Tải bản đầy đủ (.docx) (153 trang)

BIỆN PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH MÔN HỌC CỦA SINH VIÊN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 153 trang )

MỤC LỤC

1


2


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo đại học nước ta
đã có những chuyển biến tích cực, q trình đổi mới dạy học đã và đang tiến
hành trong hầu hết các trường cao đẳng, đại học và đã đạt được những kết quả
quan trọng. Dạy học theo đổi mới đòi hỏi người học phải có khả năng tự học
cao, phải tự nghiên cứu, chủ động tìm tịi, sáng tạo và đặc biệt là có khả thích
ứng cao để bắt nhịp với yêu cầu đổi mới. Bên cạnh đó, phương thức học tập ở
trường đại học khác xa với phương thức học tập ở trường phổ thơng. Để có
khả năng thích ứng nhanh với phương thức học tập ở trường đại học, địi hỏi
người học phải có những thay đổi thói quen, nề nếp, cách thức học tập. Đây là
một điều khó khăn với hầu hết SV ở các trường đại học, đặc biệt với SV là
người DTTS.
Để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng giáo dục cho
các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa và con em các DTTS, việc nâng cao chất
lượng đào tạo giáo viên được xem là nhiệm vụ hàng đầu của các trường sư
phạm. Cùng với việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, vấn đề giúp
SV thích ứng nhanh với phương thức học tập ở đại học cũng là một nhiệm vụ
quan trọng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên của các trường sư
phạm. Thực tiễn giáo dục nhiều năm qua chỉ ra rằng, để ổn định và nâng cao
chất lượng giáo dục cho vùng sâu, vùng xa, con em các DTTS, việc đào tạo
“theo địa chỉ” giáo viên người dân tộc là một cách làm hiệu quả. Song do yếu
tố địa lí, mặt bằng văn hóa, phong tục tập quán, lối sống và ngôn ngữ khác


nhau nên phần lớn những SV người DTTS gặp rất nhiều khó khăn trong việc
thích ứng với hoạt động học tập ở trường sư phạm. Do vậy, nhiều SV người
DTTS, mặc dù rất miệt mài học tập, nghiên cứu, song kết quả học tập, rèn
luyện kĩ năng sư phạm còn rất nhiều hạn chế, nhất là SV ngành SPMN.

3


Việc nghiên cứu xác định thực trạng, tìm ra nguyên nhân làm cản trở sự
thích ứng với hoạt động học tập của SV SPMN người DTTS, trên cơ sở đó đề
ra một số biện pháp giúp các em nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động
học tập ở trường đại học là rất cần thiết.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Biện pháp nâng cao khả
năng thích ứng với hoạt động thực hành mơn học của SV người DTTS. Hi
vọng rằng, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú cơ sở lí
luận và thực tiễn về những biện pháp nâng cao khả năng thích ứng với hoạt
động thực hành mơn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non nói riêng, các mơn
học ở trường sư phạm cho SV người DTTS nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu khả năng thích ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC
HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người DTTS. Trên cơ sở đó đề xuất
một số biện pháp giúp SV người DTTS thích ứng nhanh với hoạt động thực
hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non nói riêng, các mơn học ở
trường Sư phạm cho SV nói chung, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên người DTTS.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình thực hành môn học của SV SPMN người DTTS hệ Trung cấp
và Cao đẳng - Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu

Một số biện pháp nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động thực hành
mơn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non cho SV SPMN người DTTS Trường
Đại học phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.

4


4. Giả thuyết khoa học
Sự thích ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ
mầm non của SV SPMN người DTTS ở Trường Đại học Phạm Văn Đồng
Quảng Ngãi cịn nhiều hạn chế, do đó dẫn đến kết quả học tập cịn thấp. Nếu
tìm ra ngun nhân và xây dựng được biện pháp tác động phù hợp với đặc điểm
học tập của SV người DTTS sẽ góp phần nâng cao khả năng thích ứng với hoạt
động thực hành môn học này cho SV.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những nhiệm vụ sau:
5.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: Vấn đề thích
ứng, thích ứng tâm lí, hoạt động học tập, thích ứng với hoạt động học tập và
hoạt động thực hành môn học của SV người DTTS.
5.2. Khảo sát thực trạng khả năng thích ứng với hoạt động thực hành
môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người DTTS ở
Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tác động sư phạm nhằm nâng cao khả năng
thích ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non cho
SV SPMN người DTTS ở Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.
5.4. Thực nghiệm sư phạm một số biện pháp nâng cao khả năng thích
ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non cho SV
SPMN người DTTS ở Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.
6. Phạm vi nghiên cứu
6.1. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu SV SPMN người DTTS thông qua

7 lớp SPMN đang theo học tại Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi.
6.2. Hoạt động học tập của SV SPMN tại Trường Đại học Phạm Văn
Đồng Quảng Ngãi gồm: học lý thuyết, học thực hành môn học tại phòng thực
hành và thực tập sư phạm tại các trường mầm non. Trong phạm vi đề tài,

5


chúng tơi chỉ tập trung nghiên cứu khả năng thích ứng với thực hành môn học
PPTC HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người DTTS.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Nhóm phương pháp này gồm các phương pháp thu thập, đọc, phân tích
và tổng hợp lí thuyết, phân loại và hệ thống hóa lí thuyết nhằm xây dựng cơ
sở lí luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát, ghi chép hoạt động thực hành của SV người DTTS tại 7 lớp
SPMN qua một số giờ thực hành mơn học để có cơ sở đánh giá thực trạng khả
năng thích ứng với hoạt động học tập của những SV này.
7.2.2. Phương pháp điều tra viết
Sử dụng phiếu điều tra để khảo sát SV người DTTS 7 lớp SPMN của
Trường. Thông qua trả lời các câu hỏi của SV chúng tơi có thêm cơ sở để xác
định thực trạng khả năng thích ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC
HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người DTTS và nguyên nhân dẫn đến
thực trạng này.
7.2.3. Phương pháp đàm thoại
Trò chuyện, trao đổi với cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lí SV, giáo viên
hướng dẫn thực hành và với các em SV SPMN người DTTS để có những
thơng tin sinh động, phong phú về mức độ thích ứng với hoạt động thực hành

mơn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non của họ. Xác định những khó khăn trở
ngại, những điều kiện để SV SPMN người DTTS thích ứng nhanh với hoạt
động thực hành mơn học này.

6


7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Trao đổi, trưng cầu ý kiến của các nhà khoa học, các cán bộ quản lí,
cán bộ giảng dạy giàu kinh nghiệm trong việc giúp đỡ SV người DTTS nâng
cao khả năng thích ứng với hoạt động học tập nói chung và thực hành mơn
học nói riêng ở đại học để phân tích, đánh giá thực trạng, xác định nguyên
nhân cơ bản dẫn đến thực trạng và xây dựng các biện pháp tác động sư phạm
nhằm nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động thực hành môn học PPTC
HĐTH cho trẻ mầm non cho SV SPMN người DTTS.
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm, đánh giá hiệu quả và tính khả
thi của những biện pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động
thực hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người
DTTS ở Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi do chúng tơi đề xuất .
7.3. Nhóm phương pháp xử lí số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS (18.0) để xử lí số liệu, kết quả nghiên cứu
thực tiễn của đề tài.
8. Những đóng góp mới của đề tài
Đánh giá được thực trạng mức độ thích ứng với hoạt động thực hành
môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non của SV SPMN người DTTS ở
Trường Đại học Phạm Văn Đồng Quảng Ngãi. Trên cơ sở thực nghiệm sư
phạm, đề xuất một số biện pháp tác động sư phạm phù hợp với đặc điểm tâm lí
của SV SPMN người DTTS nhằm nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động
thực hành môn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm non cho những SV này.


7


9. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm ba phần chính
Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, khách thể và đối
tượng nghiên cứu, giả thuyết khoa học, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của đề tài, cấu trúc luận văn.
Nội dung nghiên cứu: Gồm ba chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng biện pháp nâng cao khả năng thích ứng với hoạt
động thực hành môn học của SV người DTTS ngành SPMN
Chương 3: Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp nâng cao khả
năng thích ứng với hoạt động thực hành mơn học PPTC HĐTH cho trẻ mầm
non của SV người DTTS ngành SPMN trường Đại học Phạm Văn Đồng
Quảng Ngãi
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

8


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ SỰ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG
HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM MẦM NON NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1. Tình hình nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập của SV ở
nước ngoài
Cuộc sống ln vận động và biến đổi khơng ngừng, vì vậy mỗi con
người cần có những thay đổi, những điều chỉnh bản thân cho phù hợp với
hoàn cảnh mới, điều kiện hoạt động mới và yêu cầu mới. Những thay đổi hay
điều chỉnh cho phù hợp đó chính là sự thích ứng của con người với mơi
trường hoạt động mới.
Sự thích ứng có một vai trị rất quan trọng trong cuộc sống và trong
hoạt động của con người, đặc biệt là trong hoạt động học tập của học sinh,
SV. Chính vì vậy trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về sự thích ứng với
hoạt động học tập của học sinh, SV theo nhiều hướng khác nhau.
H.Spencer (1820 - 1903) nhà triết học xã hội, nhà tâm lí học thực
chứng người Anh, đại biểu cho trường phái tâm lí học chức năng
(Functionalism) - người khởi xướng việc nghiên cứu vấn đề thích ứng trong
tâm lí học. Đứng trên lập trường của tâm lí học thực chứng và lí luận tiến hóa
sinh học, H.Spencer cho rằng “Cuộc sống là sự thích nghi liên tục các quan hệ
bên trong với bên ngoài”. Theo ơng, hành vi cá thể có bản chất thích ứng. Các
hiện tượng tâm lí, ý thức chỉ là cơng cụ mới của sự thích ứng giữa cơ thể với mơi
trường. Tuy nhiên ông lại coi chọn lọc tự nhiên là quy luật cơ bản của sự thích
ứng tâm lí có cùng bản chất với thích nghi sinh học.

9


Tư tưởng của H. Spencer tiếp tục được phát triển bởi các nhà tâm lí học khác,
đặc biệt là W. Jem (1842 - 1910) thành một trường phái tâm lí học thích ứng.
Các nhà tâm lí học Liên Xơ (trước đây) cũng đã tiến hành nghiên cứu
thích ứng của học sinh, SV và những người mới vào nghề. Chẳng hạn:
Năm 1969, E.A. Emolaeva nghiên cứu “Đặc điểm thích ứng xã hội và
nghề nghiệp ở SV đã tốt nghiệp trường sư phạm”.

Sau đó B.Barisova và M. Brusev nghiên cứu mối quan hệ giữa thích
ứng học tập với động cơ chọn nghề của SV sư phạm. Theo họ, SV sẽ không
dễ dàng thích ứng với hoạt động học tập ở đại học nếu khơng có động cơ chọn
nghề đúng đắn.
D.A. Andreeva tiếp cận vấn đề thích ứng theo quan điểm nhân cách,
coi thích ứng là một vấn đề của nhân cách. Theo bà, thích ứng tâm lí khác biệt
về chất so với thích nghi sinh học. Thích ứng là một q trình thích nghi đặc
biệt của con người với tư cách là chủ thể tích cực thâm nhập vào những điều
kiện sống mới. Khái niệm thích ứng học tập vì vậy được dùng với ý nghĩa là
quá trình tự học của SV.
B.P. Allen cho rằng, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập của SV
là hình thành ở họ các nhóm kĩ năng: 1/ Sử dụng thời gian cá nhân. 2/ Các kĩ
năng của hoạt động học tập và các phẩm chất khác như tâm thế, sự lựa chọn
các hình thức, nội dung học tập, các thói quen học tập và nghề nghiệp.
Matthew J. Cook đã tiến hành nghiên cứu phong cách học của SV năm
thứ nhất và kết quả học kì I để đánh giá ảnh hưởng của phong cách học tập tới
việc thích ứng với học tập tốt hơn của SV. SV có phong cách học trầm ngâm
gặp khó khăn hơn SV ưa hoạt động, tích cực trong học tập và có thể căn cứ
vào phong cách học tập để dự báo việc thích ứng với hoạt động học tập tại
trường đại học của SV.

10


1.1.2. Tình hình nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động học tập của SV ở
Việt Nam
Ở Việt Nam cho đến nay, thích ứng với hoạt động học tập của học sinh,
SV luôn là vấn đề được quan tâm nghiên cứu.
- Năm 1994 - 1995, Vũ Thị Nho nghiên cứu ảnh hưởng của giáo dục
mẫu giáo đến khả năng thích ứng của học sinh đầu tiểu học.

- Năm 2000, Phan Quốc Lâm nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động
học tập của học sinh cấp 1.
- Năm 2002, Lê Ngọc Lan nghiên cứu sự thích ứng với hoạt động thực
hành môn học của SV Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Năm 2003, Nguyễn Thạc công bố kết quả nghiên cứu sự thích ứng đối
với hoạt động học tập của SV Trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ Mẫu giáo
Trung ương 1.
Năm 2009, Đỗ Thị Thanh Mai đã nghiên cứu “Mức độ thích ứng với
hoạt động học tập của SV hệ cao đẳng Trường Đại học Cơng nghiệp Hà Nội”
Ngồi ra còn rất nhiều luận văn sau đại học cũng nghiên cứu về sự
thích ứng với hoạt động học tập. Chẳng hạn:
Năm 1986, Trịnh Ngọc Tân nghiên cứu “Biện pháp nâng cao tốc độ
thích ứng học tập của SV năm thứ nhất, ĐHSP Hà Nội I”.
Năm 1998, Lê Thị Hương trong luận văn “Nghiên cứu sự thích ứng với
hoạt động học tập của SV năm thứ nhất trường Cao đẳng Sư phạm Thanh
Hóa” đề cập đến mức độ thích ứng với hoạt động học tập ở đại học của SV năm
thư nhất Trường CĐSP Thanh Hóa.
Năm 2006, Phạm Văn Cường trong luận văn “Sự thích ứng với hoạt
động học tập của SV người DTTS Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên” đã
chỉ ra mức độ thích ứng thấp với hoạt động học tập ảnh hưởng rất lớn đến kết
quả học tập của SV người dân DTTS.

11


Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, sự thích ứng với hoạt động học tập
của học sinh, SV đã được quan tâm nghiên cứu rất nhiều trong những năm
gần đây. Tuy nhiên số lượng nghiên cứu về thích ứng với hoạt động học tập
của SV người DTTS chưa nhiều, đặc biệt là SV người DTTS thuộc chuyên
ngành SPMN.

1.2. Khái niệm về sự thích ứng
1.2.1. Khái niệm về sự thích ứng
Thích ứng xuất phát từ tiếng La tinh là Adapto, trong tiếng Anh thích
nghi, thích ứng là: Adaptation.
Theo Từ điển tiếng Việt, “thích nghi” là có những biến đổi nhất định cho
phù hợp với hồn cảnh, mơi trường mới. Thích ứng là có những thay đổi cho phù
hợp với điều kiện mới, yêu cầu mới. Như vậy hai khái niệm này có sự tương đồng.
Theo Nguyễn Khắc Viện: Thích nghi, thích ứng là hiện tượng một sinh
vật sống trong một mơi trường có nhiều biến động, đã điều chỉnh bằng cách
thay đổi phản ứng của bản thân hoặc tìm cách thay đổi môi trường. Bước đầu
là điều chỉnh những phản ứng sinh lí (như thích nghi với nhiệt độ cao hay
thấp, môi trường khô hay ẩm) sau là cách thay đổi ứng xử, đây là thích nghi
tâm lí. Thích nghi xã hội: Một cá nhân tiếp nhận được các giá trị của một xã
hội, hòa nhập được vào xã hội ấy [54].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: 1. Trong sinh học: thích nghi
là việc xuất hiện những tình trạng và đặc tính mà trong các điều kiện mơi
trường hiện có là có lợi cho cá nhân hoặc quần thể. 2. Thích nghi bao gồm các
mức độ tâm lí và xã hội. Thích nghi xã hội là kết quả tác động qua lại giữa cá
thể hay tập đoàn xã hội với mơi trường xã hội trong đó những địi hỏi và sự
mong đợi của những thành viên tương hợp với nhau. Nhân tố quan trọng nhất
của sự thích nghi là sự tương hợp giữa sự tự đánh giá và kì vọng của chủ thể
với khả năng của chủ thể và thực tế môi trường xã hội, kể cả chiều hướng phát

12


triển của mơi trường và chủ thể. Sự thích nghi tâm lí được quy định bởi tính
tích cực của cá nhân và biểu hiện như là sự thống nhất giữa sự thích ứng (nắm
bắt các quy tắc của mơi trường) và sự đồng hóa (cải tạo mơi trường ). Ở trình
độ xã hội, bản tính hoạt động tích cực của các chủ thể xã hội quy định sự thích

nghi. Về mặt mơi trường xã hội, thích nghi là do mục đích hoạt động quy định.
Điều kiện quan trọng của sự thích nghi là sự phối hợp tối ưu hoạt động thích
nghi, sự phối hợp đó biến đổi tùy thuộc vào những tình huống cụ thể.
Thích nghi di truyền: sự thích nghi được hình thành trong quá trình
phát triển cá thể của các lồi sinh vật mà khơng phụ thuộc vào hiện trạng của
mơi trường, những thích nghi đó được củng cố bởi thuộc tính di truyền.
Thích nghi hình thái: sự thích nghi được hình thành do tác động của các
yếu tố môi trường buộc sinh vật phải phản ứng một cách nhanh chóng.
Thích nghi khí hậu: hiện tượng thích ứng của sinh vật (người, động vật
và thực vật) với các yếu tố về khí hậu và mơi trường sống, bao gồm các quá
trình phức tạp và lâu dài của riêng từng lồi về hình thể, sinh lí, hóa sinh và lí
sinh, khơng những chỉ đặc trưng bằng sự tồn tại và di chuyển nơi sống mà còn
thể hiện khả năng phát triển bình thường tại nơi cư trú mới của các sinh vật ở
thế hệ sau [52] .
Từ các quan niệm trên chúng ta thấy, có rất nhiều ý kiến khác nhau về
thích ứng. Trong đó có một số ý kiến đồng nhất thích ứng với thích nghi. Tuy
nhiên cũng có một số ý kiến cịn chưa thống nhất hai khái niệm này. Nguyên
nhân một phần do khái niệm “thích nghi” thuộc về sinh vật học. Phần khác,
do mỗi tác giả khi nghiên cứu dựa trên những cơ sở lí luận, phương pháp luận
khác nhau, các khía cạnh nghiên cứu khác nhau. Chính vì vậy nội hàm khái
niệm cịn chưa thực sự thống nhất.
Như vậy, khái niệm thích ứng được định nghĩa ở nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng tất cả các định nghĩa đều có điểm

13


chung đó là đồng nhất thích ứng với thích nghi. Khái niệm thích ứng hẹp hơn
khái niệm thích nghi. Khái niệm thích nghi thường được dùng ở khía cạnh
sinh học, dùng chung cho mọi sinh vật. Khái niệm thích ứng thường được

dùng để chỉ sự thích ứng về mặt tâm lí xã hội của con người.
Từ những phân tích trên, chúng tơi đi đến một cách hiểu: Thích ứng là
q trình con người điều chỉnh nhận thức, hành vi, hành động và thái độ của
bản thân cho phù hợp với môi trường hoạt động mới nhằm đạt được kết quả
hoạt động mong muốn.
1.2.2. Bản chất của sự thích ứng
Thích ứng là vấn đề đã được nghiên cứu từ lâu, có nhiều quan điểm
khác nhau về bản chất của sự thích ứng.
Tâm lí học chức năng:
Đại diện cho trường phái tâm lí học chức năng là Herbert Spencer
(1820 - 1903) và W. Jemes (1842 - 1910). Theo H. Spencer con người sống
và hoạt động luôn luôn chịu sự chi phối của mơi trường, họ phải thích nghi
với nó để tồn tại và phát triển. Việc làm rõ vấn đề thích ứng phải dựa vào mối
quan hệ giữa con người và môi trường sống. Từ đó, H. Spencer khẳng định
rằng, mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài của con người mới
thực sự là đối tượng nghiên cứu của tâm lí học. Theo ơng, bản chất sự thích
ứng của con người là thích nghi sinh học; tâm lí, ý thức chỉ là cơng cụ thích
ứng giữa cơ thể với mơi trường sống. Quan niệm về sự thích ứng của H.
Spencer chưa đem lại những đóng góp tích cực cho thực tiễn đời sống con
người và những đòi hỏi của tâm lí học khách quan.
William Janes cho rằng: Tâm lí là sự mơ tả và giải thích về các trạng thái
ý thức của con người. Ý thức có tính cá nhân, phản ánh kinh nghiệm của một cá
nhân, vì vậy khơng nên đi tìm các yếu tố chung cho mọi trí thơng minh. Trong
quan niệm của ơng, các yếu tố tinh thần được thích nghi trước với mơi trường

14


sống. Mục đích của ý thức là giúp cá nhân thích nghi với mơi trường sống, mục
đích của sự thích nghi là đảm bảo cho sự an toàn và thịnh vượng.

Như vậy, cả H. Spencer và W. Jemes đều cho rằng, ý thức có chức
năng thích ứng và là cơng cụ để con người thích ứng. Đây là những đóng góp
quan trọng cho việc nghiên cứu vấn đề thích ứng.
Tâm lí học hành vi:
V Watson (1878 - 1958) là nhà tâm lí học người Mỹ, coi mục tiêu của
tâm lí học là tiên đốn và kiểm sốt hành vi. Ơng là người sáng lập ra thuyết
hành vi với đối tượng nghiên cứu là hành vi cơ thể. Ông chia hành vi làm bốn
loại: Hành vi tập thành minh (bên ngoài) như nói, viết, chơi bóng; hành vi tập
thành mặc nhiên (bên trong) như sự tăng nhịp đập tim gây nên khi nhìn thấy
máy khoan của nha sĩ; hành vi tự động minh nhiên như nháy mắt, hắt hơi;
hành vi tự động mặc nhiên như sự tiết dịch và các biến đổi về tuần hồn. Theo
ơng, mọi việc con người làm đều thuộc vào một trong bốn hành vi nói trên.
Ngơn ngữ và tư duy cũng được ông đánh giá là một loại hành vi khách quan
như chơi bóng mà thơi. Vì vậy sự thích ứng cuộc sống của con người là sự
tổng hợp nhiều hành vi khác nhau nhằm thích nghi với môi trường sống xung
quanh. Theo ông, hành vi con người không khác hành vi của động vật, hành
vi có nguồn gốc khách quan từ mơi trường bên ngồi. Chính vì thế ơng cho
rằng: sự thích ứng của con người và động vật là giống nhau. Sự thích ứng ở
người so với động vật chỉ phức tạp hơn về mặt số lượng chứ khơng có sự
khác biệt về mặt chất lượng. Do đó, nghiên cứu thích ứng của con người phải
giữ lại những thuật ngữ cơ bản của tiến hóa sinh học là “thích nghi với mơi
trường”, “sống sót” hay bị đào thải….
B. F. Skiner - người phát triển tâm lí học hành vi cho rằng, dù có các sự
kiện tâm lí đi nữa, thì nghiên cứu chúng cũng khơng có lợi gì. Nhưng sẽ có lợi
nhiều nếu đi phân tích chức năng về các sự kiện mơi trường và hành vi.

15


Skiner đánh giá cao yếu tố môi trường trong việc chọn lọc hành vi. Theo ông,

sự tăng cường các yếu tố phụ thuộc mà môi trường cung cấp sẽ quyết định
hành vi nào trở nên mạnh hơn và hành vi nào không. Thay đổi các yếu tố tăng
cường, bạn sẽ thay đổi hành vi.
Nhìn chung các nhà tâm lí học hành vi đã có nhiều đóng góp cho cho
việc nghiên cứu vấn đề thích ứng, đã chỉ ra mức độ thích ứng đầu tiên của con
người là phản ứng trực tiếp với các kích thích của mơi trường cũng như cơ
chế hình thành hành vi thích ứng. Tuy nhiên, do thiếu quan điểm biện chứng
về bản chất con người và mối quan hệ giữa con người với môi trường nên họ
đã cho rằng sự thích ứng tâm lý con người giống với sự thích ứng sinh lý của
động vật. Họ đã xem nhẹ ý thức – một hình thức phản ánh tâm lí cao nhất của
con người.
Phân tâm học:
S. Freud (1856 - 1939) người Áo quan niệm: nhân cách là một cấu trúc
tổng thể và trọn vẹn, bao gồm: cái Ấy (Id), cái Tôi (Ego) và cái Siêu tôi
(Superego). Cái ấy là cái đã có từ khi con người sinh ra và được quy định về
mặt cấu tạo giải phẫu sinh lí cơ thể. Cái Tơi được nảy sinh sau cái Ấy, do áp
lực thực tế, làm trung gian giữa cái Ấy và bên ngồi. Cái Siêu tơi là đạo đức
trong nhân cách con người, được hình thành từ cái Tơi. Mỗi thành phần có vai
trị và chức năng khác nhau đối với đời sống con người. Trong đó, cái Ấy
(chủ yếu là bản năng vô thức – bản năng tình dục) giữ vai trị quan trọng nhất,
là nguồn năng lực thúc đẩy con người sống và hoạt động. Tuy nhiên bản năng
này ln ln bị cấm đốn, bị kiểm duyệt bởi cái xã hội (cái Siêu tôi). Để tồn
tại, con người phải đạt được sự cân bằng, sự hài hịa giữa cái Ấy và cái Siêu
tơi – đó là sự thích ứng.
S. Freud đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu về
vấn đề thích ứng, nhưng ông đã nghiên cứu thích ứng trên con người thực với

16



nhu cầu thực để xác định được vai trò của yếu tố bản năng trong con người,
xác định được nguyên nhân của chứng nhiễu tâm là do con người không điều
hòa được giữa “ Cái Ấy” và “ Cái Siêu tơi” (tức là do khơng thích ứng được).
Tuy nhiên, vì xuất phát từ quan điểm sinh vật luận nên ông đã quá đề cao vai
trò của yếu tố bản năng (đặc biệt là bản năng tình dục), vì thế ơng coi thích
ứng tâm lí ở con người như là sự thích nghi sinh học, phủ nhận vai trị của ý
thức, khơng thấy được bản chất xã hội của thích ứng tâm lí người.
Tâm lí học nhận thức:
Đại diện trường phái này là J. Piaget (1896 - 1980). Ông nghiên cứu
nhận thức của con người trong mối quan hệ với môi trường sống. Ông tin
rằng hầu như mọi kinh nghiệm của một con người đều bao gồm cả sự tiếp thu
lẫn thích nghi. Thích nghi là một sự cân bằng giữa hai cơ chế khơng thể tách
biệt được, đó là sự đồng hóa – asimilation và sự điều ứng – accomodation.
Đồng hóa là q trình sử dụng hoặc thay đổi mơi trường để nó có thể được đặt
vào các cấu trúc sẵn có. Điều ứng là q trình thay đổi các cấu trúc nhận thức
để chấp nhận một yếu tố nào đó của mơi trường. Theo ơng sự phát triển tâm lí
là q trình cải tổ, chuyển hóa các cấu trúc của các q trình nhận thức vốn có
của trẻ em đưa đến sự thích nghi, thích ứng.
Piaget quan niệm: trí thơng minh là sự thích nghi tâm lí của con người
với các điều kiện mới và sự thích nghi địi hỏi một sự tác động qua lại giữa
chủ thể và khách thể sao cho chủ thể có thể nhập vào khách thể mà vẫn giữ
được những đặc tính của mình và sự thích nghi ngày càng mạnh hơn khi sự
đồng hóa và sự điều ứng này càng khác biệt nhau và càng bổ sung cho nhau.
Ông cho rằng: “Hành vi của con người có mặt cảm xúc và mặt trí tuệ, trong
đó trí tuệ quyết định mối quan hệ thích nghi của chủ thể nhằm đảm bảo mối
cân bằng giữa chủ thể với môi trường” [31].

17



J. Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lí luận về sự thích ứng tâm
lí người, nhưng ơng vẫn coi con người là một thực thể thích nghi một cách thụ
động với hồn cảnh thơng qua cái gọi là “bảo đảm sự cân bằng”, chưa chú ý
đúng mức đến nội dung xã hội - lịch sử của thích ứng tâm lí người.
Tâm lí học mácxít:
Các nhà tâm lí học mácxít lấy học thuyết Mac - Lenin làm cơ sở lí luận
và phương pháp luận để nghiên cứu tâm lí người. Họ nhìn nhận con người là
một thực thể tự nhiên, đồng thời là một thực thể xã hội, sự phản ánh tâm lí
con người tuân theo quy luật xã hội, chịu sự tác động của yếu tố lịch sử, văn
hóa xã hội, sự phản ánh tâm lí thơng qua hoạt động tích cực của chủ thể trong
mối quan hệ với mơi trường xung quanh.
Các nhà tâm lí mácxít phân biệt rõ sự thích ứng có ý thức, chủ động, tích
cực của con người nhằm biến đổi, cải tạo mơi trường sống, cải tạo bản thân
mình, sự thích ứng của con người khác xa về chất so với hình thức thích nghi
của động vật. Đại diện cho trường phái này là: L.X. Vưgotxki (1896 - 1934),
A.N. Leonchiev (1903 - 1979), X.L. Rubinstein (1889 - 1960), A.R. Luria (1902
- 1977), P.Ia. Ganperin (1902 - 1988).
L.X. Vưgotxki thừa nhận con người phải thích nghi với mơi trường
sống như một sinh vật, vì con người là một thực thể tự nhiên. Tuy nhiên về
mặt xã hội, con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội, vì vậy nên mối
quan hệ cơ thể - môi trường phải mang nội dung mới. Ơng cho rằng, thích
ứng theo ngun tắc tín hiệu có chung ở người và động vật nhưng khơng phải
là phương thức thích ứng chủ đạo ở người. Phương thức thích ứng chủ đạo ở
người là thích ứng theo nguyên tắc dấu hiệu và ngun tắc này khơng có ở
động vật. Q trình tín hiệu hóa phản ánh mối quan hệ tự nhiên đảm bảo cho
cơ thể đáp ứng được các kích thích của mơi trường. Cịn việc dấu hiệu hóa
cho phép con người có khả năng tạo ra một loại cân bằng với mơi trường có

18



thể làm biến đổi chính mơi trường và biến đổi chính hành vi của bản thân
mình với tư cách là một chủ thể tích cực. Dấu hiệu cũng như cơng cụ vật chất
là khí quan xã hội, được hình thành trong lịch sử lồi người. Đó là hành vi
đặc thù người được quy định bởi xã hội. Hành vi đó chính là hoạt động thực
tiễn của con người. Bằng việc phát hiện ra cơ chế hình thành và điều khiển
hành vi ở cá nhân, ông đã chỉ rõ sự khác biệt cơ bản giữa thích ứng tâm lí ở
người với sự thích nghi sinh học ở động vật. Đó là sự thích ứng có ý thức, chủ
động, tích cực của con người nhằm biến đổi, cải tạo môi trường sống, cải tạo
bản thân mình, sự thích ứng của con người khác xa về chất so với sự thích
nghi của động vật.
A.N. Leonchiev - Người đã kế thừa và phát triển quan điểm của
Vưgôtxki. Dựa trên những phương pháp luận mà Vưgôtxki nghiên cứu và đề
xướng, A.N. Leonchiev đã phân biệt rất rõ khái niệm thích nghi dùng cho
hành vi của động vật và khái niệm thích nghi của con người. Ông đứng trên
lập trường triết học mácxít để nghiên cứu đời sống tâm lí con người, đặc biệt
coi trọng yếu tố xã hội trong phản ánh tâm lí người.
A.N. Leonchiev đã vạch ra sự khác biệt về cơ chế của sự hình thành
hành vi của động vật và của người. Con người khơng chỉ đơn thuần thích nghi
với thiên nhiên mà cịn tạo ra phương tiện để tồn tại. Vì vậy, khác với động
vật, con người dùng hoạt động của mình làm trung gian, điều khiển và kiểm
sốt q trình ấy. Sống trong xã hội, con người có những mối quan hệ với
những người khác và với thực tại đồ vật của lồi người. Do đó sự thích ứng
của con người khác về chất so với sự thích nghi ở động vật. Sự thích nghi của
động vật là q trình biến đổi hành vi của loài ở cá thể để tồn tại. Q trình
thích ứng của con người diễn ra một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch
và chịu sự tác động của yếu tố lịch sử, văn hóa - xã hội.

19



Như vậy, theo quan điểm của các nhà tâm lí học mácxít, thích ứng của
con người chịu sự tác động lớn của hồn cảnh xã hội. Trong hồn cảnh đó,
con người vừa là tác nhân chịu sự tác động của môi trường, vừa là chủ thể cải
tạo môi trường một cách có ý thức. Xã hội phát triển địi hỏi những thành viên
trong xã hội phải có những phẩm chất và năng lực tương xứng để đáp ứng với
yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Để đạt được điều này đòi hỏi con người
phải tự điều chỉnh, cải thiện bản thân, tức là con người phải thích ứng với
điều kiện mới. Nếu con người khơng có khả năng thích ứng con người dần sẽ
bị đào thải.
1.3. Hoạt động học tập và sự thích ứng với hoạt động học tập ở trường
đại học của SV
1.3.1. Hoạt động học tập và bản chất của hoạt động học tập
1.3.1.1. Khái niệm về hoạt động học
Trong cuộc sống đời thường, con người luôn ln có q trình tiếp thu,
tích lũy những kinh nghiệm sống, trên cơ sở đó tạo nên những tri thức tiền
khoa học, làm cơ sở để tiếp thu những khái niệm khoa học trong nhà trường.
Đó chính là việc học, là cách học theo phương pháp của cuộc sống thường
ngày. Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù (phương thức học trong nhà
trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành hoạt động đặc biệt - đó
là hoạt động học, qua đó hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học, năng
lực mới phù hợp với cá nhân, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của thực
tiễn.
Cuộc sống con người là một chuỗi những hoạt động đan xen, kế tiếp
nhau, trong đó hoạt động học tập là một dạng hoạt động chính nhằm tiếp thu,
lĩnh hội những thành tựu tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử mà lồi người đã
tích luỹ được trong suốt chiều dài lịch sử.

20



Quá trình học tập, lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, tri thức của nhân loại,
cá nhân có thể tiến hành bằng nhiều cách học khác nhau. Thơng thường học
có hai dạng: học ngẫu nhiên và học có mục đích.
Học ngẫu nhiên: Đó là kiểu học được thực hiện một cách không chủ
định, nghĩa là người học lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm, hình thành kĩ năng, kĩ
xảo thơng qua việc thực hiện các hoạt động khác nhau trong đời sống hằng
ngày. Kết quả của hoạt động này là những tri thức thu được rời rạc, không hệ
thống, chỉ là những tri thức ngẫu nhiên, tiền khoa học, mục đích của việc học
sẽ khơng trùng với mục đích của hoạt động.
Thực tiễn chỉ ra rằng, để tồn tại và phát triển, con người không thể chỉ
dừng lại ở việc tiếp thu, lĩnh hội những tri thức kinh nghiệm mà đòi hỏi phải
có những tri thức khoa học, phải hình thành những năng lực thực tiễn. Song
cách học ngẫu nhiên dựa trên cơ sở hoạt động sống hằng ngày không thể đáp
ứng được. Do vậy con người phải tiến hành hoạt động học tập dưới hình thức
khác có hiệu quả hơn - đó là học có mục đích.
Học có mục đích: Đó là một dạng hoạt động đặc thù của con người.
Người học chỉ có thể thực hiện được khi họ đã đạt được ở một trình độ nhất
định như có khả năng điều chỉnh được những hành động của mình bằng mục
đích đã được ý thức, khả năng này chỉ bắt đầu được hình thành vào lúc trẻ
khoảng 5 - 6 tuổi. Cách học này giúp chủ thể lĩnh hội tri thức một cách có hệ
thống, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Hoạt động học diễn ra theo
kế hoạch, chương trình đã được vạch ra từ trước phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí lứa tuổi.
Như vậy chỉ có thực hiện hoạt động học theo đúng nghĩa là hoạt động
có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của con người thì mới có thể hình thành
ở người học những tri thức khoa học, hình thành hành vi tích cực, hình thành
cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lí và sự phát triển tồn diện nhân cách.

21



Khi bàn về hoạt động học tập, có nhiều quan niệm khác nhau, tùy thuộc
vào cách tiếp cận của các nhà khoa học.
I.B. Intenxơn, khi bàn về hoạt động nhận thức của con người cho rằng:
“Học tập là loại hoạt động đặc biệt của con người nhằm nắm vững những tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo và các hình thức nhất định của hành vi. Nó bao gồm cả ý
nghĩa nhận thức và thực tiễn” [45, tr.89].
N.V. Cudơmina bàn về hoạt động nhận thức của SV lại cho rằng: “Hoạt
động học tập là hoạt động nhận thức cơ bản của SV được thực hiện dưới sự
hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình này, việc nắm vững nội
dung cơ bản các thơng tin mà thiếu nó thì khơng thể tiến hành hoạt động nghề
nghiệp tương lai” [45, tr.89].
Theo Nguyễn Quang Uẩn, “Hoạt động học tập là hoạt động được thực
hiện theo phương thức nhà trường, do người học thực hiện dưới sự hướng dẫn
của người lớn (thầy giáo) nhằm lĩnh hội tri thức, khái niệm khoa học, và hình
thành những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, làm phát triển trí tuệ và năng lực con
người để giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra” [54,tr.148].
Theo Bùi Văn Huệ, hoạt động học tập là hoạt động có ý thức nhằm
thay đổi bản thân chủ thể hoạt động. Trong hoạt động này, các phương thức
chung của việc thực hiện những hành động nhận thức và thực tiễn trở thành
mục đích trung tâm của hoạt động. Ơng cho rằng, hoạt động học thực chất là
hoạt động nhận thức được tổ chức một cách chuyên biệt để chiếm lĩnh những
khái niệm khoa học. Nhà bác học nhận thức thế giới và phát hiện ra cái mới
cho nhân loại. Học sinh bằng hoạt động học lĩnh hội những cái mà các nhà
bác học đã khám phá ra dưới sự tổ chức của giáo viên. Nhờ vậy học sinh cũng
lặp lại đúng quy luật như quá trình phát minh của các nhà bác học. Học sinh
phát hiện ra cái mới cho chính bản thân mình, từ đó mà họ hồn thiện nhân
cách cho bản thân.


22


Theo Lê Văn Hồng: “Hoạt động học tập là hoạt động đặc thù của con
người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo, những hình thức hành vi, những dạng hoạt động nhất định,
những giá trị” [54, tr.106]).
Nhìn chung, các tác giả chưa thực sự có sự thống nhất trong quan niệm
về hoạt động học tập, nhưng có cùng quan điểm cho rằng: hoạt động học tập
là hoạt động có mục đích tự giác, có ý thức và trong đó diễn ra các quá trình
nhận thức, đặc biệt là quá trình tư duy.
Từ những quan điểm chung đó ta có thể hiểu khái quát như sau: Hoạt
động học tập là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm tiếp tu, lĩnh hội
những tri thức, kinh nghiệm của xã hội loài người được đúc kết trong nền văn
hóa xã hội, qua đó giúp chủ thể phát triển và hồn thiện nhân cách.
1.3.1.2. Bản chất của hoạt động học tập
Như chúng ta đã biết, hoạt động học tập là hoạt động đặc biệt của con
người, hoạt động học không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính bản
thân hoạt động học. Hoạt động học muốn đạt kết quả cao, người học phải ý
thức được việc học và có khả năng điều chỉnh hành động của mình theo mục
đích ấy. Để đạt được như vậy, trẻ em phải phát triển đến một trình độ nhất
định (vào lúc 5 -6 tuổi). Thông qua hoạt động này sẽ hình thành ở cá nhân
những tri thức khoa học, cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lí. Như vậy,
cùng với khái niệm về hoạt động học tập và những phân tích trên đây, ta thấy
bản chất của hoạt động học tập được thể hiện ở mấy điểm cơ bản sau:
- Đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
tương ứng với nó.
- Hoạt động học tập là hoạt động hướng chủ yếu vào làm thay đổi và
phát triển tâm lí của chủ thể học tập.


23


- Hoạt động học tập là hoạt động được điều khiển bởi mục đích có ý
thức nhằm tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
- Hoạt động học tập không chỉ hướng vào tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo mới (cái) mà còn tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân hoạt động
học tập (cách).
1.3.2. Hoạt động học tập của SV ở trường đại học
1.3.2.1. SV và đặc điểm tâm lí của SV
Thuật ngữ SV có nguồn gốc từ tiếng la tinh students có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm khai thác tri thức. Nó được dùng
nghĩa tương đương với từ student trong tiếng Anh, etudiant trong tiếng Pháp và
CTYIIeHT trong tiếng Nga để chỉ những người theo học ở bậc đại học và cao

đẳng, những người đang học tập và rèn luyện để lĩnh hội một trình độ chun
mơn cao.
Thuật ngữ SV xuất hiện đã lâu và được sử dụng chính thức vào thời kì
hình thành và phát triển các trung tâm giáo dục đại học và các trường đại học
tổng hợp trên thế giới, như trường Đại học Ốxpho (Anh) năm 1168, Đại học
Pari (Pháp) năm 1200, Đại học Praha (Sec) năm 1348…
Khái niệm SV được sử dụng rộng rãi hiện nay và được các nhà nghiên
cứu chấp nhận với nghĩa: SV là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt, là
những người đang trong q trình tích luỹ tri thức nghề nghiệp để trở thành
những chuyên gia có trình độ chun mơn cao hoạt động, lao động trong một
lĩnh vực nhất định có ích cho xã hội.
* Đặc điểm tâm lí của SV
Với tư cách là đại biểu của nhóm xã hội đặc biệt, đang chuẩn bị cho
hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội, SV đang tích cực chuẩn

bị thực hiện vai trị xã hội và khẳng định chun mơn của mình trong các lĩnh
vực. Họ là lực lượng tri thức tiến bộ bổ sung cho nguồn nhân lực của xã hội.

24


SV là những người thuộc một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách.
Lứa tuổi SV hiện đại từ 17 đến 23, ở lứa tuổi này, về cơ bản họ đã đạt đến độ
hoàn thiện về mặt thể chất và ổn định về các nét tính cách. Chính sự hồn
thiện này cho phép SV có thể giải quyết những vấn đề quan trọng mang tính
chất quyết định đến sự phát triển nhân cách của họ một cách độc lập. Đó là
việc lựa chọn nghề nghiệp sau khi đã kết thúc học tập ở trường phổ thông. Do
tuổi SV nằm trong giai đoạn thứ hai của tuổi thanh niên, nên ở họ ln bộc lộ
sự nhiệt tình, sơi nổi khát khao lí tưởng, hăng hái hoạt động muốn khẳng định
mình và có sự chín muồi nhất định của tuổi trưởng thành, cùng với một loạt
các phẩm chất đặc trưng của SV được hình thành trong quá trình học tập, tu
dưỡng ở trường đại học và cao đẳng.
Tuổi SV là thời gian nở rộ nhất của sự phát triển nói chung và tâm lí nhân
cách nói riêng. Đây là lứa tuổi thuận lợi nhất cho sự hình thành và phát triển các
chức năng tâm lí quan trọng ở con người, đặc biệt là sự phát triển năng lực trí tuệ.
Đặc điểm quan trọng nhất của lứa tuổi SV là sự phát triển của tự ý thức,
hơn nữa đây là giai đoạn tự ý thức phát triển rất cao. Họ đã ý thức và biết đánh
giá về kết quả hoạt động của chính mình, biết đánh giá về tư tưởng, đạo đức và
động cơ của hành vi. Đây chính là sự đánh giá tồn diện về bản thân mình, về
vị trí của mình trong cuộc sống, trong xã hội của SV. Sự tự đánh giá này có ý
nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện và phát triển nhân cách của SV.
Thành phần quan trọng bậc nhất tạo nên sự phát triển tự ý thức của SV
là năng lực tự đánh giá, thể hiện thái độ đối với bản thân, biểu hiện các phẩm
chất và năng lực trong hoạt động, giao tiếp và tự giáo dục. Tự đánh giá là kết
quả đánh giá từ bên ngồi, hình thành nên lịng tự trọng của cá nhân, đảm bảo

cho tính tích cực của nhân cách được thể hiện trong đời sống, trong mối quan
hệ liên nhân cách. Tự đánh giá là thành phần không thể thiếu được, nó phản
ánh năng lực hiểu biết, kĩ năng điều khiển và điều chỉnh chính mình. Tuy

25


×