngoài các nước trên thế giới đều thực

hiện chiến lược kinh tế mở. Đây là điều kiện tiên quyết, kinh nghiệm cho
thấy rằng mở cửa bên ngoài và mở cửa bên trong có mối quan hệ tác động
mật thiết với nhau, và càng mở bên trong thì càng thu hút được vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
b5. Thị trường cần thiết đối với các nhà đầu tư
Các loại thị trường này bao gồm: thị trường sức lao động (trong đó có
thị trường chất xám), thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường tài chính (thị
trường tiền tệ, vốn, ngoại hối, chứng khoán). Đi liền với đầu tư trực tiếp
nước ngoài là cả một hệ thống các quan hệ kinh tế chứa đựng trong quá
trình tái sản xuất thêm vào đó thị trường đầu tư mà chủ thể là các nhà đầu
tư nước ngoài vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy
cần phải có một môi trường kinh tế đồng bộ và ổn định để họ hoạt động và
hoạt động có hiệu quả. Thực tế đã chỉ ra rằng mỗi khi nền kinh tế nước chủ
nhà có sự chấn động, lạm phát tăng, sự chấn động về tỷ giá,... thì các nhà
đầu tư rất e dè rút vốn đầu tư, các chủ đầu tư đã đầu tư rồi thì hoặc tìm cách
ngừng lại hoặc thậm chí chuyển vốn đi nơi khác.
b6. Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng là tập hợp những trang bị cơ bản về vật chất và con
người của một xã hội, bao gồm hai bộ phận: kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết
cấu hạ tầng xã hội.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật được
tổ chức thành các công trình sự nghiệp (đường giao thông, kho tàng, bến
bãi,...), các đơn vị sản xuất và dịch vụ có chức năng đảm bảo sự di chuyển
các luồng thông tin và vật chất nhằm phục vụ nhu cầu có tính phổ biến của
sản phẩm và tiêu dùng.
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên
quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp.
Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, khi nền kinh tế đều vận động thông
qua thị trường, sự biến động nhanh chóng của các loại thị trường tác động

qua lại chặt chẽ với nhau buộc các chủ đầu tư phải ứng phó kịp thời. Điều
này đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại, không một
nhà đầu tư nước ngoài nào gánh chịu những thiệt hại và những chi phí trực
13
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
tiếp do hạ tầng vật chất kém gây ra. Những khoản thuế mà họ phải nộp cho
Nhà nước nhận đầu tư đã bao hàm cả những chi phí về hạ tầng vật chất kỹ
thuật đó. Do đó, tư bản nước ngoài chỉ chảy vào đến nơi có môi trường đầu
tư thuận lợi, mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hoàn
chỉnh hiện đại.
Bộ phận thứ hai của kết cấu hạ tầng là kết cấu hạ tầng xã hội. Đây là
những trang bị căn bản về con người, thể hiện bằng tiềm năng của con người
trong xã hội. Một nước với đội ngũ lao động cần cù sáng tạo, có trình độ và
kỹ năng thành htạo sẽ là một lợi thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Tóm lại, một môi trường đầu tư thuận lợi sẽ là nhân tố thu hút đầu tư
nước ngoài để phát triển kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới.
II-/ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ Ở KHU VỰC KINH TẾ ĐỘNG LỰC MIỀN BẮC
1-/ Vùng kinh tế động lực miền Bắc trong bối cảnh chung của cả
nước
Trong giai đoạn gần đây, những năm 1996-1999, kinh tế Việt Nam
vẫn tiếp tục đi lên. Tuy nhiên trong thời kì 97-98, do chịu sự ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tại khu vực Đông Nam Á tăng trưởng
của Việt Nam có giảm đi đôi chút.
Trong bối cảnh chung như vậy, có thể xem xét về tình hình thực hiện
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:
• Tỷ trọng đóng góp của khu vực FDI trong GDP ngày càng tăng. Nếu
năm 1992 chỉ là 2% thì đến năm 96 đã là 7,4% và năm 1999 tính đến tháng
12 là 10,3%.

• Khu vực FDI đã nộp ngân sách được 128 triệu USD năm 1994 tăng
lên 315 triệu USD năm 1997. Tuy nhiên, do tốc độ đầu tư trực tiếp nước
ngoài những năm sau khủng hoảng có giảm đi nên nộp ngân sách năm
1999 chỉ đạt 271 triệu USD. Nhìn chung, mức đóng góp của khu vực FDI
trong ngân sách giữ một vị trí khá quan trọng với tỉ lệ khá cao.
• Xem xét riêng về khu vực công nghiệp - khu vực chiếm tỷ trọng cao
trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng công
nghiệp khu vực FDI cũng rất cao so với tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả
nước. Năm 1997, công nghiệp khu vực FDI tăng 21,7% trong khi công
14
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
nghiệp cả nước tăng 14,2%; năm 1998 các tỉ lệ tương ứng là 20% công
nghiệp khu vực FDI và 10,5% của công nghiệp cả nước.
Khu vực kinh tế động lực miền Bắc đã có nhiều bước tiến thực sự, tốc
độ GDP cả vùng tăng cao hơn tỉ lệ bình quân của cả nước, tỷ trọng GDP
của vùng so với cả nước cũng ngày một được nâng cao (8,8% năm 91 tăng
lên 9,4% năm 1995 và 10,5% năm 1997). Ngoài ra, GDP bình quân đầu
người đạt gần 500 USD gấp 2 lần mức trung bình cả nước. Thu nhập thuần
tuý của dân cư đạt trên 300.000 đ/người/tháng, gấp 1,9 lần mức trung bình
cả nước.
Trên đây là những nét sơ lược về tình hình kinh tế và tình hình đầu tư
trực tiếp nước ngoài của cả nước nói chung và của khu vực kinh tế trọng
điểm miền Bắc nói riêng. Với cách nhìn khái quát như vậy, ta có thể xem
xét cụ thể hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực phía Bắc trong
những năm gần đây.
2-/ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng kinh tế động lực
miền Bắc
a-/ Quy mô và nhịp độ đầu tư

Năm 1998, khi bắt đầu thực hiện luật đầu tư thì chỉ có 37 dự án với số
vốn 366 triệu USD thì đến năm 1994 đã là 3.746 triệu USD, năm 1997 là
4.654 triệu USD, năm 1998 là 3.925 triệu USD, năm 1999 là 1.477 triệu
USD. Nhìn vào các số liệu trên ta có thể thấy quy mô đầu tư trực tiếp nước
ngoài của cả nước tăng nhanh từ năm 1991 đến 1996, sau đó có giảm dần
từ năm 1997 trở đi, tuy nhiên theo dự báo của các nhà kinh tế thì trong năm
2000 có thể tăng lên 3.000 triệu USD.
Trên đây là các số liệu về quy mô đầu tư của cả nước. Để có thể thấy
được thực tế quy mô đầu tư của vùng kinh tế động lực miền Bắc, ta sẽ xem
xét chi tiết về ba đỉnh của tam giác kinh tế trong đó đi sâu vào phân tích số
liệu của Hà Nội và Hải Phòng.
Trước hết là tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội giai
đoạn 1989 - 1998, số liệu thể hiện ở bảng sau:
15
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Năm
Chỉ tiêu
1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Tổng
Số dự án 4 8 13 26 43 62 59 45 50 46 356
Vốn đầu tư đăng ký
(triệu USD)
78,17 295,088 126,352 301 856,912 989,781 1.058 2.641 913 673 7.902,303
Nguồn: Sở kế hoạch và đầu tư UBND thành phố Hà Nội
Như vậy, tính đến hết năm 1998, Hà Nội đã có 356 dự án được cấp
giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 8 tỷ USD. Riêng năm
1998, tuy được đánh giá là đầu tư nước ngoài có chững lại và giảm nhiều
so với 1997, ngoài 46 dự án được cấp giấy phép mới, Hà Nội có 52 dự án
điều chỉnh tăng vốn. Trong 6 tháng đầu năm 1999, Hà Nội đã tiếp nhận và

cấp giấy phép cho 4 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn 240 triệu
USD vốn đăng ký (đạt 80% so với cùng kì năm 1998).
Còn tại Hải Phòng, kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đến
hết tháng 12 năm 1998, Hải Phòng đã có 95 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài được cấp giấy phép. Trong đó, 79 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn
đầu tư đăng ký là 1.349 tỷ USD chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của cả
thành phố.
Quảng Ninh tuy được coi là một đỉnh trong tam giác kinh tế song việc
thực hiện thu hút vốn đầu tư còn đạt hiệu quả chưa cao. Do đó, trong những
năm gần đây, quy mô và tốc độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Quảng Ninh
vẫn nhỏ và chậm, chưa có đột biến và bước tiến mới.
Nhìn lại các số liệu và tình hình nêu trên, có thể thấy quy mô và nhịp
độ vốn đầu tư tại Hà Nội và Hải Phòng tăng nhanh, trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính tiền tệ khu vực thì các con số này có giảm đi đôi chút song
những năm 1999-2000 xu hướng là đầu tư nước ngoài sẽ có chiều hướng
tăng trở lại. Riêng Quảng Ninh, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
nhiều hạn chế và chưa đạt được quy mô vốn ở mức khả quan.
b-/ Cơ cấu đầu tư
b1. Cơ cấu ngành
Việc xem xét cơ cấu đầu tư theo tiêu thức ngành là rất cần thiết bởi nó
phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nền kinh tế quốc dân.
Tại Hà Nội, năm 1997 và 1998, cơ cấu vốn đầu tư từng bước chuyển
dịch vào các lĩnh vực như: công nghiệp chiếm 23% trong hai năm, dịch vụ
16
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
khách sạn, căn hộ, văn phòng cho thuê lần lượt chiếm 27% và 30%, giao
thông bưu điện 11% năm 1997 tăng lên 38% năm 1998, phát triển đô thị,
xây dựng hạ tầng kỹ thuật là 36% năm 1997. Số liệu cụ thể được thể hiện

qua bảng sau:
Tính đến 1997 Riêng năm 1998
Tổng vốn đăng kí (triệu USD) 7.286 100% 673 100%
Trong đó:
- Công nghiệp 1.674 23% 155 23%
- Bất động sản 1.963 27% 202 30%
- Giao thông vận tải 831 11% 257 38%
- Đô thị hạ tầng 2.586 36%
- Tài chính - ngân hàng 58 1%
- Nông lâm nghiệp 17 0,2%
- Các ngành khác 157 2% 59 9%
Cơ cấu trên có ưu điểm là đã chú trọng vào việc phát triển cơ sở hạ
tầng, phục vụ công nghiệp hoá. Tuy nhiên, với số lượng dịch vụ khách sạn,
cho thuê căn hộ như hiện nay thì không cần nhận thêm đầu tư vào lĩnh vực
này vì cung đã vượt quá cầu. Số lượng dự án công nghiệp được đầu tư
nhiều trong giai đoạn 89-97 (142 dự án, chiếm 45%) song quy mô đầu tư
không lớn, mức vốn bình quân cho mỗi dự án chỉ khoảng 3 triệu USD.
Ngoài ra, tình hình đầu tư vào lĩnh vực tài chính - ngân hàng nhìn chung
còn thấp. Điều này cũng phần nào thể hiện sự kém hấp dẫn của lĩnh vực
này.
Tại Hải Phòng, vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu được tập trung vào
ngành công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, ít được tập trung vào du lịch
và dịch vụ. Đây là điều không bình thường trong cơ cấu đầu tư nước ngoài,
mặc dù nó có phần nào phản ánh tính chất đặc thù của Hải Phòng vốn là
một thành phố công nghiệp truyền thống. Các dự án có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Hải Phòng thường là các dự án công nghiệp về sản xuất xi
măng, thuỷ tinh, thép,...
Cơ cấu đầu tư của Hải Phòng như vậy còn bộc lộ nhiều hạn chế, vốn
đầu tư chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp truyền thống hoặc những
ngành có nguồn nguyên liệu sẵn có, cơ cấu vốn đầu tư cho du lịch dịch vụ -

ngành mà Hải Phòng có nhiều lợi thế còn thấp và đặc biệt không có dự án
đầu tư trong nông nghiệp.
17

×