Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.58 KB, 39 trang )

Nguồn: />Quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài thương mại: Chuyên đề 1: Tranh chấp trong
kinh doanh thương mại và các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại
TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ CÁC
HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG
MẠI

I. Khái niệm tranh chấp trong kinh doanh :
Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm đầu của thế kỷ này
được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và chiều sâu của các quan hệ kinh tế
với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu
được của thị trường thế giới. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng
với tính cách là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và
gay gắt phức tạp hơn về tính chất và quy mô.
Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà khoa học đều thống nhất rằng, tranh
chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau.
Theo đó, tranh chấp kinh tế có thể có các dạng cơ bản sau :
- Tranh chấp trong kinh doanh : được diễn ra giữa các chủ thể tham gia kinh doanh. Cụ
thể, đó là những tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
- Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư : Loại hình tranh
chấp này nảy sinh trong việc thực hiện các hợp đồng BTO, BT, BOT, thực hiện các điều ước
quốc tế về khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia trong việc thực hiện các điều ước quốc tế về thương mại
song phương và đa phương.
- Tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc tế trong việc thực hiện các
điều ước quốc tế về thương mại đa phương.
Thực tế cho thấy, trong các loại hình tranh chấp kinh tế trên, tranh chấp trong kinh doanh
là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó trong một số trường hợp khái niệm tranh chấp
trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương nhau.


Mặt khác, tranh chấp trong kinh doanh còn được hiểu là sự bất đồng về một hiện tượng pháp lý
phát sinh trong đời sống kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh doanh và thông thường gắn liền
với các yếu tố , lợi ích về mặt tài sản. Do đó, có thể khái quát những đặc điểm tranh chấp trong
kinh doanh như sau :
· Nó luôn gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
· Các chủ thể tranh chấp trong kinh doanh thường là các doanh nghiệp.
· Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những xung đột về mặt lợi ích kinh tế
của các bên.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các tranh chấp trong kinh doanh chủ yếu tồn tại
dưới dạng các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, phản ánh tính đơn điệu của các lợi ích cần bảo
vệ trong mô hình kinh tế này. Ngược lại, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự tham gia của nhiều
thành phần kinh tế kéo theo sự đa dạng về đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, sự xuất hiện
của các phương thức kinh doanh, thị trường và các yếu tố sản xuất phi truyền thống làm phát
sinh nhiều dạng tranh chấp mới, ví dụ như : tranh chấp giữa thành viên công ty với công ty, giữa
các thành viên công ty với nhau trong quá trình thành lập, hoạt động và giải thể công ty; tranh
chấp trong việc mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu; tranh chấp về liên doanh, liên kết kinh tế,
… Chính sự thay đổi về nội dung và hình thức tranh chấp trong kinh doanh trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
cũng phải có sự thay đổi cho phù hợp với các yêu cầu của cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
II. Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh tranh chấp. Tranh
chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh, vì vậy giải quyết các tranh chấp phát
sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các
mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các
bên có thể chấp nhận được.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải đáp ứng các
yêu cầu sau :
- Nhanh chóng, thuận lợi, không làm hạn chế, cản trở các hoạt động kinh doanh.

- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa các bên trong kinh doanh.
- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường.
- Ít tốn kém nhất.
“Dù đó là tranh chấp gì đi chăng nữa thì vì sự công bằng và hiệu quả kinh tế mà cần
thiết phải có một cơ chế để giải quyết tranh chấp”. Có nhiều cách thức khác nhau để giải quyết
tranh chấp. Tùy thuộc vào phong tục tập quán, truyền thống, trình độ phát triển kinh tế – xã hội
mà mỗi quốc gia trên thế giới có các cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh rất khác
nhau. Nhìn chung cho đến thời điểm hiện tại, các hình thức giải quyết tranh chấp chủ yếu được
áp dụng rộng rãi trên thế giới bao gồm : thương lượng, hoà giải, trọng tài (phi chính phủ) và giải
quyết thông qua tòa án. Để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu mà luận văn đã đặt ra, trong phần
này chỉ đề cập đến trình tự, thủ tục của hai hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
đang được áp dụng rất phổ biến đó là : trọng tài và tòa án.
1. Khái niệm và đặc điểm của Tố tụng tòa án.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt
động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết
buộc các bên có nghĩa vụ thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong quá trình giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, tòa án phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật đã
quy định, cụ thể đó là những nguyên tắc cơ bản; trình tự, thủ tục khởi kiện; trình tự, thủ tục giải
quyết vụ việc tại tòa án, thi hành bản án, quyết định của tòa án; quyền và nghĩa vụ của những
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như của những cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan,… Đây chính là thủ tục tố tụng tòa án. Ở hầu hết các quốc gia, cùng với việc ban
hành những đạo luật về nội dung, Nhà nước cũng ban hành những quy định về thủ tục tố tụng để
tòa án giải quyết các tranh chấp kinh doanh.
Như vậy, tố tụng tòa án chính là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để giải quyết các
tranh chấp kinh doanh bằng tòa án.
Thực tiễn pháp luật tố tụng của các nước cho thấy, tố tụng tòa án đều có chung một số đặc điểm
cơ bản sau :
- Ở hầu hết các nước trên thế giới, thủ tục tố tụng tòa án áp dụng cho các tranh chấp
trong kinh doanh được dựa trên nền tảng thủ tục tố tụng dân sự cùng với một số quy
định đặc thù cho phù hợp với hoạt động kinh doanh, chẳng hạn như : về hội đồng xét

xử, về thời gian của các trình tự tố tụng, … Do vậy, ở các quốc gia này người ta không
hình thành luật tố tụng riêng cho các tranh chấp trong kinh doanh mà chỉ có luật về tố
tụng dân sự.
Ví dụ : Ở Cộng hoà Liên bang Đức, Luật tố tụng đối với các vụ án dân sự và thương mại
được quy định thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự; ở Pháp, Anh và Mỹ các tranh
chấp trong lĩnh vực kinh doanh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đều được áp
dụng theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Tố tụng tòa án là thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh của Tòa án – một cơ quan
Nhà nước, hoạt động xét xử của nó mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đóng vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Phán quyết của tòa án được đảm bảo thi hành và thủ tục giải quyết của Tòa án rất chặt
chẽ, rất phức tạp và không thể thay đổi được. Phán quyết của tòa án có thể bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Trong tố tụng tòa án, các phiên tòa xét xử thường được tổ chức công khai, bản án được
công bố rộng rãi.
2. Khái niệm và đặc điểm của tố tụng trọng tài.
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột
bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Cũng như thủ tục tố tụng tòa án, trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh trọng tài
cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật quy định, từ việc khởi kiện, xét
xử, thi hành phán quyết trọng tài, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia,… Đây chính là
thủ tục tố trọng tài. Nói cách khác, tố tụng trọng tài được hiểu là trình tự, thủ tục mà pháp luật
quy định để giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài.
Tố tụng trọng tài nhìn chung có các đặc điểm cơ bản sau :
- Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính
chất xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài.
- Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận
làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa
thuận.

- Tố tụng trọng tài đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt của mình một cách cao nhất,
các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, quyền lựa chọn địa điểm giải quyết tranh chấp,
lựa chọn quy tắc tố tụng….
- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất cứ cơ
quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không xét xử công khai, do đó ngoài nguyên đơn và
bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần thiết.
- Quy tắc tố tụng trọng tài của các quốc gia rất khác nhau, nhưng nhìn chung quy tắc lựa
chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các trung tâm trọng tài trên thế giới đều theo khuôn
mẫu của Quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL.
- Trọng tài thương mại của các nước trên thế giới chủ yếu tồn tại dưới hai dạng cơ bản :
· Trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad – hoc) là hình thức trọng tài được lập ra để giải
quyết những tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết xong
tranh chấp đó.Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không
có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Về
nguyên tắc, các bên đương sự khi yều cầu trọng tài Ad-hoc xét xử có quyền lựa
chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng.
· Trọng tài thường trực (còn gọi là quy chế) là những trọng tài có hình thức tổ chức, có trụ sở
ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng. Phần lớn các tổ chức trọng
tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành lập theo mô hình này dưới các tên gọi như Trung
tâm trọng tài, Ủy ban trọng tài, Viện trọng tài, Hội đồng trọng tài quốc gia và Quốc tế. Trọng tài
thường trực có quy chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ. Về cơ bản, các đương sự
không được phép lựa chọn thủ tục tố tụng.
3. Sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài.
Tòa án và trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, chúng đóng
vai trò một bên trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp. Hoạt động giải quyết tranh chấp
của tòa án và trọng tài có điểm giống nhau và có thể phân biệt với các hình thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh khác đó là chúng căn cứ vào pháp luật và hợp đồng của các bên trong quan hệ
tranh chấp, xem xét sự thật vụ án và độc lập ra phán quyết, phán quyết này được đảm bảo thi
hành. Vì chúng có thẩm quyền xem xét và ra phán quyết cho nên thủ tục tố tụng của tòa án và
trọng tài rất chặt chẽ và được pháp luật quy định. Thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài đều

dựa trên những nguyên tắc chung như : tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, đảm
bảo sự độc lập của người tài phán, … Tuy nhiên, vì đây là hai hình thức giải quyết tranh chấp
độc lập, cho nên giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài cũng có những sự khác biệt cơ bản sau
đây :
Một là : Về tính chất pháp lý.
Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của mỗi loại cơ quan
này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư pháp. Trong quá trình tố
tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công
cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Trong khi đó, các trung
tâm trọng tài đều tồn tại với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã
hội – nghề nghiệp. Tính phi chính phủ của trọng tài thương mại thể hiện ở chỗ, các trung tâm
trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa thuận xin phép
Nhà nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài thương mại không nằm trong cơ cấu thiết
chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng không phải là một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là
một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trọng tài được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh
doanh một cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện phù hợp
với tâm lý của nhà doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án và trọng tài đã
quyết định sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài, ví dụ như
tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Hai là : Về thẩm quyền.
Thẩm quyền theo vụ việc : dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, thực tế cho thấy tòa án thường
có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền giải quyết hầu hết tất cả các
tranh chấp trong kinh doanh. Trong khi đó, khác với tòa án, thẩm quyền của trọng tài có thể thay
đổi, hoặc thu hẹp lại tùy theo từng trung tâm trọng tài.
Thẩm quyền theo lãnh thổ : Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp trong kinh doanh nào cũng
được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý giải quyết khi được chuyển đến tòa án
có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong tố tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về
mặt lãnh thổ. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết
cho mình theo ý muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa
ra trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp. Như vậy, về

thẩm quyền vụ việc thì tòa án có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài, còn thẩm quyền lãnh thổ
trong tố tụng trọng tài lại không được đặt ra như đối với tòa án.
Ba là : Các giai đoạn tố tụng
Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh doanh. Phán quyết
của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa án. Nguyên tắc này xuất phát
từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự.
Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải
phục tùng quyết định của người đó. Trong khi đó, trong tố tụng tòa án có nhiều cấp xét xử từ sơ
thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của tòa án còn có thể được xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì thủ tục tố tụng tòa án phải thông qua nhiều
giai đoạn xét xử khác nhau đã dẫn tới việc kéo dài thời gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh
doanh không mong muốn.
Bốn là : Điều kiện khởi kiện
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện – một nguyên tắc cốt lõi trong tố tụng trọng tài, sự hình
thành trọng tài là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và trong quá trình tố tụng trọng tài
đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa
chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ
thể, không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chính vì vậy, đối với
tố tụng trọng tài, khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra
trung tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa là :
sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương sự. Đây là điều mà
trong tố tụng tòa án không có.
Năm là : Nguyên tắc xét xử tập thể.
Tố tụng trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như trong tố tụng tòa án. Việc chọn
một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là quyền của các bên tranh chấp,
pháp luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp vào vấn đề này khi các bên không thỏa thuận
được với nhau về cách thức lựa chọn trọng tài viên mà thôi. Ví dụ, khi các bên không đạt được
sự nhất trí trong việc chọn một trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình theo quy định của
pháp luật, mỗi bên tranh chấp sẽ chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ

chọn một người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp hai trọng tài không
chọn được người thứ ba đó thì quyền quyết định thuộc về tòa án.
Sáu là : Tính công khai của hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng tòa án, Việc xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ quyền và lợi
ích của các đương sự mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp luật. Do vậy, hầu hết các
phiên tòa đều được tiến hành công khai, các bản án thường được công bố rộng rãi trước công
chúng. Điều này dẫn đến khó khăn khi bảo vệ các thông tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng
trọng tài, mọi tình tiết và kết quả đều không được công bố công khai nếu không được sự chấp
thuận của các bên. Xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ một cách nghiêm ngặt các bí mật nghề
nghiệp của các nhà kinh doanh mà pháp luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải
tiến hành công khai. Quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài ra quyết định
sẽ không được công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu. Quyết định của trọng tài chỉ
được phép công bố rộng rãi khi các bên đồng ý. Có thể nói. Nguyên tắc này hoàn toàn đối lập
với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án.
Bảy là : Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng.
Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố tụng đơn
giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp. Ví dụ như : trong tố tụng
trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài viên mà mình tín nhiệm, tin tưởng
có thể giải quyết mâu thuẫn của họ, các bên cũng có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài mà
thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng
cho vụ kiện.
Trong khi đó, tố tụng tòa án bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm ngặt, phải tuân thủ các
yêu cầu nhiều khi mang tính nghi thức, luật áp dụng được coi là bất di bất
dịch.
Tám là : Phán quyết.
Ở cả hai hình thức tố tụng này, việc xét xử tranh chấp đều được kết thúc bằng việc ra
bản án, quyết định của tòa án hoặc phán quyết trọng tài. Nhưng phán quyết của trọng tài và bản
án, quyết định của tòa án trong nhiều trường hợp cũng có những điểm khác nhau cơ bản.
Trong tố tụng tòa án, bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực nếu các bên không
tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết theo

quy định của pháp luật. Trong khi đó, ở một số quốc gia, không phải lúc nào quyết định của trọng
tài cũng được đảm bảo thi hành bằng cưỡng chế của Nhà nước. Ở nhiều Quốc gia có nền kinh
tế thị trường phát triển, khi quyết định của trọng tài hợp pháp mà không được bên thua kiện thi
hành tự nguyện thì theo yêu cầu của phía bên kia, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành
như một phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, mà ở đó sự phối hợp hoạt
động giữa tòa án và trọng tài chưa cao và chưa được pháp luật quy định (ví dụ như ở Việt Nam
trong thời gian từ trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 trở về trước) thì việc sử dụng
cơ chế tòa án phê chuẩn quyết định của trọng tài để trên cơ sở đó mà cưỡng chế thi hành các
quyết định trọng tài là chưa có điều kiện thực hiện. Vì vậy, ở các quốc gia này các quyết định giải
quyết tranh chấp của trọng tài không được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì bên kia có quyền
đưa vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án .
1.2. Cơ sở lý luận của việc thiết lập mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá
trình tố tụng trọng tài.
Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình trọng tài là một vấn đề đã được đề
cập đến rất nhiều trong khoa học pháp lý. Xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến tranh cãi
và tiếp cận dưới nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng thống nhất với nhau ở khía cạnh :
trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước cần phải đóng một vai trò
nhất định trong quá trình tố tụng trọng tài. Vấn đề là Nhà nước sẽ tác động trọng tài đến đâu và
liệu Nhà nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu cực vào trọng tài. Sự can thiệp của Nhà
nước có thể tích cực nhưng cũng có thể tác động không tốt đến trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là
tích cực nếu Nhà nước quan tâm đến kết quả trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các
bên tham gia trọng tài đạt được mục đích trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng. Sự can thiệp
đó có thể là không tích cực nếu nó nhằm chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên tham gia mà
không công bằng đối với tất cả các bên. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa
quyền lợi chung và quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải
duy trì “mối quan hệ lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia trọng tài và
quyền lợi của hệ thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho quá trình trọng tài
và quyền lợi to lớn của quốc gia” là mối quan tâm của Luật trọng tài ở tất cả các nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước

trong quá trình tố tụng trọng tài được thể hiện thông qua tòa án, thông qua vai trò của tòa án
trong quá trình tố tụng trọng tài.
Theo thông lệ và tập quán thương mại của nhiều nước trên thế giới và quốc tế, xét về bản
chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên
tranh chấp. Bằng một Điều khoản trọng tài (trong hợp đồng kinh tế, thương mại) hay bằng một
Thỏa thuận trọng tài (lập ra sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp
ra giải quyết bằng một cơ quan trọng tài (Ủy ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các bên lựa
chọn. Các bên tự thỏa thuận về phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thỏa
thuận về luật áp dụng (luật nội dung và các qui tắc tố tụng), thỏa thuận về tính chung thẩm và
hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên tranh chấp,… Như vậy, thẩm quyền
của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” do các
bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm.
Trong khi đó, Tòa án là người đại diện của quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp) để xét xử theo
pháp luật của Quốc gia các tranh chấp trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Các
bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có liên quan và
được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chính sự khác biệt về nguồn
gốc quyền lực của tòa án và trọng tài như đã phân tích ở trên đã đặt ra ít nhất hai vấn đề có liên
quan đến mối quan hệ giữa hai loại cơ quan này trong việc đảm bảo hiệu quả của trong tài, đó
là :
- Trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng tài
có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp nhưng lại
không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ bên thứ ba nào khác có liên quan đến
tranh chấp. Chính sự hạn chế về quyền lực này nên không phải lúc nào trọng tài cũng có
khả năng bảo đảm cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả (ví dụ: trọng tài
không thể bắt buộc nhân chứng, giám định viên tham gia phiên họp xét xử của trọng tài
nếu họ không tự nguyện,….). Sau khi có phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp, cho
dù các bên đã thỏa thuận rằng phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc
nhưng nếu một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì trọng tài cũng không có quyền
và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định do chính mình ban hành.
Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả của việc thi hành phán quyết trọng tài sẽ phụ

thuộc hoàn toàn vào mức độ hợp tác giữa tòa án và trọng tài, trong đó tòa án với quyền
lực Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ trọng tài khi cần thiết.
- Trong quá trình tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi thẩm quyền
do các bên giao phó, cụ thể là trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và
theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và thỏa thuận trong điều khoản trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm hoặc không tuân thủ các
nguyên tắc tố tụng trong thỏa thuận trọng tài, không thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô
tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì theo nguyên tắc đại diện, các quyết định
của trọng tài sẽ có thể bị chính các bên tranh chấp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
xem xét, hủy bỏ, không công nhận và không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
họ và để thực thi công lý. Như vậy, cũng như đối với mọi “quyền lực hợp đồng” hay “quyền lực
đại diện” khác, ở đây cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát của quyền lực Nhà nước đối với trọng
tài để bảo đảm cho trọng tài ngay từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình giải quyết tranh
chấp sẽ không vượt quá thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan, trung
lập các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các quyết định trọng tài cũng sẽ được bảo
đảm, hiệu quả trọng tài được nâng cao. Đa số các quốc gia đều quy định tòa án chính là cơ quan
đại diện cho quyền lực Nhà nước để thực hiện việc giám sát đối với trọng tài.
Có thể nói, mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài chính là
thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ và giám sát quá trình tố tụng trọng tài. Nội dung
của mối quan hệ này luôn được công nhận và quy định ở trong luật về trọng tài ở tất cả các nước
trên thế giới, mặc dù có thể khác nhau ở góc độ này hoặc góc độ khác. Bên cạnh đó, trong khi
xử lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài cần phải đảm bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa phòng
ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của tòa án vào quá trình trọng tài, vừa bảo đảm
được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám sát cần thiết của tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng
trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền thống pháp luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về tố
tụng trọng tài ở từng quốc gia mà quan hệ giữa tòa án và trọng tài được thể chế hóa ở những
mức độ khác nhau tại những văn bản khác nhau nhưng thông thường là trong luật trọng tài, luật
tố tụng dân sự hoặc tố tụng thương mại của từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng
tài.
Thạc sĩ Phan Thông Anh

Quan hệ Tòa án và Trọng tài thương mại: Chuyên đề 2: Cơ sở lý luận và các yếu tố
chi phối mối quan hệ Tòa án - Trọng tài thương mại
CƠ SỞ LÝ LUẬN VIỆC THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ GIỮA TÒA ÁN VÀ TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI MỐI QUAN HỆ
I. Cơ sở lý luận việc thiết lập mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài thương mại
Sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình trọng tài là một vấn đề đã được đề
cập đến rất nhiều trong khoa học pháp lý. Xung quanh vấn đề này cũng có nhiều ý kiến tranh cãi
và tiếp cận dưới nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng thống nhất với nhau ở khía cạnh :
trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Nhà nước cần phải đóng một vai trò
nhất định trong quá trình tố tụng trọng tài. Vấn đề là Nhà nước sẽ tác động trọng tài đến đâu và
liệu Nhà nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu cực vào trọng tài. Sự can thiệp của Nhà
nước có thể tích cực nhưng cũng có thể tác động không tốt đến trọng tài. Sự can thiệp đó sẽ là
tích cực nếu Nhà nước quan tâm đến kết quả trọng tài và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các
bên tham gia trọng tài đạt được mục đích trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng. Sự can thiệp
đó có thể là không tích cực nếu nó nhằm chỉ để bảo vệ quyền lợi của một bên tham gia mà
không công bằng đối với tất cả các bên. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa
quyền lợi chung và quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải
duy trì “mối quan hệ lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia trọng tài và
quyền lợi của hệ thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho quá trình trọng tài
và quyền lợi to lớn của quốc gia” là mối quan tâm của Luật trọng tài ở tất cả các nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Thực tế ở các nước cho thấy, sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước
trong quá trình tố tụng trọng tài được thể hiện thông qua tòa án, thông qua vai trò của tòa án
trong quá trình tố tụng trọng tài.
Theo thông lệ và tập quán thương mại của nhiều nước trên thế giới và quốc tế, xét về bản
chất, trọng tài là một quá trình giải quyết tranh chấp dựa trên sự lựa chọn tự nguyện của các bên
tranh chấp. Bằng một Điều khoản trọng tài (trong hợp đồng kinh tế, thương mại) hay bằng một
Thỏa thuận trọng tài (lập ra sau khi tranh chấp đã phát sinh), các bên tự nguyện đưa tranh chấp
ra giải quyết bằng một cơ quan trọng tài (Ủy ban trọng tài hoặc trọng tài viên) do các bên lựa
chọn. Các bên tự thỏa thuận về phạm vi các tranh chấp mà trọng tài được quyền giải quyết, thỏa

thuận về luật áp dụng (luật nội dung và các qui tắc tố tụng), thỏa thuận về tính chung thẩm và
hiệu lực bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên tranh chấp,… Như vậy, thẩm quyền
của cơ quan trọng tài bắt nguồn từ “quyền lực theo hợp đồng” hay “quyền lực đại diện” do các
bên tranh chấp giao phó, ủy nhiệm.
Trong khi đó, Tòa án là người đại diện của quyền lực Nhà nước (quyền tư pháp) để xét xử theo
pháp luật của Quốc gia các tranh chấp trong phạm vi thẩm quyền mà pháp luật cho phép. Các
bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi công dân, tổ chức có liên quan và
được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Chính sự khác biệt về nguồn
gốc quyền lực của tòa án và trọng tài như đã phân tích ở trên đã đặt ra ít nhất hai vấn đề có liên
quan đến mối quan hệ giữa hai loại cơ quan này trong việc đảm bảo hiệu quả của trong tài, đó
là :
- Trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, trọng tài
có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp nhưng lại
không có quyền ra lệnh bắt buộc đối với bất kỳ bên thứ ba nào khác có liên quan đến
tranh chấp. Chính sự hạn chế về quyền lực này nên không phải lúc nào trọng tài cũng có
khả năng bảo đảm cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả (ví dụ: trọng tài
không thể bắt buộc nhân chứng, giám định viên tham gia phiên họp xét xử của trọng tài
nếu họ không tự nguyện,….). Sau khi có phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp, cho
dù các bên đã thỏa thuận rằng phán quyết trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc
nhưng nếu một trong hai bên không tự nguyện thi hành thì trọng tài cũng không có quyền
và nghĩa vụ cưỡng chế thi hành phán quyết hay quyết định do chính mình ban hành.
Trong những trường hợp như vậy, hiệu quả của việc thi hành phán quyết trọng tài sẽ phụ
thuộc hoàn toàn vào mức độ hợp tác giữa tòa án và trọng tài, trong đó tòa án với quyền
lực Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, giúp đỡ trọng tài khi cần thiết.
- Trong quá trình tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thể hoạt động trong phạm vi thẩm quyền
do các bên giao phó, cụ thể là trọng tài chỉ được giải quyết một số loại tranh chấp nhất định và
theo cách thức nhất định do các bên lựa chọn và thỏa thuận trong điều khoản trọng tài hoặc thỏa
thuận trọng tài. Nếu trọng tài vượt quá thẩm quyền được ủy nhiệm hoặc không tuân thủ các
nguyên tắc tố tụng trong thỏa thuận trọng tài, không thực hiện đầy đủ, đúng đắn, khách quan, vô
tư, công bằng trách nhiệm được các bên giao phó thì theo nguyên tắc đại diện, các quyết định

của trọng tài sẽ có thể bị chính các bên tranh chấp yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
xem xét, hủy bỏ, không công nhận và không cho thi hành để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của
họ và để thực thi công lý. Như vậy, cũng như đối với mọi “quyền lực hợp đồng” hay “quyền lực
đại diện” khác, ở đây cần có một cơ chế kiểm tra, giám sát của quyền lực Nhà nước đối với trọng
tài để bảo đảm cho trọng tài ngay từ khi bắt đầu thành lập và trong suốt quá trình giải quyết tranh
chấp sẽ không vượt quá thẩm quyền được giao, sẽ thực hiện đúng đắn, vô tư, khách quan, trung
lập các trách nhiệm của mình, do đó hiệu lực của các quyết định trọng tài cũng sẽ được bảo
đảm, hiệu quả trọng tài được nâng cao. Đa số các quốc gia đều quy định tòa án chính là cơ quan
đại diện cho quyền lực Nhà nước để thực hiện việc giám sát đối với trọng tài.
Có thể nói, mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài chính là
thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ và giám sát quá trình tố tụng trọng tài. Nội dung
của mối quan hệ này luôn được công nhận và quy định ở trong luật về trọng tài ở tất cả các nước
trên thế giới, mặc dù có thể khác nhau ở góc độ này hoặc góc độ khác. Bên cạnh đó, trong khi
xử lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài cần phải đảm bảo hai yêu cầu đặt ra là vừa phòng
ngừa, hạn chế sự can thiệp không cần thiết của tòa án vào quá trình trọng tài, vừa bảo đảm
được vai trò hỗ trợ và kiểm tra giám sát cần thiết của tòa án để nâng cao hiệu quả của tố tụng
trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền thống pháp luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về tố
tụng trọng tài ở từng quốc gia mà quan hệ giữa tòa án và trọng tài được thể chế hóa ở những
mức độ khác nhau tại những văn bản khác nhau nhưng thông thường là trong luật trọng tài, luật
tố tụng dân sự hoặc tố tụng thương mại của từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng
tài.
II. Các yếu tố chi phối đến nội dung mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài.
Trọng tài không thể thoát ly khỏi sự kiểm soát của Nhà nước, Nhà nước luôn đóng một
vai trò nhất định (đó là hỗ trợ, kiểm tra và giám sát) trong quá trình tố tụng trọng tài. Vai trò này
được thực hiện thông qua cơ quan tòa án, hay nói chính xác hơn là được thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài. Tuy nhiên, thực tiễn pháp luật
của các nước cho thấy, cùng với sự hình thành và phát triển hết sức phong phú và đa dạng của
trọng tài thương mại ở mỗi nước, mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài thương mại cũng được
hình thành và phát triển mang những nét đặc trưng riêng của mỗi quốc gia. Việc nghiên cứu các
yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp

nhận dạng và giải thích được những đặc trưng của nội dung mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài
ở mỗi quốc gia, từ đó giúp ích rất nhiều trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật để điều
chỉnh có hiệu quả hơn mối quan hệ này, tạo điều kiện cho trọng tài phát triển.
Các yếu tố chi phối đến nội dung mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài là :
1. Chế độ kinh tế.
Chế độ kinh tế ảnh hưởng một cách quyết định đến sự hình thành và xu hướng phát
triển của pháp luật về trọng tài thương mại. Trọng tài thương mại, với tính chất là một tổ chức
được thành lập nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Nó là một
sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường trên cơ sở Nhà nước bảo đảm quyền tự do hợp
đồng và tự do định đoạt của nhà kinh doanh, trong đó có quyền tự do định đoạt về giải quyết
tranh chấp. Điều này có nghĩa là, hoạt động thương mại tự do càng phát triển thì tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thương mại càng nhiều, do đó sự hỗ trợ, giám sát của nhà nước đối với
trọng tài càng được quan tâm, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của trọng tài
thương mại. Ngược lại, hoạt động thương mại tự do kém phát triển, tranh chấp phát sinh không
nhiều, kéo theo sự kém phát triển của trọng tài thương mại. Từ đó, sự quan tâm, hỗ trợ, giám sát
của Nhà nước đối với trọng tài không được coi trọng và quan tâm đúng mức.
Điều này có thể thấy rất rõ khi so sánh mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài ở những
nước có nền kinh tế thị trường và những nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp. Nếu như ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì trọng tài với tính
chất là một tổ chức phi chính phủ được hình thành và phát triển khá sớm. Nhà nước không can
thiệp vào hoạt động của trọng tài mà chỉ tạo điều kiện hỗ trợ và giám sát hoạt động trọng tài
thông qua việc ban hành các quy định pháp luật tác động có hiệu quả đến mối quan hệ giữa tòa
án và trọng tài. Ngược lại, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, do ảnh hưởng của nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp, hoạt động kinh tế diễn ra chủ yếu theo sự chi phối mạnh mẽ của
Nhà nước thì điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của trọng tài thương mại là không có. Ở các
nước này, tuy có hình thành một hệ thống cơ quan giải quyết tranh chấp gọi là trọng tài nhưng
bản chất không phải là trọng tài thương mại theo đúng nghĩa. Đó là cơ quan giải quyết tranh
chấp của Nhà nước. Chính vì vậy, có thể nói, hầu như trọng tài thương mại theo đúng nghĩa
không phát triển được ở những nước có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Từ đó, sự hỗ trợ, giám sát
của Nhà nước đối với trọng tài cũng không được đặt ra hoặc không được quan tâm đúng mức.

2. Chế độ chính trị.
Thể chế chính trị của một quốc gia có ảnh hưởng nhất định đối với mối quan hệ giữa tòa
án và trọng tài. Sự ảnh hưởng này có thể không được thể hiện trực tiếp nhưng có thể thấy thông
qua đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền có
vai trò to lớn đối với hoạt động xây dựng pháp luật của một quốc gia nói chung cũng như pháp
luật về trọng tài nói riêng. Ví dụ, trong chế độ chính trị dân chủ, thủ tục tố tụng trọng tài luôn chú
ý tôn trọng và mở rộng quyền của các bên, tôn trọng và bảo vệ quyền bình đẳng của mọi chủ thể
trước pháp luật, nhà nước tạo mọi điều kiện cần thiết để hỗ trợ và giám sát hoạt động trọng tài,
đảm bảo cho trọng tài phát triển. Tuy nhiên, trong chế độ chính trị không dân chủ mà ở đó nền
kinh tế có đặc quyền, có chủ thể ưu tiên, chưa đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của
các chủ thể trên lý thuyết lẫn trong thực tế sẽ không thuận lợi cho trọng tài phát triển. Mối quan
hệ giữa tòa án và trọng tài thể hiện vai trò hỗ trợ và giám sát của Nhà nước đối với hoạt động
trọng tài vì thế cũng không được chú ý.
3. Mức độ hoàn thiện của pháp luật.
Pháp luật với tính chất là hệ thống các quy tắc xử sự chung điều chỉnh các quan hệ xã
hội, trong đó có quan hệ nảy sinh trong quá trình tố tụng trọng tài thì tất yếu mức độ hoàn thiện
của pháp luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài, đến hiệu quả
hoạt động của trọng tài. Hệ thống pháp luật có hoàn thiện, sự hỗ trợ, can thiệp của nhà nước đối
với hoạt động trọng tài càng hợp lý thì sẽ tạo điều kiện cho trọng tài phát triển. Pháp luật ở đây
không chỉ là pháp luật về trọng tài mà còn bao gồm cả pháp luật liên quan như pháp luật về kinh
doanh, pháp luật về tố tụng, thi hành án.
Sự ảnh hưởng của pháp luật đối với mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài có thể thấy ở
Việt Nam trong những năm vừa qua. Việc trọng tài phi chính phủ của Việt Nam hoạt động không
hiệu quả, theo nhận định của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước là xuất phát chủ yếu từ sự
thiếu hoàn thiện của pháp luật về trọng tài. Pháp luật của Việt Nam thời gian qua chưa thực sự
tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc, đáng tin cậy cho hoạt động trọng tài, qua đó là cho phương
thức này thật sự có sức hấp dẫn, lôi cuốn các bên tranh chấp lựa chọn nó. Bên cạnh đó, quá
trình cải cách kinh tế thường đi nhanh hơn quá trình xây dựng pháp luật mà hậu quả của nó là
xuất hiện những bất cập, vướng mắc trong hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài từ việc
xác định thẩm quyền, thụ lý vụ kiện, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời cho đến việc thi

hành phán quyết trọng tài,… Hoặc có những khoảng trống pháp luật mà chưa có cơ chế để bù
đắp. Ví dụ điển hình là cho đến trước ngày Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có hiệu lực,
chưa có một cơ chế thi hành phán quyết của Trọng tài Việt Nam ngay tại Việt Nam, điều này đã
gây rất nhiều khó khăn, làm nản lòng giới doanh nhân trong và ngoài nước khi lựa chọn các tổ
chức trọng tài Việt Nam giải quyết tranh chấp. Nguyên nhân của vấn đề này là việc pháp luật
chưa điều chỉnh hợp lý mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài. Trong khi đó đây chính là tiêu chuẩn
để trọng tài một nước trở nên hấp dẫn, tin cậy đối với các nhà kinh doanh.
4. Nền văn hóa dân tộc.
Yếu tố văn hóa dân tộc tuy không đóng vai trò quyết định nhưng cũng là một nhân tố có
ảnh hưởng nhất định đến sự tồn tại và phát triển của trọng tài thương mại, trong đó có mối quan
hệ giữa tòa án và trọng tài. Chúng ta đều biết, môi trường kinh doanh của một nước chịu ảnh
hưởng nhiều của phong tục tập quán. Không phải ngẫu nhiên mà môi trường kinh doanh của các
nước phương Đông lại có sự khác biệt so với các nước phương Tây. Sự ảnh hưởng không chỉ
đối với quá trình kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến cả quá trình giải quyết tranh chấp.
Ở Việt Nam, truyền thống tập quán được hình thành trong nền kinh tế nông nghiệp mang
tính chất tự nhiên, tự cung, tự cấp và nền kinh tế hàng hóa thị trường kém phát triển. Hơn thế
nữa, truyền thống và tập quán này còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, bảo thủ và không
khuyến khích quan hệ hàng hóa thị trường phát triển và gần đây nhất là những truyền thống, tập
quán được hình thành trong nền kinh tế kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp. Với đặc trưng
như vậy, truyền thống và tập quán của người Việt Nam có những cản trở nhất định đến nhận
thức pháp lý, đến hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, đặc biệt là với những
lĩnh vực pháp luật liên quan đến nền kinh tế hàng hóa thị trường. Điều này cũng lý giải tại sao đã
có một thời gian trọng tài thương mại với tính chất là một tổ chức phi chính phủ không được nhìn
nhận và đánh giá đúng mức trọng hệ thống các cơ quan tài phán kinh tế ở Việt Nam, trọng tài
thương mại không được nhà nước hỗ trợ và khuyến khích phát triển.
5. Quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
Trước yêu cầu của việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực ngày càng mạnh mẽ thì
pháp luật quốc gia nói chung cũng như pháp luật về trọng tài thương mại nói riêng cũng chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ. Một trong những xu thế phát triển của pháp luật về trọng tài thương mại của
các nước hiện nay là việc pháp luật trọng tài của các nước được xây dựng theo hướng ngày

càng xích lại gần nhau thông qua việc tiếp nhận Luật mẫu UNCITRAL. Đây là kết quả do ảnh
hưởng từ quá trình hội nhập quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế đã đặt ra nhu cầu các nước
phải hình thành một hệ thống pháp luật phù hợp với thương mại quốc tế, tạo điều kiện cho việc
phát triển thương mại giữa các quốc gia. Bất kỳ một quốc gia nào mong muốn hội nhập nền kinh
tế thế giới cũng như tham gia các tổ chức quốc tế như Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì
đều phải chấp nhận xu thế tất yếu này. Việc duy trì sự khác biệt quá lớn trong pháp luật quốc gia
khi nhội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một điều không thể chấp nhận được. Bởi vậy, một
yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập là việc phải sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế. Pháp luật về giải quyết tranh chấp, trong đó có pháp luật về
trọng tài, tố tụng trọng tài, một bộ phận không thể thiếu trong pháp luật kinh tế cũng phải được
xây dựng trên cơ sở phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về giải quyết tranh chấp.
6. Mức độ hỗ trợ của Nhà nước đối với trọng tài.
Như đã đề cập trong các phần trên, hoạt động của trọng tài thương mại không nằm
ngoài sự tác động của Nhà nước. Vấn đề là Nhà nước sẽ tác động vào hoạt động trọng tài đến
đâu và liệu Nhà nước can thiệp là một cách tích cực hay là tiêu cực vào trọng tài. Chính sự nhìn
nhận, đánh giá của Nhà nước đối với vị trí, vai trò của trọng tài thương mại sẽ là nhân tố quyết
định đến nội dung mối quan hệ hỗ trợ, giám sát giữa tòa án và trọng tài. Trong một quốc gia, ở
đó trọng tài thương mại được Nhà nước nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí và vai trò của nó trong
hệ thống các cơ quan tài phán kinh doanh thì mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài sẽ thể hiện
được sự quan tâm và can thiệp khi cần thiết của Nhà nước thông qua cơ quan tòa án nhằm giúp
các bên tham gia trọng tài đạt được mục đích trọng tài trên cơ sở công lý, công bằng và khách
quan. Ngược lại, nếu ở quốc gia đó, vị trí, vai trò của trọng tài thương mại không được coi trọng
trong hệ thống các cơ quan tài phán kinh doanh thì mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài chủ yếu
chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chung mà không tính đến quyền lợi riêng hoặc chỉ bảo vệ quyền lợi
của một bên tham gia mà không công bằng đối với tất cả các bên.
Thạc sĩ Phan Thông Anh
Quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài Thương mại: Chuyên đề 3: Sự hỗ trợ của Nhà
nước đối với hoạt động của Trọng tài
SỰ HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI


Lịch sử hình thành và phát triển trọng tài trên thế giới cho thấy rằng, ở hầu hết các nước
khi mới bắt đầu chấp nhận hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì vấn đề gây tranh cãi
nhiều và gay gắt nhất chính là vai trò của tòa án đối với trọng tài. Thực tế ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển như Anh, Pháp, Mỹ,… cho thấy mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài
đều được phát triển với ba giai đoạn : từ sự đối đầu nghi kỵ, bất hợp tác đã dần thay đổi sang
thái độ thừa nhận sự tồn tại của thực thể tài phán phi Nhà nước – trọng tài, đồng thời tìm cách
khống chế, kiểm soát nghiêm ngặt đối với quá trình trọng tài thông qua các quy định hoặc các án
lệ về quyền của tòa án kiểm tra, xem xét các phán quyết của trọng tài giống như một cấp xét xử
phúc thẩm. Còn hiện nay là giai đoạn với xu thế hỗ trợ, hợp tác là chính trong đó có kết hợp với
sự giám sát hợp lý của tòa án đối với trọng tài để cùng với tòa án ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu
cầu đòi hỏi của giới doanh nhân trong và ngoài nước khi phải đứng ra giải quyết tranh chấp. Đơn
cử như, ở Mỹ xu hướng hợp tác và hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài được hình thành trên cơ
sở Đạo luật 1920, còn ở Anh, cơ sở pháp lý mà trọng tài có được sự hỗ trợ từ tòa án chính là
Luật trọng tài Anh Quốc 1950 (trước năm 1950 Tòa án chủ yếu tập trung vào kiểm soát).
Thực tế ở các nước cho thấy, Mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài được thể hiện ở hai
nội dung : hỗ trợ và giám sát.
I. Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài nhằm nâng cao hiệu quả của trọng tài.
Trọng tài thương mại, do bản chất xã hội của mình nên không thể nhân danh quyền lực
Nhà nước để thực hiện một số công việc phát sinh trong quá trình giải quyết tranh chấp. Vì vậy,
sự hỗ trợ của Nhà nước đối với trọng tài là một tất yếu khách quan. Thực tiễn cho thấy, trong quá
trình tố tụng trọng tài có thể phát sinh một số công việc mà trọng tài không có khả năng và quyền
hạn để giải quyết, do đó cần phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ của quyền lực Nhà nước. Nghiên cứu
pháp luật trọng tài các nước cho thấy, tòa án thường hỗ trợ trọng tài trong một số trường hợp
sau :
- Sự hỗ trợ của tòa án để đảm bảo thi hành Điều khoản, Thỏa thuận trọng tài.
Theo nguyên tắc “thi hành tận tâm nghĩa vụ hợp đồng” thì một khi đã ký Điều khoản /
Thỏa thuận trọng tài, hai bên phải tự giác đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài đã lựa chọn
theo đúng thỏa thuận. Trên thực tế có thể xảy ra các trường hợp như một bên không tuân thủ
Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài, khi đó bên bị vi phạm sẽ yêu cầu tòa án giúp đỡ theo các cách

khác nhau.
Pháp luật nhiều nước (Ví dụ : Điều 10 Luật trọng tài Thailand, Điều 6 Luật trọng tài
Malaysia,…) quy định : Nếu xét thấy Điều khoản/ Thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực pháp lý thì
Tòa án sẽ ra quyết định buộc các bên phải tham gia quá trình trọng tài như đã thỏa thuận hoặc
quyết định đình chỉ vụ kiện, chuyển các bên đến trọng tài đã được lựa chọn để giải quyết vụ việc
theo đúng Điều khoản/Thỏa thuận trọng tài. Hầu hết Luật các nước đều quy định thời gian đưa
đơn yêu cầu đình chỉ vụ kiện : Tòa án chỉ xem xét nếu đơn được đưa ra khi bên đứng đơn chưa
tham gia vào bất cứ bước tố tụng nào trong vụ kiện do phía bên kia khởi kiện (Ví dụ : cung cấp
lời khai, viết đơn kiện lại, …). Điều 26 Luật trọng tài Trung Quốc (1995) ghi rõ : “Trong trường
hợp giữa hai bên đã có thỏa thuận trọng tài mà một bên đưa đơn kiện đến tòa án còn bên kia thì
trình tòa bản Thỏa thuận trọng tài trước khi phiên họp đầu tiên được tiến hành thì tòa án nhân
dân có thẩm quyền sẽ đình chỉ vụ kiện trừ phi thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Nếu bên thứ hai
không có đơn yêu cầu đình chỉ vụ kiện tại tòa trước khi tòa mở phiên họp đầu tiên thì coi như
bên đó cũng đã chối từ thực hiện thỏa thuận trọng tài, do đó, tòa án nhân dân sẽ tiếp tục xét xử
vụ tranh chấp.”
Đối với các trọng tài Quốc tế, Công ước New York 1958 bảo đảm tại điều II (3) : “Tòa án của
nước thành viên Công ước khi nhận được đơn khởi kiện về tranh chấp đã được các bên thỏa
thuận giải quyết bằng trọng tài, theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp sẽ chuyển các
bên đến trọng tài có thẩm quyền trừ khi thấy rằng Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc
không có khả năng thi hành”. Điều 8 Luật mẫu UNCITRAL cũng quy định tương tự như vậy. Tại
các nước áp dụng hai chế độ pháp lý khác nhau đối với trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế
có thể thấy sự phân biệt : đối với trọng tài trong nước “tòa án có thể …” đình chỉ vụ kiện hay
không đình chỉ, chuyển hay không chuyển các bên đến trọng tài dựa trên một số yếu tố nhất định
(Ví dụ Luật trọng tài Anh năm 1997, Điều 4 (1), Luật trọng tài Siongapore, điều 7(2). Nhưng đối
với trọng tài quốc tế thì “Tòa án phải ra lệnh đình chỉ vụ kiện…” chứ không có quyền lựa chọn,
cân nhắc như trên. Sự khẳng định dứt khóat thái độ ủng hộ của tòa án sở tại đối với việc thực
hiện thỏa thuận trọng tài quốc tế là một trong những lý do làm cho trọng tài nước đó trở nên hấp
dẫn và đáng tin cậy hơn trong con mắt các nhà kinh doanh nước ngoài.
Điều kiện để tòa án quyết định đình chỉ vụ kiện, chuyển các bên đến trọng tài để giải quyết là
Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài phải có giá trị pháp lý. Mỗi nước có thể có những quan điểm,

học thuyết khác nhau về việc xác định hiệu lực của điều khoản trọng tài, về việc xác định cơ
quan nào có thẩm quyền quyết định về giá trị pháp lý của Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài…
Tuy nhiên, hầu hết đều thừa nhận Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên có thẩm quyền được phán xét
về giá trị pháp lý của Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài, đồng thời thừa nhận quyền của tòa án
giám sát, kiểm tra vấn đề này. Chẳng hạn như : Điều 20 Luật trọng tài Trung Quốc 1995 quy định
: Bất kỳ bên nào có bất đồng về hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài có thể nộp đơn yêu cầu
ủy ban trọng tài ra quyết định về việc này hoặc nộp đơn yêu cầu tòa án nhân dân quyết định. Khi
một bên yêu cầu ủy ban trọng tài quyết định và bên kia yêu cầu tòa án quyết định thì tòa án sẽ
giải quyết việc này. Việc phản đối hiệu lực pháp lý của thỏa thuận trọng tài được đưa ra trước
phiên xử đầu tiên của ủy ban trọng tài.
Nếu xét thấy Điều khoản / Thỏa thuận trọng tài vô hiệu và theo yêu cầu của một bên, tòa
án sẽ ra quyết định đình chỉ quá trình trọng tài.
Như vậy, tòa án có vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc bảo đảm thi hành Thỏa thuận trọng tài
(khi nó có giá trị pháp lý) cũng như việc kịp thời đình chỉ quá trình trọng tài (khi Thỏa thuận trọng
tài vô hiệu) nhằm tránh sự tốn kém thời gian, tiền bạc một cách vô ích.
- Sự hỗ trợ của tòa án để đảm bảo thực hiện các lệnh của trọng tài trong quá trình tố tụng
trọng tài.
Pháp luật trọng tài của nhiều nước đều quy định Trọng tài có quyền, trừ khi các bên có
thỏa thuận ngược lại trong Thỏa thuận trọng tài, thẩm vấn các bên tranh chấp, yêu cầu họ cung
cấp các tài liệu chứng cứ mà họ có khả năng có được, có quyền ra lệnh cho họ thực hiện các
việc khác mà Trọng tài thấy là cần thiết. Các yêu cầu và lệnh này của trọng tài có giá trị bắt buộc
đối với các bên tranh chấp (Ví dụ quy định tại Điều 12 Luật trọng tài quốc tế Singapore; Điều 13
Luật trọng tài Malaysia, ). Trọng tài cũng có quyền gửi giấy triệu tập các nhân chứng, trưng cầu
chuyên gia cho ý kiến về những vấn đề chuyên môn có liên quan đến tranh chấp,… Tuy nhiên,
do thỏa thuận trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc hai bên tranh chấp nên việc triệu tập, trưng cầu
của Trọng tài không có gía trị bắt buộc đối với những người thứ ba. Về vấn đề này, pháp luật
trọng tài thương mại ở nhiều nước thường quy định việc hỗ trợ trọng tài từ phía cơ quan tư pháp
Nhà nước – Tòa án. Cụ thể là, để đảm bảo hiệu quả của trọng tài, Nhà nước đã giao cho tòa án
nơi quá trình trọng tài được tiến hành có quyền ra quyết định cưỡng chế thi hành các yêu cầu
đúng thẩm quyền của trọng tài. Ví dụ, Điều 7 Luật trọng tài Mỹ quy định : “Tòa án nơi trọng tài

tiến hành phiên họp có quyền bắt buộc những người đã được Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên
triệu tập phải trình diện trước Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên và áp dụng hình phạt đối với
những người cố tình không tuân lệnh theo cùng thể thức do luật quy định khi họ sao nhãng hoặc
từ chối trình diện ở các tòa án Hoa Kỳ”, Luật mẫu UNCITRAL (Điều 27), Luật trọng tài quốc tế
Singapore (Điều 14), cũng có những quy định tương tự như vậy.
Trong một số trường hợp, theo yêu cầu của một hay các bên, trọng tài có quyền ra lệnh
tiến hành áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo điều kiện thi hành phán quyết
trọng tài sau này. Các lệnh này cũng sẽ gặp khó khăn tương tự như trường hợp nêu trên nếu liên
quan đến những người thứ ba. Vấn đề này được pháp luật của nhiều nước giải quyết theo hai
cách sau :
- Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên tự mình ra các lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời (như quy định của Điều 12 (1) Luật trọng tài quốc tế Singapore; Điều 17 Luật
mẫu UNCITRAL,…)
- Ủy ban trọng tài /Trọng tài viên hoặc các bên tranh chấp yêu cầu tòa án có thẩm quyền
theo luật định ra các lệnh áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Ví dụ, Luật trọng tài Trung
Quốc quy định Ủy ban trọng tài / Trọng tài sẽ chuyển đơn của các bên có yêu cầu để tòa án nhân
dân ra lệnh bảo quản tài sản đang bị tranh chấp (Điều 28) hay bảo toàn các chứng cứ đang nằm
trong tay người thứ ba (Điều 46) theo cách thức đã được qui định trong luật tố tụng dân sự Trung
Quốc. Luật trọng tài Mỹ tại Điều 8 quy định : “Các bên có thể bắt đầu vụ kiện bằng đơn yêu cầu
Tòa án Hải quân tịch thu tàu hoặc tịch biên tài sản khác của bên kia theo trình tự tố tụng thông
thường tại Tòa án Hải quân và Tòa án sẽ có thẩm quyền ra lệnh cho các bên tiến hành trọng tài”
Luật trọng tài Singapore (Điều 12) và Luật trọng tài Malaysia (Điều 13(6)) quy định rõ
những biện pháp mà tòa án có thẩm quyền ra lệnh áp dụng, đó là :
· Bảo đảm chi phí trọng tài;
· Công bố các tài liệu và các bản thẩm cung;
· Cung cấp chứng cứ bằng bản khai có sự tuyên thệ;
· Thẩm vấn có sự tuyên thệ của bất kỳ nhân chứng nào trước một nhân viên của tòa án có
thẩm quyền;
· Bảo quản, tạm giữ hoặc phát mãi bất cứ đồ vật nào là đối tượng chính của tranh chấp đang
được phân xử;

· Phong tỏa số tiền đang tranh chấp trong vụ việc được xét xử;
· Cầm giữ, bảo quản hay kiểm tra bất cứ tài sản hoặc đồ vật nào là đối tượng giải quyết tại
trọng tài; cho phép lấy mẫu hay quan sát, thử nghiệm tại các vùng đất hay công trình xây dựng
thuộc sở hữu của một bên tranh chấp nếu thấy cần thiết cho việc thu thập thông tin hay chứng
cứ một cách đầy đủ;
· Chỉ định người quản lý tài sản nhằm đảm bảo mục đích của vụ kiện với điều kiện là không
được sử dụng quy định trong điều khoản này để gây tổn hại đến các quyền lợi được giao cho Ủy
ban trọng tài / Trọng tài viên;
Như vậy, bằng việc tạo cơ sở pháp lý cho mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài, khẳng
định quyền và nghĩa vụ của tòa án, theo yêu cầu của các bên hoặc của trọng tài, ra các quyết
định cần thiết, có hiệu lực cưỡng chế đối với các tổ chức, cá nhân liên quan, Nhà nước đã tác
động tích cực để nâng cao hiệu quả của quá trình tố tụng trọng
tài.
II. Sự giám sát, kiểm tra của tòa án đối trọng tài.
Theo thông lệ, Quyết định trọng tài là chung thẩm và có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.
Qui tắc trọng tài của hầu hết các Trung tâm trọng tài trong nước và Quốc tế cũng đưa điều này
thành một qui tắc trọng tài. Điều này có nghĩa là trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng
trọng tài sẽ không có trình tự phúc thẩm như đối với trình tự tố tụng tại tòa án. Việc áp dụng trình
tự phúc thẩm tại tòa án chính là cơ chế để giúp người có lợi ích bị xâm hại một lần nữa có cơ hội
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chính vì vậy, việc cần phải có một thủ tục kiểm tra
phán quyết của trọng tài là một yêu cầu khách quan. Không có thủ tục này thì rất dễ dẫn đến một
tình trạng có những phán quyết trọng tài được tuyên ra trái với pháp luật những vẫn có hiệu lực
pháp luật. Bên cạnh đó, chính thông qua việc kiểm tra tính hợp pháp của phán quyết trọng tài mà
Nhà nước đã thể hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động trọng tài. Trong một chừng mực
nào đó, sự giám sát của Nhà nước đối với trọng tài là cần thiết nhưng giám sát không phải để
can thiệp hoặc khống chế trọng tài. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi
chung và quyền lợi riêng của các bên tham gia trọng tài. Chính vì vậy, sự cần thiết phải duy trì
mối quan hệ lẫn nhau và năng động giữa mong muốn của các bên tham gia trọng tài và hệ
thống pháp luật quốc gia trong việc bảo đảm công bằng cho quá trình trọng tài và quyền lợi to
lớn của quốc gia là mối quan tâm của Luật trọng tài ở tất cả các nước trên thế giới. Pháp luật

trọng tài các nước đều quy định thẩm quyền của tòa án trong việc xem xét quyết định trọng tài
khi có khiếu nại. Trong trường hợp phán quyết của trọng tài vi phạm pháp luật thì tòa án sẽ là cơ
quan có quyền hủy quyết định trọng tài. Trên thế giới, nhiều nước cũng đã dự liệu được tình
huống này và đã có biện pháp để bảo vệ các tranh chấp khi trường hợp này xảy ra. Các nước
đều ghi nhận một cơ chế giám sát, kiểm tra của tòa án đối với phán quyết của trọng tài.
- Cơ chế kiểm tra hiệu lực của Quyết định trọng tài.
Hầu hết các nước đều thực hiện quyền giám sát đối với trọng tài thông qua việc tạo ra
cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu lực của Quyết định trọng tài bằng một thủ tục tư pháp, cụ thể là
bảo đảm quyền của các bên tranh chấp được yêu cầu tòa án nơi quyết định trọng tài được tuyên
xem xét đình chỉ hoặc hủy bỏ quyết định đó nếu có căn cứ luật định.
Tùy theo luật của từng nước, các căn cứ này có thể khác nhau ít nhiều nhưng về cơ bản
vẫn tập trung vào bốn loại như sau :
· Thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật áp dụng để giải quyết tranh
chấp hay luật nơi Quyết định trọng tài được tuyên.
· Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên đã giải quyết và ra quyết định vượt quá thẩm quyền theo
thỏa thuận trọng tài.
· Ủy ban trọng tài/Trọng tài viên trong quá trình giải quyết vụ việc đã vi phạm các qui tắc tố
tụng trọng tài, không khách quan, không đảm bảo quyền của các bên được tham gia, được trình
bày một cách công bằng các vấn đề của mình.
· Tranh chấp không thuộc loại được giải quyết bằng trọng tài hoặc việc ra quyết định trọng tài
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật và lợi ích công cộng.
Ngoài ra, mặc dù các bên thỏa thuận Quyết định trọng tài là chung thẩm nhưng luật một
số ít nước vẫn còn quy định cho phép tòa án “phúc thẩm” lại Quyết định trọng tài trên cơ sở các
sai sót về luật nội dung được áp dụng để giải quyết tranh chấp hoặc sai sót về dữ kiện, chứng cứ
(đơn cử như Luật trọng tài trong nước của Anh, Singapore,…). Quy định này thực chất đã hạn
chế ưu điểm nổi bật của trọng tài là dứt điểm, nhanh gọn. Để cân bằng hợp lý yêu cầu chính xác
về luật với yêu cầu giải quyết dứt điểm tranh chấp trên cơ sở tôn trọng ý chí của các bên, luật
trọng tài của các nước này đã bổ sung điều khoản “thỏa thuận khước từ” với nội dung : Nếu các
bên thỏa thuận khước từ quyền kháng cáo những sai sót về luật và chứng cứ thì tòa án cũng sẽ
không xem xét lại hiệu lực của Quyết định trọng tài dựa trên các căn cứ này nữa.

Nhiều nước chú trọng đến các căn cứ liên quan tới cách xử sự không đúng đắn của
trọng tài viên trong quá trình tố tụng trọng tài và khi ra quyết định, ví dụ : gian lận, nhận hối lộ
hoặc dùng các biện pháp không chính đáng khác làm tổn hại đến quyền lợi của bất kỳ bên nào.
Nếu các căn cứ này được chứng minh thì Quyết định trọng tài sẽ bị tòa án tuyên bố đình chỉ
hoặc hủy bỏ (Điều 10 Luật trọng tài Hoa Kỳ, Điều 24 Luật trọng tài quốc tế Singapore, Điều 58
Luật trong tài Trung Quốc).
Tùy theo pháp luật của từng nước quy định, tòa án sau khi kiểm tra hiệu lực của Quyết
định trọng tài có thể ra một trong các loại quyết định sau :
· Tạm đình chỉ việc hủy bỏ quyết định trọng tài : Theo yêu cầu của một bên và xét
thấy có thể được, tòa án ra quyết định yêu cầu Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên trong
một thời hạn nhất định, bằng các biện pháp thích hợp (kể cả tổ chức lại phiên họp
xét xử) để hạn chế hoặc loại bỏ các căn cứ làm cho Quyết định có thể bị hủy bỏ theo
luật định. Nếu hết thời hạn đó mà Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên không thực hiện
được yêu cầu của tòa án thì tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ, hủy bỏ Quyết định
trọng tài (Điều 61 Luật trọng tài Trung Quốc, Điều 24 Luật trọng tài quốc tế
Singapore, Điều 34 Luật mẫu UNCITRAL,…)
· Đình chỉ, hủy bỏ một phần Quyết định trọng tài : Nếu có thể tách được, tòa án sẽ chỉ hủy
bỏ, đình chỉ phần quyết định vượt quá thẩm quyền và giữ nguyên hiệu lực của phần còn lại.
· Đình chỉ, hủy bỏ toàn bộ Quyết định trọng tài : Thường là trong trường hợp Thỏa thuận
trọng tài không có giá trị pháp lý hoặc tranh chấp không thuộc loại được giải quyết bằng trọng tài,
hoặc việc ra quyết định trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật và lợi ích công cộng.
Việc tòa án nơi Quyết định trọng tài được tuyên đình chỉ, hủy bỏ Quyết định trọng tài sẽ là căn cứ
để tòa án nơi Quyết định trọng tài được yêu cầu thi hành xem xét không công nhận và không cho
thi hành (Điều V (1) (e) – Công ước New York 1958).
- Cơ chế kiểm tra căn cứ không công nhận và thi hành Quyết định trọng tài.
Quyền giám sát của Nhà nước đối với trọng tài còn được thể hiện thông qua việc tạo cho “bên
thua” cơ hội cuối cùng để khiếu nại lên tòa án nơi quyết định trọng tài được yêu cầu thi hành
kiểm tra lại các căn cứ không công nhận Quyết định này.
Theo pháp luật của nhiều nước, các căn cứ để không công nhận phán quyết trọng tài
thường tập trong vào năm trường hợp sau :

· Thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo luật áp dụng để giải quyết tranh
chấp hay luật nơi Quyết định trọng tài được tuyên.
· Ủy ban trọng tài / Trọng tài viên đã giải quyết và ra quyết định vượt quá thẩm quyền theo
thỏa thuận trọng tài.
· Ủy ban ttrọng tài/Trọng tài viên trong quá trình giải quyết vụ việc đã vi phạm các qui tắc tố
tụng trọng tài, không khách quan, không đảm bảo quyền của các bên được tham gia, được trình
bày một cách công bằng các vấn đề của mình.
· Phán quyết trọng tài đã bị hủy bỏ bởi tòa án có thẩm quyền của nơi phán quyết được
tuyên.
· Tranh chấp không thuộc loại được giải quyết bằng thể thức trọng tài hoặc việc công nhận
và thi hành phán quyết trọng tài sẽ trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật và lợi ích công
cộng của nơi phán quyết được yêu cầu thi hành (Điều V Công ước New York 1958)
Trong năm trường hợp này, ba trường hợp đầu tiên cũng chính là các trường hợp mà
tòa án dựa vào đó để xem xét đình chỉ hay hủy bỏ phán quyết trọng tài.
Về mặt thủ tục, khi có đơn đề nghị thi hành phán quyết trọng tài hoặc khi có đơn đề nghị
không công nhận phán quyết trọng tài, thông thường tòa án phải mở phiên tòa xem xét. Quyết
định của tòa án về việc công nhận hay không công nhận phán quyết trọng tài có giá trị bắt buộc
thi hành như một bản án của tòa án.
Việc Nhà nước thừa nhận về mặt pháp lý cơ chế hỗ trợ, giám sát của tòa án đối với việc công
nhận, thi hành quyết định trọng tài là một yếu tố có tính chất sống còn bảo đảm cho hiệu quả cuối
cùng cao nhất của quá trình trọng tài. Tạo niềm tin cho các nhà kinh doanh trong và ngoài nước
khi lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp.

Tóm lại, với bản chất là một cơ quan tài phán trong kinh doanh, một tổ chức phi chính
phủ, trọng tài thương mại không thoát ly khỏi sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Nhà nước
luôn cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình tố tụng trọng tài. Vấn đề là Nhà nước sẽ
tác động trọng tài đến đâu và liệu Nhà nước can thiệp một cách tích cực hay tiêu cực vào trọng
tài. Sự can thiệp của Nhà nước có thể là tích cực nhưng cũng có thể tác động không tốt đến
trọng tài. Đa số các nước đều quy định Tòa án chính là cơ quan đại diện cho quyền lực Nhà
nước thực hiện chức năng hỗ trợ, kiểm tra, giám sát đối với trọng tài. Chính vì vậy, mối quan hệ

giữa tòa án và trọng tài luôn là vấn đề được pháp luật của các nước cũng như pháp luật quốc tế
quan tâm giải quyết, đảm bảo làm sao vừa phòng ngừa hạn chế sự can thiệp không cần thiết của
tòa án vào quá trình tố tụng trọng tài vừa đảm bảo được vai trò hỗ trợ, kiểm tra, giám sát cần
thiết của tòa án để nâng cao hiệu quả cuối cùng của trọng tài. Tùy theo điều kiện, truyền thống
pháp luật, các học thuyết và quan điểm pháp lý về trọng tài của từng quốc gia mà quan hệ giữa
tòa án và trọng tài được thể chế hóa ở những mức độ khác nhau tại những văn bản khác nhau
nhưng thông thường là trong Luật trọng tài, Luật tố tụng dân sự hoặc Tố tụng thương mại của
từng nước và trong các điều ước quốc tế về trọng tài.
Thạc sĩ Thông Anh
Quan hệ Tòa án và Trọng tài thương mại: Chuyên đề 4: Quan hệ Tòa án Việt Nam
và Trọng tài thương mại trước khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003
Mối quan hệ giữa Tòa án Việt nam và Trọng tài thương mại trước
khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003


1. Giai đọan trước 01.07.1994

Điểm lại lịch sử phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam giai đoạn này có thể thấy
được một thực tế là hầu như giữa trọng tài và tòa án không có mối quan hệ nào về mặt tố tụng.
Trong một thời gian dài, nói đến tranh chấp kinh tế thường chỉ nghĩ đến tranh chấp và vi
phạm hợp đồng kinh tế. Bởi lẽ, sự ra đời của trọng tài ở Việt Nam gắn liền với sự hình thành cơ
chế hợp đồng kinh tế theo Nghị định 04/TTg ngày 04.01.1960. Cơ chế này đã ảnh hưởng mạnh
mẽ tới việc thành lập một tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế đầu tiên ở Việt Nam, với tên gọi là
Trọng tài kinh tế Nhà nước theo Nghị định 20/TTg ngày 14.4.1960. Theo Nghị định này, các hội
đồng trọng tài kinh tế là một cơ quan Nhà nước, trực thuộc cơ quan hành chính cùng cấp, được
thành lập ở cấp tỉnh và cấp bộ. Thành viên của Hội đồng trọng tài đồng thời giữ một số chức vụ
chính quyền ở cấp đó. Chức năng chính của hội đồng trọng tài là giải quyết các tranh chấp kinh
tế phát sinh từ hoạt động của các cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước theo yêu
cầu của các bên tranh chấp. Ngoài ra, các hội đồng trọng tài còn có thẩm quyền ra các quyết
định yêu cầu các cơ quan liên quan phải tiến hành ngay các biện pháp để giảm thiệt hại gây ra

cho kế hoạch Nhà nước trong các trường hợp không ký kết, hay không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng kinh tế đã ký.
Nghị định số 29/CP ngày 23.02.1962 của Chính phủ đã quy định các nguyên tắc và thủ
tục chính thức của các hội đồng trọng tài. Năm 1965, các Hội đồng trọng tài được thay thế bằng
các Hội đồng trọng tài kinh tế ở các cấp, cụ thể là : Hội đồng trọng tài Nhà nước ở cấp trung
ương, các Hội đồng trọng tài kinh tế cấp tỉnh và các Hội đồng trọng tài kinh tế cấp bộ. Thẩm
quyền của các hội đồng trọng tài kinh tế này cũng được mở rộng.
Tiếp sau đó, Chính phủ đã có Nghị định 47/CP ngày 13.3.1974 nhằm từng bước hoàn
thiện các Hội đồng trọng tài kinh tế. Theo Nghị định này, các Hội đồng trọng tài kinh tế được tăng
cường các thành viên có trình độ chuyên môn và một thư ký. Chức danh Chủ tịch Hội đồng trọng
tài kinh tế Nhà nước được bổ nhiệm thay thế việc một Phó Thủ tướng kiêm nhiệm chức vụ này.
Đến ngày 14.4.1975, Chính phủ đã có Nghị định 75/CP quy định tổ chức và hoạt động
của Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước. Theo đó, Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước có trách
nhiệm giúp Hội đồng Chính phủ trong công tác quản lý hợp đồng kinh tế và giải quyết tranh chấp
hợp đồng kinh tế phát sinh giữa các doanh nghiệp Nhà nước. Theo Nghị định này, không còn
chế độ kiêm nhiệm các chức vụ hành chính của các thành viên hội đồng trọng tài, Hội đồng trọng
tài kinh tế Nhà nước được đổi thành Trọng tài kinh tế Nhà nước.Các trọng tài viên được bổ
nhiệm và bãi miễn theo quy định của pháp luật. Các trọng tài viên có nhiệm vụ và quyền hạn
giám sát việc thi hành hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các doanh nghiệp Nhà nước và giải
quyết các tranh chấp giữa các doanh nghiệp này.

Bước cuối cùng trong quá trình phát triển của Trọng tài kinh tế Nhà nước ở Việt Nam là
việc thành lập cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nước theo Pháp lệnh Trọng tài kinh tế Nhà nước
ban hành ngày 10.01.1990. Theo pháp lệnh này, trọng tài được tổ chức ở ba cấp :
· Trọng tài kinh tế Nhà nước,
· Trọng tài kinh tế tỉnh và tương đương,
· Trọng tài kinh tế huyện và tương đương.

Về tố tụng, trọng tài cấp trên có quyền xét kháng cáo, giám sát các quyết định giải quyết
tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hợp đồng kinh tế của trọng tài cấp dưới;

xem xét lại các quyết định đó nếu có tình tiết mới được phát hiện. Như vậy, có thể thấy rất rõ
rằng quyền giám sát của Nhà nước được thực hiện trong nội bộ hệ thống trọng tài.
Là cơ quan Nhà nước,nên trong quá trình giải quyết tranh chấp, Trọng tài kinh tế có
quyền yêu cầu các cá nhân, tổ chức và cơ quan Nhà nước khác thực hiện việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời như (phong toả tài khoản, tạm thời không giao tài sản, không trả nợ,…)
để ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra hoặc để đảm bảo thực hiện quyết định của trọng tài kinh tế.
Các yêu cầu được trọng tài kinh tế ban hành trong phạm vi thẩm quyền phải được các đơn vị
kinh tế, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh (Điều 21 Pháp lệnh Trọng tài kinh tế 1990).
Cũng với quyền lực Nhà nước, Trọng tài kinh tế có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nếu quyết định của Trọng tài kinh tế không được các bên tự nguyện thi hành. Các biện pháp
cưỡng chế đó là : Khấu trừ tiền từ tài khoản ở ngân hàng; kê biên tài sản để bán đấu giá (Điều
34 Pháp lệnh trọng tài kinh tế 1990).
Như vậy, Trọng tài kinh tế hoạt động như một hệ thống hành chính – tư pháp, tự kiểm tra,
giám sát các quyết định giải quyết tranh chấp theo thủ tục “phúc thẩm, tái thẩm”, đồng thời tự
cưỡng chế thi hành quyết định khi cần thiết trong phạm vi thẩm quyền luật định .

2. Giai đoạn từ 01.7.1994 đến trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.

Đây là giai đoạn Nhà nước đã bắt đầu thừa nhận sự tồn tại của trọng tài thương mại –
với tính chất là một cơ quan tài phán phi Nhà nước,đồng thời tìm cách khống chế, kiểm soát
nghiêm ngặt quá trình tố tụng trọng tài.
Trước những yêu cầu khách quan và sự đa dạng về hình thức và phương thức giải
quyết tranh chấp kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, đồng thời trước sự gia tăng của
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và nhu cầu giao dịch thương mại của Việt Nam tăng nhanh, đặc
biệt từ cuối thập niên 80 thế kỷ XX, đòi hỏi phải có một tổ chức thích hợp để giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế, đa dạng hóa các cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại nhằm tạo
cơ hội cho các doanh nhân thực hiện quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền tự do lựa chọn
cơ quan giải quyết tranh chấp, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngày 28.4.1993,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 204/TTg thành lập Trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC) đặt bên cạnh Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất

Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải. Theo đó, Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam là một tổ chức trọng tài phi chính phủ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong quan hệ kinh tế quốc tế khi một trong các bên tranh chấp, hoặc tất cả các bên
tranh chấp là thể nhân, pháp nhân nước ngoài, và khi trước hoặc sau thời điểm tranh chấp các
bên có thỏa thuận lựa chọn tổ chức trọng tài này để giải quyết vụ việc. Ngày 14.02.1996, Thủ
tướng Chính phủ đã có Quyết định số 114/TTg mở rộng hơn nữa phạm vi thẩm quyền của Trung
tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, bằng việc quy định Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh doanh trong nước.
Ngày 28.12.1993 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi một số điều của Luật tổ chức tòa
án và ngày 16.03.1994 ban hành Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp kinh tế (có hiệu lực
từ ngày 01.07.1994). Trên cơ sở đó, tòa kinh tế được thành lập để thực hiện chức năng giải
quyết các tranh chấp kinh tế. Cùng với sự ra đời của tòa kinh tế, ngày 11.07.1994, Thủ tướng
Chính phủ đã có Quyết định số 355/CP giải thể Trọng tài kinh tế Nhà nước. Ngày 05.09.1994,
Chính phủ ban hành Nghị định 116/CP cho phép thành lập các Trung tâm trọng tài kinh tế. Theo
Nghị định 116/CP, các Trung tâm trọng tài kinh tế được tổ chức dưới hình thức là một tổ chức xã
hội nghề nghiệp (tổ chức phi chính phủ). Các Trung tâm trọng tài phi chính phủ được thành lập
đã khẳng định chủ trương đổi mới của Nhà nước trong việc công nhận và thể chế hóa quyền tự
do định đoạt, tự do kinh doanh của công dân Việt Nam và cá nhân, tổ chức kinh doanh nước
ngoài. Tổ chức trọng tài kinh tế theo tinh thần của Nghị định 116/CP được thành lập bởi các trọng
tài viên tư nhân, tự thiết lập điều lệ và quy tắc của mình trên cơ sở tuân theo quy định của pháp
luật. Hơn nữa, thẩm quyền của Trung tâm trọng tài kinh tế cũng được mở rộng, như giải quyết
các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; tranh chấp giữa công ty và thành viên công ty; tranh chấp
giữa các thành viên công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; tranh chấp
liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Như vậy, lúc này Trọng tài kinh tế Nhà nước đã
được thay thế bằng Tòa kinh tế - cơ quan giải quyết tranh chấp đại diện cho quyền lực Nhà nước
và Trọng tài kinh tế phi Chính phủ – cơ quan giải quyết tranh chấp đại diện cho quyền lực theo
hợp đồng. Sự thay đổi này tất yếu đặt ra những yêu cầu mới trong việc thiết lập mối quan hệ
giữa hai loại cơ quan tài phán kinh tế này theo hướng thúc đẩy việc hợp tác nâng cao hiệu quả
của từng phương pháp giải quyết tranh chấp nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam và phù hợp với thông lệ thương mại Quốc tế.

Việc điều chỉnh quan hệ của tòa án đối với trọng tài giai đoạn này được thể hiện trong
các văn bản như : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (có hiệu lực từ ngày
01.07.1994), Điều lệ tổ chức và Qui tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài Quốc tế ban hành kèm
theo Quyết định 204/TTg ngày 28.04.1993, Nghị định 116/CP ngày 05.09.1994 về Trọng tài kinh
tế và Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam Quyết định của trọng tài nước ngoài (có hiệu
lực từ ngày 01.01.1996).

- Với trọng tài trong nước.

Vai trò hỗ trợ duy nhất của tòa án là việc tòa án trả lại đơn kiện trong trường hợp “sự
việc đã được các bên thỏa thuận trước là phải giải quyết theo thủ tục trọng tài” (Điều 32 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế)
Điều 16 của Quy tắc tố tụng trọng tài trong nước của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam quy định “theo yêu cầu của một bên và căn cứ vào pháp luật, Uy ban trọng tài có thể liên hệ
với tòa án nơi bị đơn có tài sản để xin lệnh được sử dụng các biện pháp bảo toàn nếu thấy cần
thiết”. Tuy nhiên, quy định này mang tính chất hình thức nhiều hơn là tính hiện thực vì lúc này
pháp luật không có quy định nào bắt buộc tòa án có nghĩa vụ phải thực hiện yêu cầu này của
trọng tài.
Các quyết định của trọng tài Việt Nam tuyên, dù là Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
hay các Trung tâm trọng tài kinh tế tuyên, đều chưa được bảo đảm thi hành bằng Tòa án Việt
Nam theo như thông lệ Quốc tế. Không những thế, Điều 31 Nghị định 116/CP ngày 05.09.1994
còn quy định “Trong trường hợp quyết định Trọng tài không được một bên chấp hành, thì bên kia
có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh
tế”. Quy định này, về thực chất, đã phủ nhận hoàn toàn quá trình tố tụng trọng tài trước đó, biến
trọng tài thành một “buổi diễn tập” trước khi kiện ra tòa án, vừa làm nản lòng những người thật
sự mong muốn giải quyết dứt điểm tranh chấp bằng trọng tài, vừa tạo điều kiện cho những người
cố tình trì hoãn việc giải quyết tranh chấp, né tránh việc thực hiện các nghĩa vụ của mình trước
bạn hàng. Quy định này trái với thông lệ quốc tế về trọng tài thương mại. Đây là một trong những
nguyên nhân làm mất đi tính hấp dẫn của trọng tài kinh tế lúc bấy giờ, các bên không thích chọn
các trung tâm trọng tài kinh tế để giải quyết tranh chấp.


- Với trọng tài nước ngoài.

Để cụ thể hóa nghĩa vụ của một Quốc gia thành viên của Công ước Quốc tế New York
1958, ngày 14.09.1995 Uy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh công
nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài (có hiệu lực từ 01.01.1996).
Theo đó, tòa án có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện vai trò hỗ trợ, giám sát , kiểm tra đối với
việc công nhận và thi hành quyết định do trọng tài nước ngoài tuyên ở ngoài hay tại lãnh thổ Việt
Nam. Các quy định của Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài (1995) tập trung điều chỉnh ba nội dung : Về nguyên tắc công nhận và thi hành; về
thủ tục và trình tự xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài; về thủ tục thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài sau khi quyết
định công nhận và cho thi hành của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật.

Về nguyên tắc công nhận và cho thi hành :

Theo Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của
Trọng tài nước ngoài quy định : Tòa án Việt Nam xem xét việc công nhận và cho thi hành tại Việt
Nam Quyết định của trọng tài nước ngoài trong trường hợp quyết định được tuyên tại nước hoặc
của trọng tài của nước mà Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và nước đó ký kết hoặc tham
gia điều ước quốc tế về vấn đề này. Quyết định của trọng tài nước ngoài cũng có thể được tòa
án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi
hỏi phải có điều kiện ký kết, tham gia điều ước Quốc tế. Mặt khác, Khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh
cũng quy định : quyết định của trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau khi đã
được tòa án có thẩm quyền của Việt Nam công nhận và cho thi hành. Việc công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài là một thủ tục pháp lý đặc biệt để cho
phép quyết định đó có hiệu lực thi hành như quyết định của tòa án Việt Nam. Việc thi hành các
quyết định của trọng tài nước ngoài sau khi đã được công nhận phải tuân theo các quy định của
pháp lệnh và các quy định khác của pháp luật Việt Nam về thi hành án dân sự.


Về thủ tục và trình tự xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam
quyết định của trọng tài nước ngoài :

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Pháp lệnh, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối trong
việc tiếp nhận các hồ sơ giấy tờ yêu cầu công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài sau đó kiểm tra tính hợp pháp, hợp thức của các giấy tờ, hồ sơ, chuyển hồ sơ
đến tòa án có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết đơn yêu cầu, đơn kháng cáo.
Việc nhận đơn chỉ được tiến hành trong trường hợp người phải thi hành đang cư trú hoặc làm
việc tại Việt Nam, hay người đó có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam vào thời điểm
gửi đơn.

Về thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của
trọng tài nước ngoài, theo quy định tại Điều 4 Pháp lệnh là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc hoặc nơi có tài sản liên quan đến
việc thi hành. Tòa án phải mở phiên tòa xét đơn yêu cầu. Việc xét đơn yêu cầu do một Hội đồng
gồm ba thẩm phán tiến hành, trong đó có một thẩm phán do chánh án chỉ định làm chủ toạ. Theo
Khoản 4 Điều 15 của Pháp lệnh, khi xét đơn yêu cầu Hội đồng xét xử không được xét xử lại vụ
kiện mà chỉ xem xét các thủ tục về mặt tố tụng của việc tuyên quyết định đó có đảm bảo không
(chỉ xem xét các quy định của luật hình thức mà không xem xét các quy định của luật nội dung).
Hội đồng xét xử sẽ quyết định công nhận và cho thi hành hoặc quyết định không công nhận
quyết định của trọng tài nước ngoài. Sau phiên tòa sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự
được đảm bảo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các đơn kháng cáo, kháng nghị sẽ được
Tòa án nhân dân tối cao xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm.
Theo quy định tại Điều 16 Pháp lệnh, các trường hợp cụ thể là các cơ sở để tòa án Việt
Nam không công nhận quyết định của trọng tài nước ngoài đó là:
• Các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thỏa
thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;
• Tổ chức, cá nhân phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp
thức về việc chỉ định trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại trọng tài hoặc
vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;

• Quyết định của trọng tài được tuyên về một vụ tranh chấp không được
các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thỏa thuận trọng
tài;
• Thành phần trọng tài, thủ tục giải quyết tranh chấp của trọng tài không
phù hợp với thỏa thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi quyết định của trọng
tài được tuyên, nếu thỏa thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;
• Quyết định của trọng tài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;
• Quyết định của trọng tài đã bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi
quyết định được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng, hủy bỏ hoặc đình
chỉ thi hành.
Ngoài ra, quyết định của trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam, nếu tòa án xét thấy :
• Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể
thức trọng tài;
• Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Về thủ tục thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài sau khi quyết
định công nhận và cho thi hành của Tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật :

Nguyên tắc thi hành : Quyết định của trọng tài nước ngoài đã được tòa án có thẩm
quyền của Việt Nam công nhận và cho thi hành có hiệu lực thi hành tại Việt Nam như bản án,
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nên chúng cũng phải tuân thủ những nguyên tắc,
thủ tục của pháp luật Việt Nam về thi hành án dân sự. Việc thi hành quyết định của trọng tài
nước ngoài dựa trên những nguyên tắc sau :
• Quyết định của trọng tài nước ngoài chỉ được thi hành tại Việt Nam sau
khi được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
• Cơ quan thi hành án chỉ có trách nhiệm thực hiện theo đúng nội dung
của quyết định của trọng tài nước ngoài đã được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi
hành. Những vấn đề phát sinh ngoài nội dung quyết định không thuộc trách nhiệm của
cơ quan thi hành án.

Với việc ban hành Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nước ngoài đã thể hiện vai trò kiểm tra, giám sát của Tòa án Việt Nam trong việc kiểm tra căn cứ
không công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Những quy định này đã
góp phần nâng cao sự tin cậy của các nhà kinh doanh nước ngoài trong khi làm ăn với các bạn
hàng Việt Nam vì họ biết rằng nếu có tranh chấp xảy ra và tranh chấp đó được giải quyết bằng
trọng tài nước ngoài thì Nhà nước Việt Nam sẽ đảm bảo việc thi hành tại Việt Nam quyết định đó
của trọng tài.
Chính vì có sự khác biệt cơ bản trong cơ chế đảm bảo thi hành quyết định của trọng tài
trong nước và trọng tài nước ngoài nên hoàn toàn dễ hiểu khi thực tế cho thấy có xu hướng lựa
chọn trọng tài nước ngoài để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thương mại, kinh tế
với một bên là tổ chức hay công dân Việt Nam.
Tóm lại, mặc dù mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài ở Việt Nam giai đoạn này đã có
những thay đổi đáng kể, tuy nhiên Nhà nước tạo điều kiện để trọng tài kinh tế Việt Nam ra đời
nhưng lại chưa tạo cơ chế giúp cho trọng tài kinh tế có chỗ đứng tin cậy trong thương trường nội
địa và giao lưu Quốc tế.

Quan hệ Tòa án và Trọng tài: Chuyên đề 5: Điểm mới trong mối quan hệ Tòa án
Việt Nam và Trọng tài Thương mại từ khi có Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003
Điểm mới trong mối quan hệ giữa tòa án
và trọng tài kể từ khi có pháp lệnh trọng tài thương mại 2003


Nhằm khắc phục những hạn chế, tăng cường hiệu quả và năng lực của các Trung tâm
trọng tài, ngày 25.02.2003 Uy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương
mại số 08/2003/PL-UBTVQH (có hiệu lực thi hành từ 01.07.2003) và ngày 15.01.2004, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp
lệnh trọng tài thương mại. Có thể nói với việc ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 cho
thấy pháp luật về trọng tài thương mại nước ta đã có một bước phát triển mới, ngày càng phù
hợp với thông lệ Quốc tế. Bước đột phá mạnh mẽ nhất trong Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003 chính là mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài đã được quy

định khá chặt chẽ. Những quy định này, nhìn chung đã khắc phục được phần lớn những bất cập,
mâu thuẫn và hạn chế của hoạt động trọng tài trong thời gian qua. Pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003 bước đầu đã thiết lập được mối quan hệ giữa tòa án và trọng tài, trong đó tòa án đóng
vai trò hỗ trợ và giám sát trọng tài trong quá trình tố tụng.

1. Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài

· Sự hỗ trợ của tòa án để đảm bảo thi hành Điều khoản, Thỏa thuận trọng tài.

Nếu các bên tranh chấp đã có thỏa thuận điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài
mà một trong các bên không thực hiện thì tòa án hỗ trợ để đảm bảo thi hành. Tiếp nhận Luật
mẫu UNCITRAL (Điều 8), đồng thời tham khảo kinh nghiệm luật trọng tài các nước, Điều 5 Pháp
lệnh trọng tài thương mại quy định “Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài,
nếu một bên khởi kiện đến tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng
tài vô hiệu”.

Đây là một điều không mới trong Luật trọng tài của các nước nhưng đối với nước ta, đây
là lần đầu tiên có một quy định rõ ràng như vậy về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
trong một văn bản luật.

Có thể nói, thỏa thuận trọng tài là điều kiện cần của việc trọng tài,chính vì thế hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài có tầm quan trọng đặc biệt. Vai trò của tòa án trong việc đảm bảo thi hành thỏa
thuận trọng tài là cần thiết.


· Sự hỗ trợ của tòa án để đảm bảo thực hiện các lệnh của trọng tài trong quá trình tố
tụng trọng tài.

Thông thường các vụ tranh chấp về dân sự, bên bị kiện (bị đơn) thường dùng thủ đoạn
tiêu hủy chứng cứ, gây cản trở cho việc điều tra giải quyết vụ tranh chấp, hoặc phân tán, cất dấu

tài sản, gây cản trở cho việc thi hành án. Do đó, pháp luật tố tụng về dân sự, kinh tế, lao động
của nước ta đều quy định “cá nhân, tổ chức có quyền và lợi ích bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực
tiếp bị xâm hại có quyền làm đơn yêu cầu tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời”. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay và thường đi
đôi với biện pháp cưỡng chế thi hành.

Đối với các vụ tranh chấp thương mại do trọng tài giải quyết cũng rất cần áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Trong quá trình giải quyết tranh chấp có thể phát sinh nhiều vấn đề mà
nếu không được xử lý kịp thời thì chúng sẽ ảnh hưởng xấu đến việc giải quyết tranh chấp của
trọng tài. Nhưng trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không có quyền lực của cơ quan Nhà nước
nên không có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, không có quyền áp dụng biện pháp
cưỡng chế. Phần lớn Luật Trọng tài thương mại của các nước đều quy định tòa án quyết định áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, sự hỗ trợ của tòa
án trong việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời là hết sức cần thiết.

Điều 33 Pháp lệnh trọng tài thương mại đã quy định rõ sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng
tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy định tại điều này thì trong quá
trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, các bên có quyền làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi Hội
đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm
thời sau đây:
• Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có
nguy cơ bị tiêu hủy;
• Kê biên tài sản tranh chấp;
• Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
• Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp;
• Phong tỏa tài sản ở những nơi gửi giữ;
• Phong tỏa tài khoản tại Ngân hàng.

Tùy theo yêu cầu áp dụng loại biện pháp khẩn cấp tạm thời mà bên yêu cầu phải cung

cấp cho Tòa án bằng chứng về các chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn
tẩu tán, cất giấu tài sản có thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện
được. Bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản tiền bảo đảm do
Tòa án ấn định nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ phải thực hiện để bảo
vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có
yêu cầu (Điều 34). Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được thay đổi hoặc hủy
bỏ khi không còn phù hợp hoặc không còn cần thiết theo yêu cầu của bên đề nghị áp dụng (Điều
35).

Những biện pháp khẩn cấp tạm thời này sẽ giúp cho quá trình xét xử và thi hành phán
quyết trọng tài sau này được thuận lợi hơn rất nhiều và các bên cũng có thể đảm bảo được lợi
ích trực tiếp của mình không bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại. Bên cạnh đó, Pháp
lệnh cũng quy định rõ trách nhiệm của các bên khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
đó là bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của
mình. Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng và gây
thiệt hại cho bên kia, cho người thứ ba thì phải bồi thường. Điều này nhằm tránh tình trạng lạm
dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà gây ảnh hưởng đến lợi ích của
bên bị áp dụng. Bên cạnh đó, tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình tố
tụng trọng tài khi có yêu cầu của các bên. Điều này khác với tố tụng tòa án trong các vụ án dân
sự, kinh tế, lao động ngoài yêu cầu của đương sự, tòa án nếu thấy cần thiết cũng có thể quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trách nhiệm của tòa án khi nhận được đơn của bên
yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là phải xem xét đầy đủ những tài liệu bên yêu
cầu gửi cho tòa án theo quy định tại Điều 33 Pháp lệnh trọng tài thương mại. Nếu có đầy đủ căn
cứ theo quy định tại Điều 33, 34 của Pháp lệnh thì tòa án mới ra quyết định. Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi ngay cho Uy ban trọng tài, các bên tranh chấp và Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp. Trong thời hạn ba (03) ngày, kể từ ngày nhận được quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kiến
nghị, bị đơn có quyền yêu cầu Chánh án tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, hủy bỏ hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Trong thời
hạn ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát hoặc yêu cầu của

bị đơn, Chánh án tòa án phải có quyết định trả lời cho Viện kiểm sát hoặc bị đơn (Điều 34 Pháp
lệnh trọng tài thương mại 2003).

Có thể nói, việc tòa án xem xét áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình
tố tụng trọng tài là biện pháp hỗ trợ quan trọng nhất của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Vai trò hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời là một điều được được quy định trong luật trọng tài của rất nhiều Quốc gia nhưng lần
đầu tiên có một quy định rõ ràng như vậy của Việt Nam về vai trò và nhiệm vụ của tòa án trong
việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài.

· Sự hỗ trợ của tòa án đối với Hội đồng trọng tài do các bên thành lập.

Sự hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài cũng được quy định rõ tại Điều 26 Pháp lệnh trọng
tài thương mại trong trường hợp các bên tự thành lập Hội đồng trọng tài (Trọng tài Ad-hoc). Theo
đó, trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì khi nguyên đơn gửi đơn kiện cho bị
đơn, bị đơn phải chọn trọng tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết trọng tài viên mà mình
chọn. Nếu quá thời hạn luật định bị đơn không chọn được trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền
yêu cầu tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định
trọng tài viên cho bị đơn. Hai trọng tài viên được chọn hoặc được tòa án chỉ định phải thống nhất
chọn trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Nếu hai trọng tài viên được chọn hoặc
được chỉ định không chọn được trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền yêu cầu tòa án tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên thứ ba.
Trong các trường hợp này, Chánh án sẽ giao cho một thẩm phán chỉ định trọng tài viên cho bị
đơn hoặc trọng tài viên thứ ba và thông báo cho các bên. Trọng tài viên do các bên chọn hoặc
do tòa án chỉ định có thể là trọng tài viên trong danh sách hoặc ngoài danh sách trọng tài viên
của các Trung tâm trọng tài của Việt Nam. Điều này là một thay đổi rất lớn của Pháp lệnh trọng
tài thương mại so với các quy định pháp luật về trọng tài trước đây.

Ngoài ra, Hội đồng trọng tài Ad-hoc được thành lập theo ý chí của các bên để giải quyết vụ
tranh chấp, sau khi giải quyết xong thì giải tán. Do vậy, nếu không quy định lưu trữ hồ sơ đối với

hình thức trọng tài này thì dẫn đến khó khăn với yêu cầu xin hủy phán quyết trọng tài. Theo Quy
định tại Khoản 2 Điều 48 của Pháp lệnh trọng tài thương mại thì đối với vụ tranh chấp được giải
quyết bằng Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (Trọng tài Ad-hoc) thì hồ sơ được lưu trữ tại
tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài Ad-hoc ra quyết định trọng tài. Sự hỗ trợ của tòa án trong
việc giúp lưu trữ hồ sơ trọng tài Ad-hoc như quy định trên của Pháp lệnh trọng tài thương mại đã

×