Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.95 KB, 13 trang )


1
Phần mở đầu
1. Mục đích, ý nghĩa của luận án
1.1. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của văn
xuôi quốc ngữ ở Việt Nam đã đánh dấu một bớc ngoặt lớn trong
tiến trình văn học dân tộc. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển
của văn xuôi trong giai đoạn chuyển giao từ loại hình văn hoá trung
đại chịu ảnh hởng vùng Đông á sang loại hình văn hoá hiện đại
mang tính toàn cầu sẽ làm sáng tỏ quy luật vận động của văn học
Việt Nam khi bớc sang thời kỳ hiện đại.
1.2. Tìm hiểu quá trình chuyển đổi loại hình của văn xuôi ở
giai đoạn giao thời, chúng ta sẽ phần nào chỉ ra đợc quy luật vận
động của văn học Việt Nam so với các nớc trong khu vực, qua đó
khẳng định những đóng góp và hạn chế của các tác giả văn học giai
đoạn này cho văn học dân tộc, đồng thời phác thảo đờng hớng
phát triển của văn học hiện đại.
1.3. Cần có một cái nhìn thống nhất xuyên suốt về sự vận
động của văn xuôi quốc ngữ mới có thể nhận ra quá trình phát
triển của văn học Việt Nam dới sự chi phối của những nhân tố
lịch sử, văn hoá, xã hội, con ngời mà không thiên lệch ca ngợi đề
cao công lao của miền Nam hay miền Bắc một cách thiếu căn cứ.
Tìm hiểu sự hình thành và phát triển của văn xuôi quốc ngữ giai
đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn xác lập một
cái nhìn khách quan thống nhất trên cùng tiến trình văn học sử
diện mạo và quá trình vận động của văn học Việt Nam hiện đại
khi hoà nhập vào dòng chảy chung của văn học thế giới.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Vấn đề sự xuất hiện của văn xuôi quốc ngữ khi văn học
Việt Nam bớc sang giai đoạn hiện đại đã đợc một số nhà nghiên
cứu nh: Phạm Quỳnh, Dơng Quảng Hàm, Phong Lê, Vũ Tuấn


Anh quan tâm. Đặc biệt, Trần Đình Hợu và Lê Chí Dũng còn
nhấn mạnh, sự xuất hiện đó làm thay đổi cả bản thân văn học.
Tuy nhiên những nhận định này vẫn mang tính khái quát.

2
2.2. Về mối quan hệ giữa văn xuôi và báo chí, các tác giả Thiếu
Sơn, Vũ Ngọc Phan, Bùi Đức Tịnhđã đề cập tới, nhng chủ yếu
coi báo chí là nơi đăng tải sáng tác. Việc báo chí tác động tới văn
xuôi và kiến tạo một định hớng viết văn khác trớc cha đợc làm
sáng tỏ.
2.3. Những ảnh hởng của văn học phơng Tây, Trung Quốc,
văn học truyền thống dân tộc đối với văn xuôi quốc ngữ cũng đợc
Phan Cự Đệ, Đặng Anh Đào, Nguyễn Khuê chỉ ra. Đặc biệt
J.Schaffer, Thế Uyên, Cao Thị Nh Quỳnh đã có những khảo sát cụ
thể về mối quan hệ giữa truyện thơ dân tộc với những tác phẩm văn
xuôi quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên, ở mỗi loại tác giả,
mỗi vùng miền với những nét văn hoá đặc trng và ở mỗi thời đoạn
lịch sử nhất định, những ảnh hởng này không hoàn toàn nh nhau.
2.4. Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX và những năm đầu
thế kỷ XXI, văn xuôi quốc ngữ giai đoạn giao thời đợc quan tâm
đặc biệt. Nhiều t liệu về tác giả, tác phẩm đợc su tầm, in ấn lại
đã khẳng định những giá trị quan trọng của văn xuôi giai đoạn này.
Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu của: Nguyễn Văn Trung,
Bằng Giang, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Q. Thắng, Trần Hữu Tá, Cao
Xuân Mĩ, Lê Thị Đức Hạnh, Lại Văn Hùng, Vơng Trí NhànTrào
lu phục hng sôi nổi này đã đem lại một ích lợi quan trọng, đó là
nguồn t liệu vốn nằm rải rác trên báo chí và trong các kho sách t
nhân đã đợc tập hợp in ấn lại để đến tay ngời nghiên cứu. Những
thuận lợi đó cho phép chúng ta có thể khảo sát và đánh giá một cách
khách quan những đóng góp và hạn chế của văn xuôi quốc ngữ Việt

Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhng việc làm này
cũng tiềm tàng một nguy cơ: quá đề cao hiện tợng đôi khi dẫn đến
những nhận xét chủ quan. Vì vậy, cần có một cái nhìn khách quan
xuyên suốt về diễn tiến văn xuôi hai miền Nam Bắc để có những
kết luận khoa học về sự hình thành và phát triển của văn xuôi ở
chặng đờng đầu tiên khi chuyển từ trung đại sang hiện đại.

3
2.5. Qua những vấn đề trên chúng tôi nhận thấy: Thứ nhất,
những công trình nghiên cứu của ngời đi trớc cho ta một cái nhìn
tơng đối đầy đủ và khái quát về bộ mặt văn xuôi Việt Nam giai
đoạn giao thời, nhng chủ yếu mang tính định hớng. Vấn đề sự vận
động của văn xuôi quốc ngữ vẫn cha đợc nghiên cứu một cách
thấu đáo. Thứ hai, văn xuôi giai đoạn trớc 1932 đã đợc các nhà
nghiên cứu quan tâm chú ý, nhng vẫn có sự phân biệt giữa hai miền
Nam - Bắc. Trên thực tế, có những vấn đề phải nhìn một cách tổng
thể mới có thể đánh giá khách quan quy luật vận động của văn xuôi
Việt Nam trên chặng đờng gieo mầm và ơm hạt này. Thứ ba, cần
phải đặt văn xuôi giai đoạn này trong tính giao thời và khảo sát ở
diện rộng với nhiều tác giả, nhiều tác phẩm mới có thể phát hiện và
chỉ ra những nét đổi thay trong bản chất mang tính đặc trng loại
hình. Từ đó, chúng ta có những đánh giá đúng đắn về đóng góp cũng
nh hạn chế của văn xuôi giai đoạn này từ khi là mầm mống đến lúc
định hình những khuynh hớng cơ bản.
3. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng chủ yếu của luận án là các sáng tác văn xuôi
bằng chữ quốc ngữ xuất hiện trên văn đàn văn học Việt Nam giai
đoạn trớc 1932 (cụ thể: từ năm 1865 khi xuất hiện Gia Định báo
đến khoảng 1932 khi Tự lực văn đoàn ra đời).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Lý giải những tác động của các nhân tố lịch sử - văn hoá
tới sự chuyển đổi của văn xuôi từ trung đại sang hiện đại.
- Từ thực tế sáng tác và quan niệm của các tác giả giai đoạn
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, luận án phục nguyên lại từng chặng
đờng hình thành và vận động cụ thể của văn xuôi trên cả hai miền
Nam- Bắc trong một cái nhìn đối sánh với giai đoạn trớc và sau đó.
- Khảo sát và chỉ ra những nét biến đổi từ thi pháp truyền
thống kiểu phơng Đông sang mô hình hiện đại phơng Tây qua
một số yếu tố: quan niệm về con ngời, không gian nghệ thuật, thời
gian nghệ thuật.

4
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong luận án này, chúng tôi đã sử dụng chủ yếu một số
phơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: văn học sử, nghiên cứu văn học
từ góc nhìn văn hoá, thi pháp học
6. Đóng góp mới của luận án
Có một cái nhìn toàn diện, hệ thống, khách quan xuyên suốt
về diện mạo văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX ở cả hai miền Bắc và Nam; Chỉ ra quá trình hình
thành và vận động của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam từ những mẩu
tin trên báo chí nhằm thông báo tin tức, nói chuyện có thật đến ý
thức h cấu bày đặt ra những chuyện giống nh thực để viết tiểu
thuyết; Bớc đầu chỉ ra một số đặc điểm của văn xuôi quốc ngữ Việt
Nam ở giai đoạn mới hình thành, đó là: có sự đan xen giữa quan
niệm tả thực và giáo dục đạo lý, văn phong báo chí tác động đến
cách viết văn xuôi, hình thành quan niệm về con ngời cá nhân tồn
tại nh một hữu thể độc lập khác biệt với con ngời bổn phận chức
năng thờng thấy trong văn học truyền thống; Khẳng định sự xuất
hiện và định hình của một số thể văn xuôi nghệ thuật nh ký, truyện

ngắn, tiểu thuyết đợc viết theo xu hớng tả thực của phơng Tây.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (21tr), kết luận (7tr), phụ lục (28tr) và tài
liệu tham khảo (19tr), luận án gồm 3 chơng chính;
Chơng 1 Những biến đổi của đời sống văn hoá - xã hội tác
động tới sự hình thành và phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (39tr).
Chơng 2 Quá trình vận động của văn xuôi quốc ngữ Việt
Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (88tr).
Chơng 3 Những biến đổi về phơng diện nghệ thuật trong văn xuôi
quốc ngữ Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (51tr).


5
Phần Nội dung
Chơng 1
Những biến đổi của đời sống văn hoá - x hội
tác động tới sự hình thnh v phát triển văn
xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX
1.1. Tiềm lực văn hoá mang tính chất vùng, miền
1.1.1. Văn vần quốc ngữ - bớc đệm của văn xuôi quốc ngữ
Nam kỳ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Thể du kí, vè, diễn ca đã xuất hiện rất nhiều trong văn học
quốc ngữ Nam kỳ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những
thể loại văn vần này là bớc đệm của văn xuôi quốc ngữ ở thời kỳ
quá độ chuyển từ văn vần theo truyền thống phơng Đông sang văn
xuôi theo mô hình hiện đại của phơng Tây.
1.1.2. Vai trò của Đông Kinh nghĩa thục và các nhà nho duy
tân trong quá trình tiếp nhận văn học mới ở Bắc kỳ

Đầu thế kỷ XX, bên cạnh chính sách Âu hoá của thực dân còn
có con đờng Âu hoá của các nhà nho yêu nớc. Các nhà nho duy
tân với phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã nỗ lực thay đổi t duy
nhận thức, không ngừng cách tân các thể loại truyền thống, chuẩn
bị sẵn nội lực cần thiết cho nền văn học dân tộc có thể tiếp cận và
bớc vào hiện đại hoá. Đây là một trong những đặc điểm đặc thù
của văn học Việt Nam trên chặng đờng hiện đại hoá.
1.2. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ và vai trò của báo chí trong
việc kiến tạo một định hớng văn xuôi khác trớc
1.2.1. Chữ, văn quốc ngữ trong mối quan hệ với truyền
thống văn học dân tộc
Trong việc đa chữ quốc ngữ gia nhập vào đời sống văn hoá
xã hội, chính tâm lý tiếp nhận của đại đa số ngời dân là một phần
động lực quan trọng để thúc đẩy công cuộc phổ cập chữ quốc ngữ
một cách nhanh chóng trong đời sống xã hội Việt Nam. Trong buổi

6
bình minh của văn học hiện đại Việt Nam, sự ra đời của câu văn
xuôi thờng đợc xem nh một sản phẩm nhập ngoại, nhng theo
chúng tôi, câu văn xuôi nôm na dễ hiểu hình thành là do đợc nuôi
dỡng trực tiếp từ truyền thống văn học Nôm có bề dầy gần mời
thế kỷ của dân tộc chứ không phải chỉ có duy nhất nguồn gốc ảnh
hởng từ văn xuôi Thiên chúa giáo và phơng Tây.
1.2.2. Báo chí là môi trờng xuất hiện, tồn tại và phát triển
của văn xuôi quốc ngữ
Báo chí xuất hiện ở Việt Nam là do ngời Pháp gây dựng, cổ
vũ, sáng lập. Ngay khi ra đời báo chí đã chú ý đến thị hiếu và công
chúng độc giả, tạo ra phơng thức thởng thức văn học khác trớc.
Báo chí không chỉ là nơi đăng tải, quảng bá cho văn xuôi phát triển
mà còn tác động trực tiếp tới cách viết văn xuôi ở giai đoạn đầu mới

hình thành. Ngợc lại văn xuôi cũng có thể tác động tới sự tồn tại
hay phát triển của một tờ báo khi hầu hết các tác phẩm văn xuôi ra
mắt công chúng lần đầu tiên là trên báo chí. Mối quan hệ qua lại
giữa văn học và báo chí đã xuất hiện.
1.3. Sự tác động của văn xuôi dịch từ Trung Quốc và phơng
Tây
1.3.1. Văn xuôi dịch từ Trung Quốc.
Văn xuôi quốc ngữ dịch từ Trung Quốc chủ yếu là tiểu thuyết.
Nguồn dịch thuật này vừa đáp ứng nhu cầu đọc tiểu thuyết nh một
thói quen giải trí thiết yếu của độc giả, đồng thời tạo ảnh hởng và
tác động trực tiếp tới sáng tác của các tác giả giai đoạn này về nhiều
phơng diện nội dung và nghệ thuật.
1.3.2. Văn xuôi dịch từ phơng Tây.
Văn xuôi quốc ngữ dịch từ phơng Tây gồm rất nhiều loại:
luận thuyết, triết học, chính trị, đạo đức, tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch, thơ. Bởi nguồn dịch này không đơn giản chỉ có nhiệm vụ
giải trí mà dịch để kiến tạo thể loại và quan trọng hơn nữa, dịch để

7
bù đắp những thiếu hụt về t tởng một vấn đề rất cấp bách ở buổi
giao thời khi chúng ta tiếp cận với một nền văn hoá có nhiều điểm
khác biệt so với văn hoá truyền thống.
Tiểu kết:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, những tiềm lực văn hoá
xuất hiện trên cả hai miền Nam Bắc đã sẵn sàng chuẩn bị cho sự ra
đời của văn xuôi quốc ngữ hiện đại. Đó là những vận động nội sinh
trong văn mạch truyền thống với sự xuất hiện của văn vần, vè kể sự,
diễn ca ở Nam kỳ tạo bớc đệm đầu tiên cho văn xuôi quốc ngữ. Sự
nỗ lực của các nhà nho trong việc thay đổi t duy nhận thức, cách
tân thể loại ở Bắc kỳ. Những vận động nội sinh đó đã phát triển khi

gặp tác động của những nhân tố mới: sự xuất hiện của chữ quốc ngữ
và báo chí với kỹ thuật in ấn hiện đại, văn xuôi từ Trung Quốc và
phơng Tây tràn sang. Tất cả những yếu tố này là nguồn lực nội sinh
và ngoại nhập quyết định trực tiếp tới sự xuất hiện và phát triển của
văn xuôi quốc ngữ Việt Nam ở chặng đầu phôi thai.
chơng 2
Quá trình vận động của văn xuôi quốc ngữ Việt nam
giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
2.1. Những mầm mống đầu tiên của văn xuôi quốc ngữ xuất
hiện ở Nam kỳ (giai đoạn 1865 1900)
2.1.1. Từ những hạt mầm đầu tiên của văn xuôi quốc
ngữ: những mẩu tin trên Gia Định báo.
Cuối thế kỷ XIX, trên những số Gia Định báo đầu tiên đã xuất
hiện một quan niệm viết văn xuôi khác trớc qua lời mời viết bài và
những mẩu tin, bài tờng thuật kể sự việc có thật xảy ra trong đời
sống hàng ngày đợc đăng khá nhiều trên báo. Nếu nhìn từ góc độ
chuyển đổi loại hình văn học thì sự xuất hiện của văn xuôi quốc ngữ
Việt Nam phải đợc tính từ năm 1865 dới hình thức những mẩu tin
đăng trên Gia Định báo, sớm hơn dấu mốc 1887 với sự ra đời của
Truyện thầy Lazarô Phiền, khi chúng ta nhìn từ góc độ thể loại.
2.1.2. Qua trớc tác của một số tác giả tiên phong ở Nam kỳ

8
Giai đoạn cuối thế kỷ XIX với những ghi chép, su tầm, đặc biệt
là qua các bài ký và truyện ngắn sáng tác bằng văn xuôi quốc ngữ
của các tác giả Trơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng
Quản, Trơng Minh Ký, những dấu hiệu của nền văn học mới bắt
đầu manh nha qua những phơng diện sau:
2.1.2.1. Sử dụng ngôn ngữ nôm na nh lời nói thờng để viết văn xuôi
2.1.2.2. Văn xuôi hớng đến những vấn đề của đời sống thực tại với

những con ngời đời thờng
2.1.2.3. Văn xuôi hớng đến ngời đọc bình dân, bớc đầu chú ý
đến thị hiếu của ngời thởng thức
2.2. Sự trở lại với lối viết truyền thống của văn xuôi quốc ngữ
Nam kỳ dới sự chi phối của truyện Tàu (giai đoạn 1900 1917)
2.2.1. Từ sự nở rộ của phong trào dịch truyện Tàu những
năm đầu thế kỷ XX
Những năm đầu thế kỷ XX, việc dịch tiểu thuyết cổ điển Trung
Hoa đã trở thành phong trào ở Nam kỳ. Hiện tợng này vừa do thị hiếu
của độc giả chi phối đồng thời cũng thể hiện phần nào chính sách văn
hoá của nhà cầm quyền ở thời điểm thực tại. Trớc làn sóng dịch
truyện Tàu phát triển ồ ạt và mạnh mẽ nh vậy, các nhà văn Nam kỳ
đã có ý thức phản ứng lại bằng việc sáng tác truyện trong xứ mình.
2.2.2. Đến chủ trơng dùng tiếng thờng dễ hiểu để viết
truyện trong xứ mình
2.2.2.1. Qua lời thông báo về cuộc thi tiểu thuyết trên báo chí
Năm 1906, báo Nông cổ mín đàm thông báo về cuộc thi Quốc
âm thí cuộc. Trong đó, ban tổ chức đặt ra yêu cầu: không mô phỏng,
sao chép hay lấy tích từ lịch sử mà phải tự đặt ra từ những t liệu
thực tế về nhân vật phong tục trong xứ. Điều này đã khẳng định sự
thay đổi trong quan niệm về văn xuôi, cụ thể là về tiểu thuyết.
2.2.2.2. Qua sáng tác của các tiểu thuyết gia

9
Không chỉ trên báo chí, các văn gia sáng tác ở giai đoạn này
cũng có chung ý tởng phản ứng lại truyện Tàu, chủ trơng viết
truyện lấy chất liệu từ lịch sử Việt Nam hoặc từ đời sống xã hội thực
tế. Dù muốn ly khai với truyện Tàu nhng t duy viết văn theo kiểu
truyền thống vẫn ngự trị trong những ngòi bút văn xuôi này.
2.3. Văn xuôi quốc ngữ Bắc kỳ với xu hớng tả thực và văn xuôi

Nam kỳ với sự lên ngôi của tiểu thuyết (giai đoạn 1917 1932)
2.3.1. Diễn tiến văn xuôi quốc ngữ Bắc kỳ với sự định
hình xu hớng tả thực và các thể loại ký, truyện ngắn, tiểu thuyết.
2.3.1.1.Những nỗ lực thay đổi cách viết truyền thống để tiến tới lối
viết tả thực theo kiểu phơng Tây
a. Quan niệm tả thựcxuất hiện
Qua quan niệm của Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Trọng
Khiêm,tả thực đợc hiểu nh là một lối viết tiểu thuyết du nhập
từ phơng Tây, trong đó tiêu chí quan trọng nhất là tả đúng sự thật,
tả đủ mọi hạng ngời trong xã hội và nhà văn phải có con mắt khách
quan khi đánh giá sự việc. Tuy khái niệm này mới đợc thức nhận ở
cấp độ lí luận (qua các lời bình luận về tiểu thuyết, lời tựa và duy
nhất một chuyên khảo: Bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh), nhng
sự xuất hiện của nó cũng ghi một dấu ấn quan trọng trong văn xuôi
quốc ngữ Việt Nam: hớng đến tả thực. Đây chính là một sự thay
đổi căn bản của văn học dân tộc khi chuyển từ nền văn học vốn chịu
ảnh hởng vùng Đông á gia nhập vào xu hớng chung của văn học
thế giới theo mô hình phơng Tây.
Luận án cũng phân biệt quan niệm về cái thực trong văn xuôi
trung đại và cái thực theo quan niệm hiện đại du nhập từ phơng
Tây đợc các văn gia giai đoạn đầu thế kỷ XX ý thức và sử dụng.
Nh vậy, chuyển từ văn xuôi trung đại sang văn xuôi hiện đại cũng
có nghĩa là chuyển từ lối viết thực lục dựa sử sang lối viết ghi
chép sự thực kiểu tin tức thời sự của báo chí. Và kiểu tác giả cũng

10
chuyển từ mô hình nhà văn nhà sử học sang nhà văn nhà báo.
Tuy nhiên, qua khảo sát trên cứ liệu văn xuôi Bắc kỳ giai đoạn 1917
1932, chúng tôi nhận thấy quan niệm về cái thực của các nhà văn
giai đoạn này cha hoàn toàn mang tính khách quan. Bởi các văn gia

đang theo đuổi một mục đích cao cả: kể chuyện có thật trong thực tế
để treo gơng giáo dục. Sự thực khách quan đã đợc lọc qua lăng
kính chủ quan của những nhà văn kiêm giáo dục đạo lý.
b. Sức ì của quan niệm văn chơng giáo dục luân lý"
Trên con đờng tiến tới quan niệm văn xuôi phản ánh hiện
thực, văn xuôi quốc ngữ Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX
vẫn chịu một sức ì khá lớn của quan niệm văn dĩ tải đạo. Trong
giai đoạn giao thời, văn xuôi quốc ngữ vẫn tồn tại đan xen quan
niệm tả thực và quan niệm văn chơng mang tính giáo dục đạo lý.
2.3.1.2. Sự định hình các thể loại: ký, truyện ngắn, tiểu thuyết hiện
đại
a. Thể loại ký. ở giai đoạn đầu mới hình thành, trong văn xuôi quốc
ngữ Bắc kỳ, ký là thể loại xuất hiện sớm nhất và nhiều nhất. Thể ký
giai đoạn này chịu ảnh hởng nhiều của văn xuôi trung đại, có
nguồn gốc từ quá khứ nhng đã mang những đặc tính của văn xuôi
phơng Tây, hớng nhiều về tả thực.
b. Thể loại truyện ngắn. Từ Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đến
Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn hiện đại Việt Nam đã tiến những
bớc chững chạc về mặt nghệ thuật và dự báo sự xuất hiện một
khuynh hớng cơ bản của văn học Việt Nam, đó là khuynh hớng
hiện thực phê phán.
c. Thể loại tiểu thuyết. Tiểu thuyết quốc ngữ đã xuất hiện một số xu
hớng ở Bắc kỳ giai đoạn 1917 1932: tiểu thuyết lãng mạn (Tố
Tâm), tiểu thuyết phản ánh toàn cảnh (Cuộc tang thơng, Kim Anh
lệ sử, Mồ cô Phợng), tiểu thuyết lịch sử , tiểu thuyết chính trị.

11
2.3.2. Văn xuôi Nam kỳ nở rộ với sự lên ngôi của tiểu
thuyết
2.3.2.1. Sơ lợc về diện mạo chung của văn xuôi Nam kỳ

Văn xuôi Nam kỳ giai đoạn 1917 1932 đã tạo đợc một môi
trờng sôi động với sự lên ngôi của tiểu thuyết ớc khoảng hơn 500
tác phẩm, gồm nhiều loại: tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết trinh thám,
võ hiệp kỳ tình, tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết đạo lý xã hội.
Theo chúng tôi có sự bùng nổ về số lợng tiểu thuyết Nam kỳ giai
đoạn này là do đáp ứng đời sống đô thị có nhu cầu thởng thức văn
nghệ nh một món giải trí, đồng thời điều này cũng thể hiện sự ảnh
hởng giao thoa của những luồng văn học từ phơng Tây và Trung
Quốc nhằm tạo ra nhiều khuôn mẫu để ngời sáng tác mô phỏng,
học theo.
2.3.2.2. Về truyện ngắn
So với tiểu thuyết, truyện ngắn ở Nam kỳ giai đoạn này ít
thành tựu hơn nhng cũng khá phong phú về đề tài. Tiêu biểu là
truyện ngắn của Trần Quang Nghiệp.
2.3.2.3. Về tiểu thuyết.
a.Tiểu thuyết lịch sử thời kỳ này mang tính dân tộc trong nội dung
biểu hiện và ít nhiều mang tính cách tân về hình thức thể hiện.
b.Tiểu thuyết phản ánh truyện có thực trong xã hội cũng đợc các
tác giả Nam kỳ quan tâm. Nhân vật nhiều khi là những nguyên mẫu
lấy từ đời thực.
c. Loại tiểu thuyết trinh thám, võ hiệp kỳ tình, phiêu lu mạo hiểm
xuất hiện khá phổ biến ở Nam kỳ giai đoạn này thể hiện sự du nhập
ảnh hởng của tiểu thuyết phơng Tây.
d. Tạo ra lực hút mạnh hơn cả và chiếm xu hớng áp đảo trong văn
xuôi Nam kỳ giai đoạn 1917 1932 là những tiểu thuyết đề cao đạo
lý và phản ánh hiện thực. Một trong những đóng góp quan trọng của
tiểu loại này là mở rộng địa bàn và đối tợng phản ánh sang cả nông

12
thôn. Đây là điểm khác so với văn xuôi Bắc kỳ giai đoạn này vốn chỉ

chú ý đến xã hội đô thị. Hồ Biểu Chánh là một đại diện tiêu biểu.
Tiểu kết
: Văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đã nhen nhóm mầm mống
ngay từ cuối thế kỷ XIX trên Gia Định báo và ở một số trớc tác của
các tác giả tiên phong Nam kỳ. Nhng dòng chảy tiến đến hiện thực
của văn xuôi Nam kỳ cuối thế kỷ XIX không đợc tiếp tục phát triển
ở giai đoạn 1900 1917 mà lại đợc tiếp nối ở Bắc kỳ những năm
1917 1932. Tiến trình này của văn xuôi đã đợc chúng tôi khảo sát
qua báo chí, qua quan niệm và những sáng tác cụ thể theo những
bớc đi của lịch sử. Mặc dù hớng theo phơng pháp tả thực của
phơng Tây là cái đích mà các tác giả muốn vơn tới nhng họ vẫn
bị chi phối từ sức ì của truyền thống, tạo ra đặc trng riêng của văn
xuôi giai đoạn này: đan xen giữa tả thực và giáo dục đạo lý. Những
thể loại ký, truyện ngắn và đặc biệt là tiểu thuyết đã hình thành ở
Bắc kỳ và các thể tiểu thuyết có kết cấu theo kiểu truyện Tàu và các
tác phẩm phiêu lu phơng Tây rất thịnh hành ở Nam kỳ.
Chơng 3
Những biến đổi về phơng diện nghệ thuật của
văn xuôI quốc ngữ Việt nam giai đoạn cuối
thế kỷ xix đầu thế kỷ xx
3.1. Từ con ngời phận vị chức năng đến con ngời cá nhân tồn
tại độc lập nh một hữu thể
3.1.1. Những biến đổi trong mô típ con ngời phận vị chức năng
3.1.1.1. Trong văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, nhiều tác giả vẫn thể hiện thái độ của mình một cách
khá rõ ràng đối với hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Sự
thao túng mang tính chủ quan này thờng đợc biểu hiện ở những
phơng diện sau: ngời kể chuyện đứng ngoài để bình phẩm vấn đề;
lời bình phẩm, cảm thán của tác giả xuất hiện xen kẽ trong lời miêu
tả nhân vật và việc đặt tên nhân vật có mục đích.



13
3.1.1.2. Nhân vật chính diện và phản diện đợc phân biệt đối lập
nhau với những tiêu chí rất rõ ràng. Nhân vật chính diện là những
ngời có nghĩa khí đạo đức, thuỷ chung nhân hậu, có chí làm giầu,
nỗ lực học hành. Nhân vật phản diện là kẻ tham tiền bạc, phụ nhân
nghĩa, bất chấp đạo lý, cơng thờng.
a. Mô típ nhân vật hành hiệp trợng nghĩa
b. Mô típ những ngời phụ nữ đảm đang hiếu hạnh
c. Mô típ nhân vật vô đạo, bất nhân
3.1.2. Sự định hình những mô típ con ngời cá nhân tồn tại
độc lập nh một hữu thể
3.1.2.1. Mô típ con ngời cá nhân với sự tự vấn của lơng tâm
3.1.2.2. Mô típ con ngời cá nhân với những cảm xúc yêu đơng,
ghen tuông
a. Yêu để hởng thụ cảm xúc yêu đơng.
b. Mô típ con ngời cá nhân ích kỷ trong tình yêu.
3.1.2.3. Mô típ con ngời cá nhân thích hởng thụ, ăn ngon, mặc diện.
3.1.2.4. Mô típ con ngời cá nhân hám danh
Trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai đoạn trớc 1932,
môtíp con ngời chức năng phận vị vẫn chiếm đại đa số tuy đã có
những biến đổi nhất định trong nội hàm, môtíp con ngời cá nhân đã
xuất hiện nhng cha phổ biến. Dù tách bạch quan niệm về con
ngời thành hai xu hớng nhng chúng ta phải thừa nhận rằng, nhân
vật tiêu biểu ở giai đoạn này luôn có sự lồng ghép, đan cài, giao thoa
giữa con ngời chức năng phận vị và con ngời cá nhân. Và ở những
nhân vật nh thế, xu hớng con ngời phận vị chức năng luôn đợc
xây dựng có uy thế hơn, mạnh mẽ hơn, áp đảo con ngời cá nhân.
Đây là quan niệm rất khác so với quan niệm về con ngời trong văn

xuôi giai đoạn trớc và sau đó.
3.2. Từ không gian thiên nhiên mang màu sắc tâm linh đến
không gian xã hội đang bị đô thị hoá

14
3.2.1. Không gian thiên nhiên mang màu sắc tâm linh
ở giai đoạn này, trong văn xuôi xuất hiện không gian thiên
nhiên tác động tiêu cực đến nhân vật và loại không gian thiên nhiên
tác động tích cực đến nhân vật. Đây là quan niệm kế thừa truyền
thống về sự đồng cảm giữa thiên nhiên và con ngời.
3.2.2. Không gian x hội đang bị đô thị hoá
3.2.2.1.Không gian đô thị. Không gian đô thị xô bồ và náo nhiệt vừa
là nơi trau dồi tri thức, tiếp cận văn minh khoa học hiện đại đồng
thời cũng là nơi hẹn hò của các cặp tình nhân, nơi cạm bẫy sản sinh
những thói h tật xấu
3.2.2.2. Không gian gia đình. Trong văn xuôi giai đoạn này phổ biến
và tiêu biểu là không gian gia đình đang bị tha hoá. Gia đình không
còn là nơi đầm ấm, yên vui, sum họp nữa mà đang bị bào mòn, huỷ
hoại bởi thị dục cá nhân chi phối.
3.2.3. Một số loại không gian khác
Không gian mộng ảo ngoài cõi thực. Không gian đối lập tơng phản
Không gian liên thông mở ra giữa các vùng miền và quốc gia.
3.3. Từ thời gian lịch sử đến thời gian cá nhân đậm tính chủ
quan
3.3.1. Thời gian lịch sử
Đây là kiểu thời gian phổ biến trong văn học trung đại.
Trong văn xuôi giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, loại thời
gian nghệ thuật này vẫn đợc duy trì. Tuy nhiên, thời gian gắn với
các sự kiện lịch sử mờ nhạt và nổi lên là thời gian tiểu sử nhân vật
(Truyện thày Lazarô Phiền là một dẫn chứng tiêu biểu).

3.3.2. Thời gian cá nhân đậm tính chủ quan
3.3.2.1. Thời gian tâm trạng
3.3.2.2. Thời gian hò hẹn gặp gỡ bạn tình
3.3.2.3. Thời gian hồi tởng về thời xuân sắc

15
Trong văn xuôi giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
cách miêu tả thời gian nghệ thuật vừa đợc kế thừa từ truyền thống
văn xuôi thời kỳ trung đại đồng thời đã có những cải biến và xuất
hiện không ít những cách quan niệm mới về thời gian. Điểm khác
biệt với quan niệm về thời gian ở văn học trung đại là sự cảm nhận
thời gian đậm tính cá nhân đợc các văn gia đặc biệt chú ý miêu tả.
Tiểu kết chơng 3.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong văn
xuôi quốc ngữ, quan niệm về con ngời có sự giao thoa giữa xu
hớng tả thần truyền thống và xu hớng tả thực của phơng
Tây. Con ngời theo tiêu chí đạo đức với những nhân vật chính diện
hành hiệp trợng nghĩa, hiếu hạnh bổn phận và đối lập với nó là
những nhân vật vô đạo bất nhân vẫn còn tồn tại nh một bớc quá
độ của t duy truyền thống. Đáng chú ý là sự xuất hiện của những
con ngời đợc miêu tả từ góc độ đời thờng trong văn xuôi giai
đoạn này. Đây là một bớc tiến về thể loại của văn xuôi quốc ngữ
Việt Nam khi đa văn học dân tộc gia nhập vào quỹ đạo của văn học
thế giới lấy tiêu chí tả thực làm căn bản. Cùng với con ngời là
không gian hoạt động và tồn tại của họ, tất yếu đan xen giữa không
gian truyền thống quen thuộc đã từng xuất hiện và không gian mới
chỉ có ở thời hiện đại. Và ngay cả không gian truyền thống cũng
không hoàn toàn nh cũ mà đã có sự đổi thay khác trớc. Thời gian
nghệ thuật gắn chặt với quan niệm của nhân vật đã xuất hiện bên
cạnh thời gian lịch sử từng phổ biến trong văn xuôi truyền thống.



Phần kết luận
1. Văn học chuyển từ trung đại sang hiện đại là một quy luật
tất yếu khách quan đối với đời sống văn hoá xã hội Việt Nam giai
đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhng ở Việt Nam, quá trình
này lại mang tính đặc thù sâu sắc và gắn bó một cách hữu cơ với đời

16
sống chính trị và vận mệnh của đất nớc. Trớc hết, đó là cuộc
chiến tranh xâm lợc của thực dân Pháp đã gây nên những xáo trộn
lớn lao, biến Việt Nam trở thành một thuộc địa. Nhng những chính
sách của kẻ thù, dù với mục đích của kẻ xâm lợc, vô hình trung trở
thành công cụ không tự giác của lịch sử đã góp phần thúc đẩy quá
trình chuyển đổi của xã hội Việt Nam. Và điều quan trọng hơn nữa
chính là những nhu cầu cần thay đổi, vận động ngay trong lòng xã
hội đó. Cả xã hội chuyển mình, văn học là một trong những lĩnh vực
diễn ra sự chuyển đổi vừa mạnh mẽ lại vừa sâu sắc nhất. Bởi văn học
buổi giao thời không phải là sự tiếp tục của văn học truyền thống mà
là sự chuyển đổi về mặt hệ hình từ trung đại sang hiện đại, diễn ra
trên nhiều phơng diện: hệ t tởng, t duy, lý tởng thẩm mĩ và
ngay cả ngôn ngữ, các phơng tiện nghệ thuật, cách cảm thụ Đó
không phải là sự phát triển liên tục mà về cơ bản là sự thay thế, đứt
gãy, chắp nối diễn ra trong một thời gian không dài. Tuy nhiên, mặc
dù có ý thức phủ nhận truyền thống (điều này nhận đợc sự đồng
tình từ nhiều phía: chính sách của kẻ thù, ý thức cách tân của các
nhà Tây học, bạn đọc đông đảo và đặc biệt là các nhà nho duy tân -
con đẻ của văn hoá truyền thống ), nhng vào giai đoạn này, nh
một quy luật tất yếu, văn xuôi vẫn không thoát khỏi sự níu kéo của
truyền thống với những ảnh hởng rất rõ nét trên các bình diện nội

dung và nghệ thuật. Quá khứ vẫn tác động âm thầm và mạnh mẽ lên
quá trình hình thành và phát triển của văn xuôi quốc ngữ hiện đại ở
cả hai phía: tích cực và hạn chế, góp phần tạo nên một giai đoạn văn
học mà tính giao thời là một trong những đặc điểm nổi bật nhất, thể
hiện đặc trng riêng biệt của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
2. Khi bớc vào giai đoạn hiện đại, văn xuôi quốc ngữ Việt
Nam không phát triển theo một lộ trình đờng thẳng tuần tự mà có
những bớc gián đoạn, phát triển không liên tục giữa các vùng,

17
miền. Nam kỳ là miền đất mới, tác động của khoa cử và văn chơng
truyền thống cha sâu, quá trình đô thị hoá lại sớm diễn ra ở đây nên
dễ tiếp cận cái mới hơn. Với những u thế đó, văn xuôi Nam kỳ đã
vợt lên và giữ vị trí tiên phong trong việc chuyển đổi loại hình sáng
tác khi tiếp cận với lối viết hiện đại của phơng Tây ngay từ cuối thế
kỷ XIX. Nhìn từ góc độ chuyển đổi loại hình văn học, chúng ta có
thể khẳng định dấu mốc xuất hiện của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam
bắt đầu từ năm 1865 (qua những mẩu tin trên Gia Định báo), sớm
hơn so với thời điểm 1887 với sự xuất hiện của Truyện thày Lazarô
Phiền khi nhìn từ góc độ thể loại. Tuy nhiên, giai đoạn tiếp sau, xu
hớng này không đợc tiếp tục phát triển ở Nam kỳ do sự chi phối
của truyện Tàu. Đến giai đoạn 1917 1932, văn xuôi Nam kỳ lại nở
rộ với sự lên ngôi của thể tiểu thuyết. Dù ảnh hởng của truyện Tàu
vẫn hiển diện trong sáng tác nhng các tác giả cũng dần từng bớc
tiệm cận với phơng pháp tả thực của phơng Tây. Đặc biệt, văn
xuôi Nam kỳ giai đoạn này đã mở rộng đối tợng và địa bàn phản
ánh sang cả khu vực nông thôn một lãnh địa tởng nh thuộc độc
quyền thâm canh của các cây bút hiện thực phê phán giai đoạn 1932
1945 ở miền Bắc.

ở Bắc kỳ, đầu thế kỷ XX mới xuất hiện những tác phẩm đầu
tiên của văn xuôi quốc ngữ hiện đại nhng lại tiếp cận ngay với xu
hớng tả thực của phơng Tây mà không trải qua qúa trình đồng hoá
của truyện Tàu nh Nam kỳ. Văn xuôi Bắc kỳ đã nhận đợc sự hậu
thuẫn khá mạnh của lí luận sáng tác hiện đại du nhập từ phơng Tây
kéo xu hớng phát triển của văn xuôi theo định hớng tả thực. Văn
xuôi Bắc kỳ giai đoạn này, mặc dù có sự đi trớc của lý luận qua các
lời tựa, bài nghiên cứu về thể loại vốn ảnh hởng từ phơng Tây và
sự đi sau của sáng tác do sức ì của thói quen truyền thống đè nặng
trên từng ngòi bút các văn gia, nhng một số thể loại văn xuôi nh

18
ký, truyện ngắn, tiểu thuyết đã định hình và hớng theo mô hình
phơng Tây với xu hớng tả thực.
Nh vậy, văn xuôi quốc ngữ Việt Nam có mầm mống từ
năm 1865 và Nam kỳ là nơi khởi xớng đầu tiên nhng để định hình
thể loại và hớng tới viết theo mô hình hiện đại của phơng Tây với
xu hớng tả thực thì phải từ 1917 trở đi khi văn xuôi quốc ngữ đợc
gieo trồng và thâm canh trên mảnh đất màu mỡ Bắc kỳ.
3. Tuy có những bớc đi khác nhau nh thế nhng văn xuôi
hai miền đều thể hiện một quy luật chung: chuyển từ văn vần sang
văn xuôi, từ quan niệm văn dĩ tải đạo sang quan niệm văn xuôi
tả thực. Thể loại văn xuôi hiện đại đợc định hớng theo mô hình
phơng Tây với xu hớng tả thực, hớng đến cuộc sống đời thờng
làm căn bản. Đây là mô thức chung của các nớc trong khu vực vốn
cùng chịu ảnh hởng của văn hoá Nho giáo. Nhng chuyển từ văn
hoá vùng ra văn hoá thế giới, từ lối t duy truyền thống phơng
Đông sang kiểu phơng Tây, ở Việt Nam không xuất hiện văn học
chính trị nh Nhật Bản mà là văn xuôi mang tính tả thực và nghiêng
về giáo dục đạo lý. Chính khuynh hớng giáo dục luân lý đã tác

động tới xu hớng tả thực vừa đợc du nhập từ phơng Tây vào Việt
Nam. Giai đoạn này, tả thực cha đợc ý thức nh một phơng pháp
sáng tác khách quan mà mới dừng lại ở sự mô phỏng, sao chép thực
tại nh nó vốn có ở đời thực. Chính điều này đã làm hạn chế sự phát
triển của nghệ thuật tự sự trong văn xuôi quốc ngữ Việt Nam giai
đoạn trớc 1932. Mặc dù vậy, nó vẫn tạo ra b
ớc thay đổi căn bản
cho văn xuôi quốc ngữ nớc nhà, đó là từ bỏ lối viết thực lục ảnh
hởng sâu sắc sử học trong truyền thống sang lối viết tả thực phản
ánh truyện có thật đang diễn ra trong đời sống hàng ngày. Và quá
trình văn xuôi quốc ngữ đi từ tính chân thực của các hiện tợng
trong đời sống đến những hình tợng văn học mang tính hiện thực
cũng đồng nghĩa với việc xuất hiện và phát triển mối quan hệ giữa

19
văn xuôi quốc ngữ hiện đại và văn báo chí. Trong giai đoạn giao thời
này, văn xuôi không chỉ ra đời trên báo chí mà đã mang những đặc
tính của văn báo chí khi hớng đến phản ánh những chuyện có thật,
giống với thực tế.
Về mặt nghệ thuật, quá trình chuyển đổi từ văn học trung
đại sang hiện đại đợc đánh dấu bằng sự chuyển đổi từ con ngời
chức năng phận vị truyền thống sang con ngời cá nhân với những
cảm xúc đời thờng trần tục, từ không gian thiên nhiên mang màu
sắc tâm linh đến không gian gia đình đang bị tha hoá, từ thời gian
lịch sử đến thời gian cá nhân đậm tính chủ quan. Sự hình thành quan
niệm con ngời cá nhân trong văn xuôi giai đoạn này đã phản ánh sự
xuất hiện một kiểu t duy khác trớc - hớng tới tả thực - đợc du
nhập từ phơng Tây. Mặc dù vẫn còn tồn tại nh một quán tính
những mô típ nhân vật truyền thống với con ngời hành hiệp trợng
nghĩa, vô đạo bất nhân nhng văn xuôi giai đoạn này đã đánh dấu

một bớc tiến mới trong quan niệm về con ngời khi xây dựng đợc
những môtíp con ngời cá nhân tồn tại nh một hữu thể độc lập
vốn chỉ có thể xuất hiện khi có sự xâm thực của văn hoá phơng
Tây. Nó đánh dấu bớc chuyển biến lớn về thi pháp trong văn học
giai đoạn này, báo hiệu một xu hớng mới trong quan niệm về con
ngời mà văn học trớc đây cha hề đề cập tới.
Nh vậy, đến thời điểm trớc 1932, sự chuyển đổi về mặt
loại hình của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đã thành công bớc đầu
khi hệ thống văn xuôi nớc ta đã định hình, đang phát triển và hứa
hẹn một sự bứt phá mạnh mẽ ở chặng đờng tiếp theo. Văn xuôi đầu
thế kỷ đã đóng vai trò đặt nền móng hết sức quan trọng về nhiều
phơng diện: đề tài, chủ đề, khả năng tiếp cận hiện thực, nghệ thuật
miêu tả tâm lý, xây dựng nhân vật, tự sự, cách sử dụng ngôn ngữ
là nơi diễn tập, chuẩn bị cho sự bùng phát mạnh mẽ của văn học

20
Việt Nam giai đoạn 1932 1945 nói riêng và văn học hiện đại Việt
Nam nói chung.
4. Trong văn xuôi giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
yếu tố giáo dục đạo lý và treo gơng răn đời của văn học truyền
thống đã đợc các nhà văn đặc biệt chú trọng duy trì và phát triển.
Thực ra bản chất của văn học luôn bao chứa giá trị tự thân là giáo
dục, chỉ có điều ở giai đoạn giao thời này, chức năng đó lại đợc
khuyếch đại trên mức bình thờng, trở thành yếu tố quan trọng nhất
trong văn xuôi, là mục đích lý tởng của ngời cầm bút. Điều này là
do hoàn cảnh hết sức đặc biệt của Việt Nam lúc đó: văn hoá phơng
Tây- một kiểu văn hoá khác biệt về loại hình so với văn hoá truyền
thống, xâm thực vào nớc ta trong hoàn cảnh cỡng chế và ép buộc.
Đặc điểm có tính lịch sử này đã dẫn đến hệ quả: một đối tợng lớn
trí thức đã lựa chọn văn hoá làm con đờng khả thi nhất để cứu

nớc, bảo tồn dân tộc, khi những ngả đờng đấu tranh công khai
đang bị đàn áp và dòng văn học cách mạng đang mất dần uy thế
không phát huy đợc ảnh hởng rộng rãi trong nớc. Do vậy, dù chỉ
là phản ánh sự thật để treo gơng, nhìn hiện thực từ góc độ đạo đức,
nhng những sáng tác văn xuôi giai đoạn này đã phản ánh đợc
phần nào thực trạng xã hội. Dù cha hớng tới một xã hội lí tởng
cụ thể nhng ý thức muốn thay đổi xã hội đã xuất hiện qua việc
không chấp nhận thực tại. Hơn nữa, xu hớng giáo dục đạo lý đã
phần nào gìn giữ đợc những giá trị tinh hoa của truyền thống dân
tộc một điều hết sức cần thiết trong quá trình chuyển giao văn hoá,
trong đó tiêu biểu nhất là đạo lý làm ngời, những thuần phong mĩ
tục của dân tộc, nét nhân bản của ngời Việt Nam (trợng nghĩa,
nhân ái, ham học hỏi).
Tuy nhiên, việc các tác giả giai đoạn giao thời đặt quá nhiều
kỳ vọng vào văn xuôi: giao cho nó nhiệm vụ cải tạo xã hội, đa đất
nớc vợt qua sự nghèo nàn và lạc hậu, truyền bá văn hoá, văn minh

21
và giáo dục đạo lý những trọng trách quá sức đó sẽ vừa là động lực
thúc đẩy văn xuôi phát triển vừa là một sức ép nặng nề, kéo văn học
dời xa bản chất nghệ thuật của mình, làm hạn chế sự sáng tạo nghệ
thuật ở mỗi tác phẩm. Đi theo quỹ đạo này, các tác giả đã vô tình bỏ
qua rất nhiều những tinh hoa văn hóa của dân tộc và phơng Tây
trong quá trình chuyển đổi loại hình văn hoá. Nhiều yếu tố u tú của
văn học trung đại và bộ phận văn học dân gian của dân tộc cha
đợc kế thừa tạo ra sự khuyết thiếu, đơn điệu. (ở văn học giai đoạn
sau, khi xu hớng đạo lý bị hạ bệ, thậm chí bị đả phá, yếu tố kỳ ảo
vốn là một trong những đặc trng nghệ thuật của văn xuôi trung đại
đã xuất hiện trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, Lan Khai, Thế Lữ
Dấu ấn con ngời làng xã đã xuất hiện trong sáng tác của Nam Cao,

Vũ Trọng Phụng).
Bên cạnh đó, văn xuôi giai đoạn này bớc đầu đã thể hiện
tính hiện đại khi mối quan hệ giữa tác giả - tác phẩm - độc giả đã
đợc thiết lập, dù mới ở dạng phiến diện. Chú ý đến công chúng độc
giả là một trong những tiêu chí để khẳng định quá trình hiện đại hoá
của văn học. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, một đời
sống văn học sôi động đã diễn ra ở Nam kỳ với sự lên ngôi của các
thể tiểu thuyết: kỳ tình võ hiệp, trinh thám, lãng mạn, tình cảm, đạo
lý, xã hội, lịch sử Hiện tợng này đã thể hiện khả năng thích ứng
và tiếp nhận cái mới một cách nhanh chóng linh hoạt của các nhà
văn. Tuy nhiên, do chủ trơng thoả mãn sở hiếu tức thời của độc giả
nên giá trị nghệ thuật trong mỗi tác phẩm cha đợc chú trọng.
Đồng thời văn xuôi giai đoạn này, đặc biệt là văn xuôi Nam kỳ cũng
chịu ảnh hởng quy luật cung cầu của thị trờng, chú ý nhiều đến
giá trị giải trí, ít quan tâm trau chuốt nghệ thuật và t tởng. Hầu hết
các văn gia Nam kỳ đều dừng lại trớc 1932 mà không tiến sâu đợc
vào văn học giai đoạn sau khi chủ nghĩa hiện thực phê phán xuất
hiện. Hơn nữa, dù đa dạng về thể loại, nhng cũng phải thừa nhận

22
một thực tế, văn xuôi giai đoạn này cha có những đỉnh cao về thành
tựu, đa số các tác phẩm mới dừng lại ở sự mô phỏng hình thức, lắp
ghép cốt truyện, cha thẩm thấu đợc tinh hoa dân tộc và nớc
ngoài ở những tầng bậc sâu. Từ đây có thể rút ra những bài học thực
tế về quá trình kế thừa truyền thống dân tộc và tiếp nhận tinh hoa
nớc ngoài. Đó là kế thừa và tiếp nhận một cách quan liêu duy ý chí
hay tự do theo ý thích đều là bất cập. Nhân tố truyền thống - đặc biệt
là tinh hoa dân tộc cần phải đợc duy trì, bồi đắp nh một thứ hồn
cốt, một nét bản chất nhng không phải là ở mặt thủ cựu, bảo thủ.
5. Cùng với sự xuất hiện của văn xuôi quốc ngữ, một kiểu

loại tác giả mới cũng xuất hiện, đó là những nhà văn - ký giả.
Khác với các tác giả thời trung đại, khi sáng tác thờng đề cao t
cách của ngời viết sử dù cầm bút để sáng tác văn học, các tác giả
giai đoạn giao thời lại luôn lồng ghép vai trò của mình với t cách
của nhà báo ghi chép, phản ánh sự thực. Tuy kiểu tác giả này đánh
dấu một loại hình tác giả khác trớc nhng họ cũng cha đạt tới vai
trò ngời th ký trung thành của thời đại nh những văn gia của
trào lu hiện thực phê phán giai đoạn sau. Phần lớn họ vừa là nhà
văn, nhà báo kiêm nhà giáo dục đạo lý. Chính các nhà nho Duy tân
đại diện cho xã hội cổ truyền phơng Đông đã sớm thức nhận về vị
trí và trách nhiệm của mình trớc xã hội, đất nớc và thời đại để lĩnh
nhận vai trò tiên phong trong sự cách tân văn hoá xã hội. ở phơng
diện này, chúng ta cần khẳng định công lao của những nhà nho duy
tân và phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Phạm Quỳnh và tạp chí
Nam phong. Chính những tác giả này bằng những sáng tác cụ thể
và những trào lu mà họ cổ vũ đã tác động tích cực đến sự chuyển
đổi của loại hình văn học từ trung đại sang hiện đại diễn ra trên
nhiều phơng diện (quan niệm, thể loại, cách hành văn). Bằng
những nỗ lực trớc tác của mình, loại hình tác giả đặc thù chỉ xuất
hiện ở giai đoạn lịch sử này đã khẳng định đợc vai trò trọng yếu

23
trong quá trình chuyển giao văn hoá. Họ vừa chắt lọc tinh hoa dân
tộc để giữ lại cho hậu sinh đồng thời vừa tích nhập những t tởng
mới phù hợp với truyền thống để tạo ra cho văn học nớc nhà một
đời sống sôi động không bị giữa đờng đứt gánh. Tuy nhiên, vai
trò của họ đã dừng lại trớc 1932, giai đoạn sau họ đã chuyển giao
nhiệm vụ lịch sử cho lớp tác giả Tây học chính hiệu - những trí
thức đợc đào tạo bài bản hiện đang ngồi trên ghế nhà trờng Pháp
Việt.

6. Văn xuôi quốc ngữ Việt Nam chuyển từ trung đại sang
hiện đại vận hành phù hợp với quy luật phát triển của văn học các
nớc trong khu vực, đó là sự vận động từ văn hoá vùng phơng
Đông ảnh hởng Nho giáo đến loại hình văn hoá có tính toàn cầu
ảnh hởng phơng Tây. Trong cùng một điều kiện, cùng một hoàn
cảnh bị các nớc thực dân áp bức, vốn chịu ảnh hởng văn hoá
Trung Quốc nhng văn xuôi Việt Nam ở giai đoạn đầu khi chuyển
từ trung đại sang cận hiện đại đã có nét khác biệt so với các nớc
khác trong khu vực. Tuy nhiên, do khuôn khổ của luận án và khả
năng có hạn của ngời nghiên cứu trong việc tiếp cận toàn cảnh với
các nguồn t liệu khác nhau nh văn xuôi Nôm của Đạo Thiên chúa,
văn bản các chủ trơng, chính sách của ngời Pháp ở Việt Nam giai
đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. nên việc đi sâu vào từng
loại hình tác giả để tìm hiểu sự phát triển biến đổi, cũng nh việc
khảo sát diễn tiến của ngôn ngữ văn xuôi giai đoạn này cha đợc
chú trọng. Đây sẽ là hớng phát triển tiếp theo của luận án.







24


Bộ giáo dục v đo tạo






Quá trình hình thnh v phát triển
của văn xuôI quốc ngữ việt nam giai đoạn
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX


Chuyên ngnh: Văn học Việt nam
Mã số: 62. 22. 34. 01









Tóm tắt luận án tiến sĩ ngữ văn


H Nội 2008



25
Các công trình khoa học đ công bố liên quan
đến đề ti luận án
1. Cao Thị Hảo (2006), Quan niệm về con ngời trong tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, tạp chí Khoa học và công nghệ, ĐH Thái

Nguyên, số 4.
2. Cao Thị Hảo (2007), Quan niệm văn học của một số cây
bút văn xuôi quốc ngữ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, tạp chí Nghiên cứu
Văn học, số 7.
3. Cao Thị Hảo (2007), Chữ, văn quốc ngữ trong mối quan
hệ với truyền thống văn hoá dân tộc, tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống,
số 11.
4. Cao Thị Hảo (2007), Tiếp cận văn học sử từ góc độ văn
hoá - một cái nhìn khách quan đối với lịch sử văn học Việt Nam giai
đoạn giao thời (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), Kỷ yếu Hội thảo: Đổi
mới nội dung và phơng pháp dạy học văn học Việt Nam hiện đại
trong trờng đại học, trờng ĐH Cần Thơ, tháng 11.
5. Cao Thị Hảo (2008), Nhận định bớc đầu về thể ký trong
văn xuôi quốc ngữ miền Bắc giai đoạn 1900 1932, tạp chí Khoa
học và Công nghệ, ĐH Thái Nguyên, số 1.
6. Cao Thị Hảo (2008), Vấn đề tả thực trong lý luận và
sáng tác văn xuôi quốc ngữ miền Bắc giai đoạn 1917 1932, tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 3.
7. Cao Thị Hảo (2008), Những mầm mống đầu tiên của văn
xuôi quốc ngữ Việt Nam qua những mẩu tin trên Gia Định báo, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Chi đoàn cán bộ giảng dạy, trờng ĐHSP
Thái Nguyên tháng 6.
8. Cao Thị Hảo (2008),
Vai trò của Đông Kinh nghĩa thục
và những nhà nho duy tân trong lĩnh vực văn học (giai đoạn đầu thế
kỷ XX), Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc á, số 7.

×