Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Luận văn thạc sĩ hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KIỀU THỊ THU HÀ

HßA GIảI ở CƠ Sở
TRÊN ĐịA BàN TỉNH THANH HóA
Chuyờn ngnh: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: NGƢT. GS. TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI - 2014

z


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Kiều Thị Thu Hà

z


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HÒA GIẢI
Ở CƠ SỞ ............................................................................................. 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, phân biệt hòa giải ở cơ
sở với các loại hình hịa giải khác ..................................................... 8

1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm hoà giải .............................................................. 8

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm hoà giải ở cơ sở ................................................. 9

1.1.3.


Phân biệt hịa giải ở cơ sở với các loại hình hịa giải khác ................ 13

1.2.

Vai trò của hòa giải ở cơ sở ............................................................. 20

1.3.

Sự hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về hòa
giải ở cơ sở ........................................................................................ 22

1.3.1.

Giai đoạn trước cách mạng tháng 8/1945 .......................................... 22

1.3.2.

Giai đoạn từ tháng 8/1945 đến ngày 25/12/1998 .............................. 23

1.3.3.

Giai đoạn từ 1998 – đến nay .............................................................. 28

1.4.

Hòa giải ở một số quốc gia trên thế giới ........................................ 33

1.4.1.


Luật về các trung tâm hòa giải cộng đồng của Singapore ................ 33

1.4.2.

Luật hòa giải nhân dân của nước CHND Trung Hoa ....................... 34

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOÀ GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THANH HỐ ....................................................................... 36
2.1.

Thực trạng pháp luật về hịa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa ............ 36

2.2.

Thực trạng về tổ chức hòa giải ở cơ sở .......................................... 42

z


2.2.1.

Mơ hình tổ chức ................................................................................. 42

2.2.2.

Cơ cấu, số lượng và chất lượng hòa giải viên ................................... 46

2.3.

Thực trạng hoạt động hòa giải ở cơ sở .......................................... 50


2.4.

Đánh giá chung về hịa giải ở cơ sở trên địa bàn Thanh Hóa ..... 56

2.4.1.

Những ưu điểm .................................................................................. 56

2.4.2.

Những hạn chế ................................................................................... 58

2.4.3.

Nguyên nhân của những hạn chế ....................................................... 59

Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOÀ GIẢI Ở
CƠ SỞ ............................................................................................... 61
3.1.

Những giải pháp để nâng cao chất lƣợng hòa giải trên địa
bàn Tỉnh Thanh Hóa ....................................................................... 61

3.2.

Những giải pháp chung để nâng cao chất lƣợng hòa giải ở cơ sở .... 65

3.2.1.


Nâng cao năng lực của cơng chức quản lý hịa giải ở cơ sở .............. 65

3.2.2.

Kiện toàn bộ máy tổ chức hịa giải .................................................... 66

3.2.3.

Phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức đồn thể trong cơng tác
hịa giải ............................................................................................... 67

3.2.4.

Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng ................................................ 68

3.2.5.

Đảm bảo cơ sở vật chất cho cơng tác hịa giải .................................. 70

3.2.6.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính
quyền các cấp, cơ quan tư pháp cấp trên ........................................... 72

3.2.7.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể........ 73

3.2.8.


Tăng cường cơng tác đánh giá, kiểm tra ............................................ 74

3.2.9.

Hồn thiện chế độ, chính sách, bảo đảm kinh phí hoạt động ............ 76

KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
PHỤ LỤC

z


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHND:

Cộng hòa nhân dân

MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

PBGDPL:

Phổ biến giáo dục pháp luật

QPPL:

Quy phạm pháp luật


UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

z


DANH CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ % tổ hịa giải ở thơn, bản, khu phố tại
Thanh Hóa
Biểu đồ 2.2:

46

Sự chuyển dịch về cơ cấu thành phần tổ hòa
giải ở cơ sở

48


Biểu đồ 2.3: So sánh chất lượng của đội ngũ hòa giải viên tại
Thanh Hóa năm 2008 và 2013

50

Biểu đồ 2.4: Cơ cấu các vụ việc hòa giải từ năm 1998-2008

51

Biểu đồ 2.5: Cơ cấu các vụ việc hòa giải năm 2013

52

Biểu đồ 2.6: So sánh số vụ việc hòa giải ở cơ sở tại Thanh
Hóa từ năm 2011-2013
Biểu đồ 2.7:

53

Hoạt động hịa giải ở cơ sở tại Thanh Hóa từ
2011-2013

54

Biểu đồ 2.8: Tỉ lệ hịa giải thành và hồ giải khơng thành tại
Thanh Hóa từ năm 2011-2013

z

54



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu sơ đồ

Tên sơ đồ

Sơ đồ 2.1: Mơ hình tổ chức hồ giải ở Thanh Hố trước năm 1998

Trang
43

Sơ đồ 2.2: Mơ hình tổ chức hồ giải ở Thanh Hố từ 2009 đến
Q III/2013

44

Sơ đồ 2.3: Mơ hình tổ chức hồ giải ở Thanh Hố từ đầu năm
2014 đến nay

45

z


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội bao giờ cũng có các mối quan hệ phong phú, đan chéo không
kém phần phức tạp. Nếu ứng xử không tốt các mối quan hệ đó sẽ làm phát
sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp trong xã hội. Do vậy để giữ gìn ổn định trật

tự xã hội, mỗi cá nhân, con người, tổ chức phải ln lấy “hồ làm trọng”, coi
đối nhân xử thế là những lẽ sống ở đời, đồng thời đề cao những nét văn hố
“tình làng nghĩa xóm”, “đạo vợ nghĩa chồng”, “anh em như thể chân tay”,
“chị ngã em nâng”... để duy trì tốt các mối quan hệ trong xã hội, chủ yếu là 3
mối quan hệ “đối với người”, “đối với việc”, “đối với mình”.
Phát huy truyền thống văn hố của dân tộc, đồn kết, tương thân, tương
ái trong cộng đồng dân cư, nâng cao kết quả giải quyết những mâu thuẫn,
tranh chấp, vi phạm pháp luật trong nhân dân, góp phần giữ gìn, an tồn xã
hội, giảm bớt khiếu nại. Những năm qua Đảng và Nhà nước ta ln coi trọng
cơng tác hồ giải cơ sở, coi đây là một trong những yếu tố bảo đảm cho phát
triển kinh tế, ổn định về xã hội. Và thực tế cho thấy, ở những địa phương làm
tốt cơng tác hịa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo
đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở
những nơi coi nhẹ công tác hòa giải, mâu thuẫn xã hội phát sinh, tranh chấp
trong cộng đồng dân cư có chiều hướng tăng, dẫn đến tình hình mất ổn định
chính trị, trật tự kỷ cương và an toàn xã hội.
Thực hiện Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và Nghị
định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở trong những năm
qua hoạt động hoà giải ở cơ sở được tổ chức theo những mơ hình khơng thống
nhất và với nhiều tên gọi khác nhau như: Tổ hoà giải, Tổ an ninh xã hội, Tổ an

1

z


ninh nhân dân, Tổ liên gia tự quản, Đội dân phịng, Đội tuần tra nhân dân, Ban
cơng tác Mặt trận tổ quốc, Chi hội cựu chiến binh, Chi hội nông dân, Chi hội
phụ nữ... Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải ở cơ sở chưa thực

sự đầy đủ và đồng bộ. Hiện nay một số Luật, Pháp lệnh chuyên ngành cũng có
các quy định liên quan đến hịa giải ở cơ sở có những điểm khác với quy định
của Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hịa giải ở cơ sở (ví dụ Luật Đất đai) dẫn
đến sự không thống nhất, đồng bộ trong thực tiễn tổ chức và hoạt động hòa giải
ở cơ sở. Nhiều địa phương cịn tồn tại mơ hình tổ hịa giải ở 2 cấp: Tổ hịa giải
ở thơn, làng, bản, ấp, tổ dân phố… và Ban hòa giải (hoặc Hội đồng hòa giải) ở
cấp xã trong khi Pháp lệnh Tổ chức và hoạt động hòa giải lại chỉ điều chỉnh về
tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở, dẫn đến khó khăn, lúng túng
trong áp dụng pháp luật về hòa giải. Và ngày 20 tháng 6 năm 2013, tại kỳ họp
thứ 5, Quốc hội nước Cô ̣ng hòa xã hô ̣i chủ nghiã Viê ̣t Nam khóa XIII đã thơng
qua Luật Hịa giải ở cơ sở tạo hành lang pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt
động của các tổ hoà giải, hoà giải viên cơ sở.
Luật Hoà giải ở cơ sở ra đời với nhiều quy định mới đòi hỏi cần nghiên
cứu để vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh
chấp nhỏ tại địa bàn dân cư, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và
hoạt động hòa giải ở cơ sở. Bằng khung pháp lý cao nhất hoạt động hoà giải ở
cơ sở được điều chỉnh rộng hơn về phạm vi áp dụng, thúc đẩy sự tham gia
cũng như cơ chế phối hợp nhiều bên vào q trình hịa giải, đồng thời giải
quyết được những hạn chế về mặt pháp lý trong Pháp lệnh Tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở trước đây như: một số quy định còn chung chung, chưa
rõ ràng, cụ thể, chưa nêu rõ trách nhiệm của các tổ chức đồn thể (Mặt trận
Tổ quốc, Hội phụ nữ, Hội nơng dân…), cũng như vai trò, trách nhiệm của
UBND các cấp trong cơng tác hịa giải ở cơ sở chưa được quy định rõ ràng,
chưa quy định các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động hòa giải

2

z



cơ sở, chưa quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của Hòa giải viên, việc huy
động nguồn lực cho cơng tác hịa giải ở cơ sở chưa được tiến hành một cách
đồng bộ và thống nhất.
Nghiên cứu các quy định mới của pháp luật liên quan đến lĩnh vực hòa
giải để áp dụng, để đưa luật vào cuộc sống là vô cùng cần thiết nhất là với
một tỉnh đất rộng, người đơng như Thanh Hóa. Bởi những năm qua với sự
quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp uỷ, chính quyền các cấp, các tổ hồ giải
ở Thanh Hoá từng bước ổn định về tổ chức, cơ cấu, số lượng. Tuy nhiên với
đặc thù nhiều vùng miền, tại Thanh Hóa lại chưa có sự thống nhất trong lựa
chọn, cơng nhận, bầu hồ giải viên; nhiều địa phương chưa đề cao yêu cầu về
trình độ, kỹ năng nghiệp vụ hòa giải do vậy hiệu quả hòa giải chưa cao. Ví dụ
như ở miền núi các hồ giải viên chủ yếu là già làng, trưởng bản, trưởng các
dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng... ở đồng bằng chủ yếu là cán bộ
hưu trí, trưởng phố, thanh niên, phụ nữ có kiến thức pháp luật nhất định, chủ
yếu là có bề dày về thực tiễn đời sống.
Bên cạnh đó, thực trạng tổ chức của các Tổ hịa giải tại Thanh Hóa hiện
nay cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng u cầu, nhiệm vụ đó là: cơng tác quản
lý Nhà nước về hòa giải ở xã, phường, thị trấn chưa chặt chẽ, chưa theo dõi sự
biến động về tổ chức các Tổ hịa giải để củng cố, kiện tồn kịp thời; Tổ hòa
giải ở cơ sở trong tỉnh đều được thành lập theo địa bàn thôn, bản, khối phố, có
những thơn, bản, khối phố q đơng số hộ dân (hơn 400 hộ), có những thơn ở
trên địa bàn rộng gồm nhiều cụm dân cư cách xa nhau nhưng cũng chỉ thành
lập một Tổ hịa giải, có nhiều thơn, bản, khối phố mới được chia tách nhưng
chưa thành lập được Tổ hòa giải nên chưa giải quyết kịp thời những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân ở cơ sở.
Hoạt động hoà giải cơ sở trong những năm qua đã hướng dẫn, giúp đỡ,
thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với

3


z


nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đồn kết
trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền
thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phịng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, góp phần bảo đảm an ninh trật tự xã hội trên địa bàn. Tuy
nhiên, hoạt động hoà giải trên địa bàn tỉnh đã bộc lộ một số hạn chế đó là:
hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa hiệu quả, chưa gắn với các phong trào, cuộc
vận động tại cộng đồng dân cư như cuộc vận động xây dựng Làng văn hóa,
khu dân cư văn hóa, đặc biệt là cuộc vận động “Tồn dân đồn kết xây dựng
đời sống văn hố ở khu dân cư” nhằm gắn cơng tác hịa giải ở cơ sở với
nhiệm vụ phát triển văn hóa - xã hội của địa phương; kỹ năng hoà giải và kiến
thức pháp luật của đội ngũ làm cơng tác hồ giải khơng đồng đều, cịn hạn
chế nên hoạt động hịa giải kém hiệu quả, có những nơi để vụ việc kéo dài; có
trường hợp tiến hành hịa giải cả những việc pháp luật quy định khơng được
phép hịa giải.
Đặc biệt, tại Thanh Hóa khi nghiên cứu về cơng tác hịa giải ở cơ sở
chúng tơi nhận thấy mặc dù Thanh Hóa đã có những quy định rất quan
trọng tạo đà cho hoạt động hòa giải ở cơ sở tuy nhiên cơ chế, chính sách
đối với những cán bộ làm cơng tác hòa giải còn nhiều bất cập. Vất vả là
vậy, nhưng chế độ đãi ngộ đối với những cán bộ làm công tác này ở cơ sở
thường rất thấp. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hòa giải cũng chưa được
quan tâm đúng mức. Trong quá trình "hành nghề", những cán bộ làm cơng
tác hịa giải chưa thường xun được tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng
một cách bài bản, chuyên nghiệp, có nơi hàng năm chỉ tổ chức tập huấn
được cho đại diện tổ hòa giải.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên chọn đề tài: “Hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn thạc sĩ.


4

z


2. Tình hình nghiên cứu
Chủ đề về hịa giải ở cơ sở là chủ đề khơng hồn tồn mới, nhưng là vấn
đề ít được quan tâm nghiên cứu ở nước ta, tuy vậy cần kể đến một số cơng
trình nghiên cứu đã được công bố ở trong nước như: Ngô Thị Thu Huyền
nghiên cứu về “tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phƣơng hƣớng hoàn
thiện” [27], Nguyễn Đình Hảo nghiên cứu “Cơng tác hồ giải ở cơ sở” [23],
Nguyễn Phi Long nghiên cứu “Hoà giải ở cơ sở - qua thực tiễn huyện Gia
Lâm” [29]..
Tuy nhiên đề tài “hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hố” chúng
tơi muốn khai thác một hướng mới về các hình thức hồ giải trên cơ sở so
sánh, đối chiếu hình thức hồ giải ở cơ sở với hình thức hồ giải khác như hồ
giải tại Tịa án theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, Hôn nhân và gia
đình, hịa giải các tranh chấp lao động, hịa giải bằng trọng tài thương mại.
Bên cạnh đó chúng tơi cịn muốn so sánh với pháp luật của Singapore và
CHND Trung Hoa về hồ giải, lý giải vì sao chúng ta khơng chọn mơ hình
khơng giống như Sigapore hay CHND Trung Hoa.
Về mặt thực tiễn, qua nghiên cứu, tìm hiểu chúng tơi nhận thấy hồ giải
ở Thanh Hố có trong những năm qua đã triển khai tương đối tốt, có những
nét đặc trưng riêng. Tuy nhiên chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về đề
tài này. Vì vậy chúng tôi mong muốn và kỳ vọng trên cơ sở những những con
số liên quan đến cơng tác hồ giải ở cơ sở tại Thanh Hoá qua các thời kỳ
chúng tôi đánh giá được sự nổi trội của công tác hồ giải tại Thanh Hố. Và
tin rằng nếu Thanh Hố áp dụng pháp luật tốt thì sẽ tạo ra bước phát triển mới
trong cơng tác hồ giải ở cơ sở.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu
Phân tích, đánh giá cơng tác hịa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh

5

z


Hóa, đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, góp phần giúp các đối tượng hồ giải trong giải
quyết những xung đột, tranh chấp, vi phạm pháp luật nhỏ trên địa bàn dân cư,
góp phần bảo đảm trật tự trị an, an toàn xã hội, củng cố tình đồn kết của
nhân dân, phịng ngừa những vi phạm pháp luật có thể xảy ra.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về hòa giải, đặc điểm hòa giải ở cơ sở, nội dung
hòa giải; nội dung pháp luật về hịa giải ở cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh
Thanh Hóa qua khảo sát thực tiễn.
- Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
hịa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh
Thanh Hóa từ năm 1998 đến 2013, trong đó tập trung đánh giá thực trạng hoạt
động hoà giải từ năm 2011-2013.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Đồng thời luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát, thống kê, tổng kết thực tiễn trong quá
trình giải quyết các vấn đề đặt ra của đề tài và kế thừa những kết quả nghiên
cứu có liên quan đến đề tài của các tác giả trước đó.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp về hoạt động hòa giải ở cơ sở trên

6

z


địa bàn Tỉnh Thanh Hóa, cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho cơng tác
hịa giải ở cơ sở trên địa bàn Tỉnh Thanh Hóa.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học
luật, hành chính, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giải dạy, nghiên
cứu khoa học.
Từ những đề xuất của luận văn có thể là những gợi ý để tiếp tục hồn
thiện pháp luật về hịa giải ở cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về hòa giải ở cơ sở
Chƣơng 2: Thực trạng hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
Chƣơng 3: Phương hướng, giải pháp đảm bảo hòa giải ở cơ sở

7

z



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ
VỀ HỊA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm hịa giải ở cơ sở, phân biệt hòa giải ở cơ
sở với các loại hình hịa giải khác
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hồ giải
Trong khoa học có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải, theo Hiệp
hội Hoa kỳ: “Hòa giải là một q trình, trong đó bên thứ 3 giúp 2 bên tranh
chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ” [25, tr.3]; Từ điển
Luật học Black định nghĩa:
Hòa giải (conciliation) là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa
giải; hành vi của người thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh
chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp hoặc giải quyết tranh chấp
(GQTC) giữa họ. Việc GQTC thơng qua người trung gian hịa giải
(bên trung lập) [65, tr.307].
Như vậy với quan niệm nay vai trò chủ yếu của người hịa giải khơng
tham gia vào q trình hoặc việc thỏa thuận các giải pháp hịa giải mà chủ yếu
đóng vai trị là người trung gian cho hai bên tranh chấp tự nguyện ngồi lại với
nhau, tạo điều kiện cho họ duy trì đối thoại và thương lượng giải quyết mâu
thuẫn, bất đồng.
Theo từ điển Tiếng Việt “hoà giải là việc thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thoả” [64, tr.30]; Theo từ
điển Luật học , Nxb Từ điể n Bách khoa & Nxb Tư pháp “Hoà giải: Thuyết
phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thoả .
Thơng thƣờng, việc hồ giải đƣợc tiến hành sau khi thƣơng lƣợng (khiếu nại)
giữa các bên đã không đạt đƣợc kết quả” [63, tr.365]

8

z



Như vậy, có thể hiểu hồ giải là một phương thức giải quyết tranh chấp
với sự giúp đỡ của một bên thứ ba, các bên tranh chấp tự nguyện thoả thuận
giải quyết các xung đột, tranh chấp phù hợp với quy định của pháp luật,
truyền thống đạo đức xã hội.
Với quan niệm như vậy, hịa giải có một số đặc điểm sau đây:
Một là, hòa giải là một một phương thức giải quyết mẫu thuẫn, tranh
chấp, vi phạm pháp luật.
Hai là, chủ thể trung tâm của hòa giải là bên trung gian giúp cho các
bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về mẫu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp
luật. Điều này làm cho hịa giải có sự khác biệt với thương lượng. Người
trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do
các bên thỏa thuận lựa chọn. Người này phải có vị trí độc lập với các bên và
hồn tồn khơng có lợi ích liên quan đến tranh chấp. Bên thứ ba làm trung
gian không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và khơng có quyền đưa
ra phán quyết.
Ba là, sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải quyết các tranh chấp phải do
chính các bên tranh chấp quyết định. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của
quá trình hịa giải khơng có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc
vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hoà giải ở cơ sở
1.1.2.1. Khái niệm hoà giải ở cơ sở
Hiện nay Pháp luật một quốc gia rất đề cao hòa giải ở cơ sở, nhưng tên
gọi của các tổ chức đó được sử dụng rất khác nhau:
Cộng hịa nhân dân Trung hoa gọi với tên là “Hòa giải nhân dân” theo
đó “hịa giải nhân dân là q trình một Ủy ban nhân dân thuyết phục các bên
liên quan đến một mâu thuẫn đạt đƣợc một thỏa thuận hòa giải trên cơ sở
thƣơng lƣợng bình đẳng và tự do ý chí và mang lại một kết quả là giải quyết
mâu thuẫn giữa các bên” [59, tr.2].


9

z


Sigapore lại gọi là hịa giải cộng đồng, theo đó:
Hịa giải bao gồm việc thực hiện bất cứ hành động nào nhằm
xúc tiến việc trao đổi và giải quyết tranh chấp; tập hợp các bên tranh
chấp lại với nhau vì mục đích nêu trên, theo yêu cầu của một bên
tranh chấp hoặc do Giám đốc chủ động tiến hành và tiếp tục giải quyết
các vấn đề trọng tâm của việc trao đổi và giải quyết đó [32, tr.1].
Tại Việt Nam nhằm đề cao hoạt động nơi cơ sở, nơi cộng đồng dân cư,
làng xóm với lối sống tình làng nghĩa xóm nên gọi với tên là hịa giải ở cơ sở.
Hoạt động hòa giải ở Việt nam xuất phát từ thực trạng tại cơ sở, hiện nay yêu
cầu tự quản trong nhân dân được đặt lên hàng đầu nên hoạt động hịa giải ở cơ
sở khơng tổ chức theo mơ hình có q trình tham gia của Ủy ban nhân nhân
hoặc thơng qua Trung tâm hịa giải như ở một số nước ở trên. Tại khoản 1,
Điều 2, Luật Hòa giải ở cơ sở của nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam quy định
hòa giải ở cơ sở “là việc hòa giải viên hƣớng dẫn, giúp đỡ các bên đạt đƣợc
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi
phạm pháp luật” [44].
1.1.2.2. Đặc điểm hoà giải ở cơ sở
Hoạt động hòa giải ở cơ sở qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn thi hành
pháp luật tại cơ sở trong thời gian qua có thể thấy hịa giải ở cơ sở có một số
đặc điểm sau:
- Về bản chất của q trình hịa giải: Hịa giải cơ sở là việc giải quyết
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật giữa các bên về quyền và lợi ích.
Trong hoạt động hoà giải, các bên tranh chấp cần đến một bên thứ ba (sau đây
gọi là Hoà giải viên) làm trung gian, giúp họ đạt được một thỏa thuận, giải

quyết được những bất đồng. Trong q trình hồ giải, Hồ giải viên có vai trị
trung lập, khách quan, vận dụng pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục tập
quán tốt đẹp của nhân dân ta, để giải thích, hướng dẫn, giúp đỡ và thuyết phục

10

z


các bên tranh chấp tự nguyện giải quyết với nhau những vi phạm pháp luật và
tranh chấp nhỏ, xoá bỏ mâu thuẫn, bất đồng và đạt được thoả thuận phù hợp
với pháp luật và đạo đức xã hội, nhằm giữ gìn sự đồn kết trong nội bộ nhân
dân, góp phần phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự, an tồn xã hội trong cộng đồng dân cư. Các thỏa thuận, cam
kết từ kết quả của q trình hịa giải khơng có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi
hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên.
- Về chủ thể thực hiện hịa giải ở cơ sở: là hồ giải viên tại các tổ hoà
giải. Tổ hoà giải hiện nay khơng phải là một tổ chức chính quyền mà là một tổ
chức quần chúng của nhân dân, do nhân dân cử ra và được thành lập theo đơn
vị dân cư ở cơ sở: xóm, thơn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư. Việc hoà
giải, giải quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân do
hoà giải viên các tổ hoà giải thực hiện. Và hịa giải viên (hoặc cũng có thể là
một cá nhân có uy tín, có sức thuyết phục, cảm hóa các bên tranh chấp) trực
tiếp tham gia trong quan hệ hịa giải, nhưng có vai trị trung lập và độc lập với
các bên tranh chấp. Hồ giải viên chỉ có quyền giải thích, thuyết phục, cảm
hóa hai bên tranh chấp thỏa thuận, tự nguyện chấm dứt tranh chấp, mâu thuẫn
hay xung đột mà không được áp đặt hoặc cam thiệp vào nội dung thỏa thuận
của các bên.
- Nội dung thỏa thuận của các bên tranh chấp bảo đảm phù hợp với
chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt

đẹp của nhân dân; Dù cho thỏa thuận đó thể hiện ý chí tự nguyện của các bên
tranh chấp, nhưng nội dung của thỏa thuận đó khơng phù hợp với quy định
của pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì sẽ khơng được cơng nhận.
- Về chủ thể của quan hệ hoà giải ở cơ sở: Hòa giải trước hết là sự thỏa
thuận, thể hiện ý chí và quyền định đoạt của chính các bên tranh chấp. Hay
nói cách khác, chủ thể của quan hệ hịa giải chính là các bên tranh chấp vi họ

11

z


chính là chủ thể của các tranh chấp, các mâu thuẫn, nên họ có tồn quyền định
đoạt để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó, chứ khơng phải là ai khác.
Đây có thể nói là một trong những đặc điểm nổi trội của hoạt động hòa giải ở
cơ sở, đặc biệt đề cao quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong việc
giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật.
- Về nguyên tắc hoà giải ở cơ sở: Điều 4, Luật Hòa giải ở cơ sở đã đưa ra
6 nguyên tắc cơ bản trong hoà giải, trong đó một trong những nguyên tắc nền
tảng, quan trọng nhất trong hoạt động hịa giải là “tơn trọng sự tự nguyện của
các bên; không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở” [44]. Nguyên
tắc này nhằm bảo đảm quyền tự nguyện tham gia, tự nguyện quyết định và tự
nguyện chấm dứt các mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên. Do đó, việc hịa giải
phải thật sự tôn trọng sự tự nguyện của các bên, phù hợp với quy định của pháp
luật và đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân, người thực hiện hịa
giải khơng được can thiệp vào nội dung thỏa thuận của các bên.
- Về phương pháp hòa giải hoà giải ở cơ sở: Trên cơ sở pháp luật, đạo
đức xã hội và bằng uy tín của mình, Hịa giải viên giải thích, thuyết phục,
giáo dục, cảm hố, động viên các bên tranh chấp tự hoà giải, đi đến thoả
thuận giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn và những bất đồng với phương châm

kiên trì và bền bỉ khơng có giới hạn.
- Về mục đích của hồ giải ở cơ sở là hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp ngay từ ban đầu nhằm phát huy tinh thần
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dịng
họ và cộng đồng dân cư; xây dựng tình làng, nghĩa xóm, giữ gìn đồn kết
trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền
thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, xã hội.

12

z


Như vậy, hịa giải ở cơ sở là q trình các bên tranh chấp thỏa thuận, tự
nguyện giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật. Trong
quá trình hòa giải cần đến một bên thứ ba là hòa giải viên với vai trò trung
lập, làm trung gian, hướng dẫn, giúp đỡ các bên giải quyết được những bất
đồng và đạt được một thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu
thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, t-ơng thân,t-ơng ái, giữ gìn đạo đức, tình làng nghĩa
xóm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xà hội trong cộng đồng dân c-,
chủ động phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.
T nhng phõn tớch nờu trờn có thể hiểu hồ giải ở cơ sở là việc Hoà
giải viên vận dụng pháp luật, đạo đức xã hội để giải thích, hướng dẫn, thuyết
phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
những mâu thuẫn và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đồn kết trong nội bộ nhân
dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm an ninh chính trị, trật

tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư.
1.1.3. Phân biệt hịa giải ở cơ sở với các loại hình hòa giải khác
Xuất phát từ đời sống kinh tế - xã hội, đặc điểm của quan hệ trong đời
sống xã hội, dân sự, hiện nay ở nước ta có nhiều hình thức hịa giải như: hịa
giải tại Tịa án theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, Hôn nhân và gia
đình; hịa giải các tranh chấp lao động; hòa giải bằng trọng tài thương mại; Hòa
giải các tranh chấp vi phạm tại công đồng dân cư thông qua hòa giải ở cơ sở.
1.1.3.1. Hòa giải ở cơ sở với hòa giải tại Tòa án theo quy định của
pháp luật Tố tụng dân sự, Hơn nhân và gia đình
- Hoạt động hịa giải ở cơ sở khơng phải là thủ tục bắt buộc, mà là hoạt
động Nhà nước và xã hội khuyến khích. Hiến pháp năm 1992: “Ở cơ sở,
thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi
phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp
luật” [34, Điều 127], Luật Hơn nhân và gia đình 2000: “Nhà nƣớc và xã hội

13

z


khuyến khích việc hịa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có u cầu ly hơn. Việc hịa
giải ở cơ sở đƣợc thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở
[36, Điều 86]. Như vậy hịa giải ở cơ sở khơng phải là thủ tục bắt buộc (trừ
một số trường hợp), Nhà nước chỉ khuyến khích nhằm huy động sự tham gia
tích cực, chủ động, sáng tạo của cộng đồng, các tổ chức quần chúng ở cơ sở
và các thiết chế tự quản của người dân ở cơ sở. Tuy nhiên không thể phủ nhận
vai trò to lớn của hoạt động này. Còn hòa giải tại Tòa án là một thủ tục bắt
buộc theo pháp luật tố tụng dân sự, hơn nhân và gia đình. Đây được coi như
giai đoạn “tiền xét xử”. Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 quy định:
“trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án phải tiến hành hòa giải

để các đƣơng sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án” [39] (trừ
những vụ án khơng được hịa giải hoặc khơng tiến hành hòa giải theo quy
định tại Điều 181, 182 của Bộ luật Tố tụng dân sự). Tòa án với chức năng là
cơ quan công quyền, mang quyền lực nhà nước, nên hịa giải của Tịa án
mang tính pháp lý, có tính bắt buộc.
- Hịa giải ở cơ sở nổi lên vai trò của bên thứ ba tham gia vào việc hòa
giải ở cơ sở là hòa giải viên. Hòa giải viên tiến hành hịa giải phải khách
quan, cơng minh, đảm bảo giải quyết tranh chấp một cách công bằng, không
thiên vị, không áp đặt các bên đương sự mà để các bên tự nguyện đưa ra các
cơ sở, dẫn chứng thực tiễn để chứng minh cho quyền và nghĩa vụ của mình, tự
do thảo luận, đề xuất giải pháp, thỏa thuận. Hòa giải ở cơ sở với hòa giải viên
là những người gần gũi, gắn bó với con người nơi cộng đồng dân cư nên dễ
nắm bắt được tính cách, các mối quan hệ nơi thơn xóm vốn là ngun nhân
gây mâu thuẫn, đây là cơ sở để hòa giải viên đưa ra những lời giải thích, phân
tích “điều hơn, lẽ thiệt” hoặc phân tích sự hợp lý, đưa ra lời tư vấn để các bên
đương sự suy nghĩ tự quyết định việc hố giải những bất đồng, mâu thuẫn.
Cịn hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự, Hôn nhân

14

z


và gia đình thì vai trị của bên thứ ba lại là thẩm phán thuộc cơ quan tài phán
mang quyền lực nhà nước tiến hành. Thẩm phán chủ trì hịa giải chủ yếu phổ
biến cho các bên đương sự các quy định pháp luật có liên quan đến việc giải
quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu
quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án trừ những trường hợp pháp luật quy định khơng được
hịa giải. Khi khơng hịa giải được hoặc hịa giải khơng thành Tịa án mới đưa

vụ án ra xét xử. Trường hợp các đương sự thống nhất thỏa thuận với nhau về
vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Tịa án lập biên bản hòa giải thành. Hết
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hịa giải thành mà khơng có đương
sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì về ngun tắc chung thẩm
phán chủ trì phiên hịa giải ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Nếu vì trở ngại khách quan mà Thẩm phán khơng ra quyết định
được, thì Chánh án Tịa án phân công một Thẩm phán khác ra Quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp
luật do vậy tính bắt buộc thi hành của hoà giải tại Toà án trong các vụ án dân
sự, hơn nhân gia đình cao hơn hồ giải ở cơ sở.
- Hịa giải ở cơ sở nhằm xóa tan tâm lý “thắng - thua” của các bên
đương sự và thay vào đó là khuyến khích tinh thần “đơi bên cùng có lợi”.
Trên thực tế do sự thiếu kiềm chế hoặc chỉ nhận thấy lợi ích trước mắt mà nảy
sinh bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên và khi phát sinh mâu thuẫn do tâm lý sĩ
diện, hiếu thắng mà các bên tranh chấp có thái độ căng thẳng , cớ chấp. Hồ
giải viên phải kịp thời nắm bắt được tâm lý này của các bên đương sự để đưa
ra những lời khuyên nhằm giúp làm dịu sự căng thẳng, tính ích kỷ hoặc tâm lý
“thắng - thua”. Cịn Hịa giải ở Tịa án nó lại mang ý nghĩa là cơ hội cuối
cùng để các bên tự ngồi lại với nhau trước khi có một phán quyết, do vậy yếu
tố “có tình” giữa các bên khơng cịn đặt ra mà chủ yếu là “cái lý”.

15

z


1.1.3.2. Hòa giải ở cơ sở với Hòa giải các tranh chấp lao động
Hòa giải tranh chấp lao động là một thủ tục bắt buộc trước khi đưa ra
tòa án. Hiện nay, trừ một số trường hợp do luật định, phần lớn các vụ tranh
chấp lao động đều phải trải qua thủ tục hịa giải trước khi có thể đưa ra giải

quyết tại tòa án. Hòa giải các tranh chấp lao động được tiến hành theo trình
tự, thủ tục, phương thức giải quyết tranh chấp lao động. Do vậy rất dễ phân
biệt, nhận diện hòa giải ở cơ sở và hòa giải các tranh chấp lao động:
- Về cơ sở pháp lý: Hòa giải ở cơ sở tuân theo Luật hòa giải ở cơ sở;
Hòa giải các tranh chấp lao động được quy định rõ ở Bộ luật lao động.
- Hồ giải ở cơ sở khơng chỉ dựa trên quan điểm

, đường lớ i , chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn áp dụng phong tục , tập quán
truyền thố ng , hương ước, quy ước, luật tục của địa phương … Còn hòa giải
các tranh chấp lao động chỉ dựa trên cơ sở chính sách, pháp luật của Nhà
nước về lao động.
- Về phạm vi hòa giải: Phạm vi hòa giải ở cơ sở quy định rõ ở Điều 5,
Nghị định 15/2014/NĐ-CP về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hòa giải ở cơ sở. Theo đó khơng tiến hành hịa giải ở cơ sở đối với
các tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy định của Bộ luật lao động
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Về bên thứ 3 tham gia vào hòa giải: Hòa giải ở cơ sở với vai trò của
hòa giải viên, hòa giải các tranh chấp lao động là sự tham gia của hội đồng
hịa giải lao động cơ sở (chỉ có thẩm quyền hòa giải các tranh chấp lao động
xảy ra tại doanh nghiệp) và hòa giải viên lao động của cơ quan lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) đối với
những nơi khơng có Hội đồng hồ giải lao động cơ sở.
- Về tổ chức: Việc thành lập tổ chức hoà giải ở cơ sở đảm bảo tính
khách quan, cơng bằng hơn so với tổ chức Hội đồng hoà giải lao động cơ sở

16

z



và hoà giải viên lao động cơ sở. Theo Luật Hồ giải ở cơ sở, hịa giải viên
phải “từ chối tiến hành hồ giải nếu bản thân có nghĩa vụ liên quan đến vụ,
việc hịa giải hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể đảm bảo khách quan, công
bằng trong hòa giải” [44, Điều 10, Khoản 3]. Còn điểm a, khoản 1, mục I,
Thông tư số 22/2007/TT-BLĐTBXH ngày 23 tháng 10 năm 2007 của Bộ lao
động – Thương binh và xã hội hướng dẫn tổ chức, hoạt động của Hội đồng
hòa giải lao động cơ sở và hòa giải viên lao động lại quy định như sau:
Hội đồng hoà giải phải được thành lập trong các doanh
nghiệp có cơng đồn cơ sở hoặc Ban chấp hành cơng đồn lâm thời.
Tại các doanh nghiệp này, đại diện của bên người sử dụng lao động
phải chủ động đề xuất với Ban chấp hành cơng đồn về việc thành
lập Hội đồng hồ giải. Căn cứ vào số lượng người lao động, đặc
điểm, quy mô và cơ cấu tổ chức sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp, đại diện của bên người sử dụng lao động thảo luận, thống
nhất với đại diện của bên người lao động là Ban chấp hành cơng
đồn cơ sở hoặc Ban chấp hành cơng đồn lâm thời (sau đây gọi
chung là Ban chấp hành cơng đồn cơ sở) về số lượng thành
viên (kể các thành viên ngoài doanh nghiệp theo quy định tại điểm
b khoản 3 Điều 4 của Nghị định số 133/2007/NĐ-CP) Hội đồng
nhưng khơng ít hơn bốn người và lựa chọn các thành viên của mỗi
bên tham gia Hội đồng, Chủ tịch và Thư ký của Hội đồng [3] .
- Về căn cứ tiến hành hòa giải: Hịa giải ở cơ sở tiến hành khi có 3 căn
cứ sau: Một bên hoặc các bên yêu cầu hòa giải; hòa giải viên chứng kiến hoặc
biết vụ, việc thuộc phạm vi hịa giải; theo phân cơng của tổ trưởng tổ hòa giải
hoặc để nghị của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Cịn hịa giải các
tranh chấp lao động được tiến hành khi có đơn yêu cầu. Như vậy một trong
những đặc điểm nổi trội mang tính nguyên tắc trong hòa giải ở cơ sở là phải


17

z


đảm bảo tính kịp thời. Đây cũng là nguyên nhân vì sao tổ hồ giải ở cơ sở với
tư cách là tổ chức tự quản trong những năm qua đã được duy trì và phát huy
hiệu quả trong cộng đồng dân cư.
- Ngồi ra cịn rất nhiều điểm khác biệt nữa: về thời hạn hòa giải ở cơ
sở và hòa giải tranh chấp lao động, về trình tự hịa giải cũng rất khác biệt
được quy định rõ trong Luật Hòa giải ở cơ sở và Bộ luật Lao động.
- Hòa giải ở cơ sở khơng phát sinh phí tổn. Cịn hịa giải các tranh chấp
có thể phát sinh một số phí tổn nhất định.
1.1.3.3. Hịa giải ở cơ sở với hòa giải bằng trọng tài thƣơng mại
- Hòa giải ở cơ sở thường được tiến hành trước các quá trình tố tụng.
Cịn đối với hịa giải bằng trọng tài, có thể tiến hành hịa giải song song với
q trình tố tụng trọng tài hay Tòa án.
- Hòa giải ở cơ sở áp dụng khi có 3 căn cứ quy định tại Điều 16, Luật
Hòa giải ở cơ sở. Hòa giải bằng trọng tài tiến hành khi trung tâm trọng tài
nhận được thơng báo chấp nhận hồ giải bằng văn bản và tạm ứng phí hồ
giải của bên nhận được u cầu hồ giải.
- Hình thức, phương thức hịa giải ở cơ sở linh hoạt hơn, thủ tục đơn
giản, gọn nhẹ hơn hòa giải bằng trọng tài. Hòa giải bằng trong tài thì mỗi bên
lại có thể chủ động hoặc theo đề nghị của hoà giải viên, gửi cho hoà giải viên
đề xuất về phương án giải quyết tranh chấp sẽ đảm bảo tính khoa học, chặt
chẽ trong q trình hịa giải.
- Về hòa giải viên: Hòa giải ở cơ sở tính thống nhất lựa chọn hịa giải
viên khơng cao bằng hình thức hịa giải bằng trọng tài. Hịa giải viên ở cơ sở
tham gia có thể là người chứng kiến nhưng cũng có thể theo sự phân cơng của
tổ trưởng. Và theo quy định của Luật Hoà giải ở cơ sở, yếu tố lựa chọn hòa

giải viên của các bên tranh chấp ít được đề cập đến. Tuy nhiên hịa giải bằng
trọng tài thì các bên được quyền tự do lựa chọn hoà giải viên theo danh sách
do Trung tâm giới thiệu hoặc người ngồi danh sách đó.

18

z


×