Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VINAMILK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.44 KB, 15 trang )

Đề tài quản trị
MỤC LỤC
Phần 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2
Phần 2: CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VINAMILK 5
2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của công ty 5
2.2. Giới thiệu nhà quản trị 7
2.3. Từ tư duy đến hành động 8
2.4. Tầm nhìn thế kỉ 21 10
2.5. Chiến lược phát triển chủ động 11
2.6. Đi lên từ thất bại 13
2.7. Mở rộng thị trường - Liên kết quốc tế 13
2.8. Kết luận 14

1
Đề tài quản trị
Phần 1
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Nhà quản trị, thông qua các hoạt động của họ sẽ ảnh hưởng đến sự
thành công hay thất bại của tổ chức. Nhà quản trị làm thay đổi kết quả của
tổ chức bằng những quyết định mà anh ta đưa ra. Đối với huấn luyện
viên một đội bóng thì đó là quyết định tuyển mộ những ai, những cầu thủ
nào có mặt trong đội hình xuất phát, những ai được chỉ định là phụ tá huấn
luyện viên, những lối chơi nào được huấn luyện, sự thay đổi đấu pháp cho
từng trận đấu.v.v. Tương tự như vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể
khiến một doanh nghiệp thành công hay thất bại thông qua những quyết
định đúng sai của họ. Một câu nói rất đúng về vai trò có tính quyết định của
nhà quản trị đối với thành bại của một tổ chức là “một nhà quản trị giỏi sẽ
biến rơm thành vàng và ngược lại một nhà quản trị tồi sẽ biến vàng thành
rơm!”. Không khó để nhận thấy tầm quan trọng của các nhà quản trị đối với
sự tồn tại và phát triển của bất cứ một doanh nghiệp nào, đặc biệt là các
quản trị viên cấp cao (Top Managers). Vậy quản trị viên cấp cao là gì?.


Đó là các nhà quản trị hoạt động ở cấp bậc cao nhất trong một tổ
chức. Họ chịu trách nhiệm về những thành quả cuối cùng của tổ
chức. Nhiệm vụ của các nhà quản trị cấp cao là đưa ra các quyết
định chiến lược. Tổ chức thực hiện chiến lược, duy trì và phát triển
tổ chức. Các chức danh chính của quản trị viên cao cấp trong sản
xuất kinh doanh như: chủ tịch hội đồng quản trị, phó chủ tịch, các
ủy viên hội đồng quản
trị, các tổng giám đốc, phó tổng giám đốc,
giám đốc, phó giám đốc v v
Những người ảnh hưởng quyết định đối với sự thành bại của các tổ
2
Đề tài quản trị
chức không ai khác chính là những nhà quản trị như vừa được nói đến;
Như vậy, những ai là nhà quản trị? Nhà quản trị đóng những vai trò gì?
Và đặc biệt nhà quản trị cần có những khả năng cũng như những kỹ
năng gì?
Có 4 loại kỹ năng mà mỗi quản trị viên cần phải có:
Kỹ năng kỹ thuật hoặc chuyên môn/nghiệp vụ; Kỹ năng quan hệ giao
tiếp; Kỹ năng nhận thức hay tư duy (conceptual skills); Kỹ năng thiết kế.
Trong đó, Kỹ năng tư duy và thiết kế là cái khó hình thành và khó
nhất, nhưng nó lại có vai trò quan trọng nhất đối với các nhà quản trị cao
cấp. Họ cần có tư duy chiến lược tốt để đề ra đúng đường lối chính sách
đối phó có hiệu quả với những bất trắc, đe dọa, kìm hãm sự phát triển
đối với tổ chức. Họ cũng cần có khả năng hoạch định, trình độ đánh giá,
phân tích và sắp xếp các công việc liên quan đến doanh nghiệp. Hay nói
cách khác nhà quản trị cần phải có phương pháp tổng hợp tư duy hệ thống,
biết phân tích mối liên hệ giữa các bộ phận, các vấn đề Biết cách làm
giảm những sự phức tạp rắc rối xuống một mức độ có thể chấp nhận được
trong một tổ chức.
Và để xây dựng một đường hướng kinh doanh thích hợp như thế, bạn

sẽ phải là người suy nghĩ chiến lược, kèm theo đó là một tư duy kinh
doanh tốt cùng khả năng thiết kế chuyên nghiệp.
Tư duy kinh doanh có hàm nghĩa rất rộng, nó bao hàm những nhìn
nhận đúng đắn hơn về vai trò của các chiến lược kinh doanh, công việc
nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng, các hoạt động tiếp thị, quan
hệ công chúng, v.v
3
Đề tài quản trị
Việc thay đổi lối tư duy kinh doanh ngắn hạn bằng những chiến lược
có tầm nhìn xa, hay thay đổi tư duy “ai thắng ai” bằng “các bên cùng
thắng” là rất quan trọng.
Bên cạnh đó, một tư duy kinh doanh tốt sẽ từ bỏ thói quen kinh
doanh khép kín, thay vào đó là đối tác liên kết, hợp tác chiến lược cùng
phát triển cũng như thiết lập hệ thống “người lính gác ở xa”.
Tư duy kinh doanh đồng nghĩa với tư duy chiến lược. Nói cách khác,
đó là khả năng nhìn xa trông rộng, giúp bạn tránh xa những sai lầm của
tầm nhìn ngắn hạn. Tầm nhìn kinh doanh sẽ quyết định nhiều yếu tố
khác nhau, chẳng hạn như nhân sự, khả năng thu hút người giỏi, v v…
và trên cơ sở đó quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh
nghiệp.
Song song với khả năng nhận thức hay tư duy thì khả năng thiết kế
quy trình hoạt động của hệ thống trong doanh nghiệp cũng là một kỹ năng
quan trọng không kém, nó thể hiện sự thông minh, sáng tạo, chủ động và có
chiến lược của quản trị viên cấp cao.
Kỹ năng thiết kế là khả năng hoạch định, làm cơ sở cho việc thực hiện
công việc, nhằm giải quyết các vấn đề theo hướng có lợi cho doanh nghiệp.
Quản trị viên cao cấp dùng kỹ năng này để biến tư tưởng chiến lược thành
hiện thực, xây dựng giải pháp khả thi cho mỗi vấn đề và điều hành chúng
một cách có hiệu quả.
Thiết kế công việc giúp các nhà quản trị quyết định về những gì phải

được thực hiện, việc đó thực hiện như thế nào, bao nhiêu việc được thực
hiện và các công việc ấy được thực hiện theo trật tự gì?
Để hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của một nhà quản trị có khả năng tư
duy và thiết kế tốt mang lại cho doanh nghiệp những thành công gì chúng
4
Đề tài quản trị
ta hãy cùng nhau xem xét công ty cổ phần sữa Vinamilk cùng những bước
tiến của nó kể từ khi thành lập đến nay. Qua đó, chúng ta sẽ dễ dàng nhận
ra chân dung một người phụ nữ giỏi giang, thông minh, quyết đoán, cùng
sự cống hiến của bà cho doanh nghiệp này cũng như cho cộng đồng Việt.
………………………………………………
Phần 2
CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VINAMILK
2.1/ Sơ lược về sự hình thành và phát triển công ty cổ phần sữa
Vinamilk:
Vinamilk là tên gọi tắt của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vietnam
Dairy Product Joint Stock Company)
Năm 1976, Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) có tên là Công ty Sữa –
Cà Phê Miền Nam, trực thuộc Tổng cục Thực phẩm, sau khi chính
phủ quốc hữu hóa ba xí nghiệp tư nhân tại miền nam Việt Nam: nhà máy
sữa Thống Nhất ( tiền thân là nhà máy Foremost ); nhà máy sữa Trường
Thọ ( tiền thân là nhà máy Cosuvina); và nhà máy sữa Bột Dielac ( Nestle )
Năm 1982, công ty Sữa – Cà phê Miền Nam được chuyển giao về bộ
công nghiệp thực phẩm và đổi tên thành xí nghiệp liên hiệp Sữa - Cà phê –
Bánh kẹo I . Lúc này, xí nghiệp đã có thêm hai nhà máy trực thuộc, đó là:
 Nhà máy bánh kẹo Lubico.
 Nhà máy bột dinh dưỡng Bích Chi (Đồng Tháp).
5
Đề tài quản trị
Năm 1992, Xí nghiệp Liên hiệp Sữa – Cà phê – Bánh kẹo I chính thức

đổi tên thành Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) - trực thuộc Bộ Công
nghiệp nhẹ, chuyên sản xuất, chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa.
Năm 1994, Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) đã xây dựng thêm một
nhà máy sữa ở Hà Nội để phát triển thị trường tại miền Bắc, nâng tổng số
nhà máy trực thuộc lên 4 nhà máy. Việc xây dựng nhà máy là nằm trong
chiến lược mở rộng, phát triển và đáp ứng nhu cầu thị trường Miền Bắc
Việt Nam.
Năm 1996: Liên doanh với Công ty Cổ phần Đông lạnh Quy Nhơn để
thành lập Xí Nghiệp Liên Doanh Sữa Bình Định. Liên doanh này tạo điều
kiện cho Công ty thâm nhập thành công vào thị trường Miền Trung Việt
Nam.
Năm 2000: Nhà máy sữa Cần Thơ được xây dựng tại Khu Công Nghiệp
Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tốt hơn của
người tiêu dùng tại đồng bằng sông Cửu Long. Cũng trong thời gian này,
Công ty cũng xây dựng Xí Nghiệp Kho Vận có địa chỉ tọa lạc tại: 32 Đặng
Văn Bi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2003: Công ty chuyển thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
(Tháng 11). Mã giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán là VNM.
Năm 2004: Mua thâu tóm Công ty Cổ phần sữa Sài Gòn. Tăng vốn điều
lệ của Công ty lên 1,590 tỷ đồng.
Năm 2005: Mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty
Liên doanh Sữa Bình Định (sau đó được gọi là Nhà máy Sữa Bình Định) và
khánh thành Nhà máy Sữa Nghệ An vào ngày 30 tháng 06 năm 2005, có
địa chỉ đặt tại Khu Công Nghiệp Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An.
6
Đề tài quản trị
Năm 2009: Phát triển được 135.000 đại lý phân phối, 9 nhà máy và nhiều
trang trại nuôi bò sữa tại Nghệ An, Tuyên Quang.
Giai đoạn 2010 - 2012: Xây dựng nhà máy sữa nước và sữa bột tại Bình
Dương với tổng vốn đầu tư là 220 triệu USD.

Năm 2011: Đưa vào hoạt động nhà máy sữa Đà Nẵng với vốn đầu tư 30
triệu USD.
2.2/ Giới thiệu nhà quản trị
Mai Kiều Liên sinh năm 1953, là một nữ doanh nhân Việt Nam, Chủ
tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Sữa Việt
Nam Vinamilk. Khởi nghiệp với tấm bằng kỹ sư công nghệ chế biến sữa từ
năm 1976, qua nhiều năm bà đã vươn lên để trở thành người lãnh đạo cao
nhất của Vinamilk, đóng góp rất lớn trong việc xây dựng Công ty Sữa Việt
Nam có được vị thế như hiện nay. Bà từng là Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII.
7
Đề tài quản trị
Sơ đồ quản lí của công ty:
2.3/ Từ tư duy đến hành động:
Gắn bó cùng những thay đổi và phát triển của Vinamilk hơn ai hết bà
Mai Kiều Liên hiểu công ty, hiểu được những ưu và khuyết điểm của
Vinamilk. Từ đó bà đưa ra những chiến lược phù hợp cho tình hình của
công ty. Tuy Vinamilk bắt nguồn là công ty nhà nước nhưng bà Mai Kiều
Liên với tư duy nhạy bén và linh hoạt cùng khả năng nắm bắt những cơ hội,
bà chủ động mở rộng và đa dạng hóa trong thành phần Hội đồng quản trị,
điều đó có thể thấy ở chỗ có sự tham gia của ông Dominic Scriven – Giám
đốc Dragon Capital.
8
Đề tài quản trị
Với bà Mai Kiều Liên cũng như Vinamilk, sản xuất luôn luôn gắn với
thị trường, luôn luôn ổn định trong mọi điều kiện khó khăn phức tạp của cơ
chế ban đầu cũng như nhiều khó khăn xã hội trong từng giai đoạn.
Trong những năm đầu thành lập tình hình sản xuất gặp nhiều khó khăn
phức tạp: máy móc thiết bị hư hại nhiều, phụ tùng thiếu thốn, nguyên liệu
trống không. Nhưng dưới sự dẫn dắt của nhà quản trị tài ba này, từ năm

1988, để tạo ra nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu và thiết bị, bà Mai
Kiều Liên (khi đó là Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh - PV) đã
mạnh dạn đưa ra phương thức liên kết đổi sản phẩm với những công ty
trong nước. Nhiều giải pháp kỹ thuật đã ra đời như đổi hàng lấy nguyên
liệu cho sản xuất; liên kết với các đơn vị trong nước vừa khôi phục nhà
máy, vừa sản xuất và phân phối sản phẩm. Trong điều kiện đó, công ty vẫn
đảm bảo một lượng hàng nhất định để phục vụ người tiêu dùng, đối tượng
chủ yếu là người già, người bệnh và trẻ em . Ghi nhận thành tích trong giai
đoạn này, năm 1986 công ty được Nhà nước tặng Huân chương lao động
hạng Ba.
Bà Mai Kiều Liên không giấu được niềm tự hào khi nói về thắng lợi
trong việc trúng thầu cung cấp sữa vào thị trường Iraq. Bởi từ năm 1998,
Vinamilk đã xuất khẩu trực tiếp vào thị trường này. Thành công này có
được sau 2 lần liền bà đến Iraq khi chiến sự chực chờ để tìm hiểu thị
trường.
Thế nhưng, từ năm 2002, biến động chính trị tại khu vực Trung Đông đã
làm giảm mạnh lượng hàng xuất khẩu của công ty. Năm 2004, sản phẩm
của Vinamilk đã phải dừng lại bên ngoài biên giới Iraq do những người có
trách nhiệm mới ở Iraq muốn có một sự thay đổi về nhiều lĩnh vực, trong
9
Đề tài quản trị
đó cả những quan hệ kinh doanh. Tuy nhiên, sau khi xét thầu sơ bộ, họ phải
mời Vinamilk tham gia. Đó là thành quả cho sự nổ lực hành động không
ngừng của Vinamilk nói chung và bà Mai Kiều Liên nói riêng.
2.4/ Tầm nhìn thế kỷ 21
Vừa là một nhà lãnh đạo và kỹ sư công nghệ bà Liên đã ý thức được rằng
bất cứ ngành nghề nào không đầu tư công nghệ ban đầu thì sẽ dẫn đến
không cạnh tranh và đào thải nên từ những năm 1986 bà đã đầu tư công
nghệ cho công ty sữa Vinamilk vào loại bật nhất khu vực Đông Nam Á.
Đây là yếu tố quyết định cho sự sống còn và vươn lên của một công ty sữa

Việt Nam bởi vì rất ít người ngay cả hiện tại vẫn bảo thủ và không hề đầu
tư công nghệ cho sản xuất, nhưng tại thời điểm 1986 bà đã thấy được điều
này cho thấy bà là người biết nhìn trước tương lai của thế kỷ 21_ thế kỷ của
khoa học và công nghệ cao.
Cụ thể, trên chặng đường 34 năm gắn bó, với 18 năm giữ trọng trách
“thuyền trưởng” con tàu Vinamilk, bà Mai Kiều Liên luôn trăn trở suy
nghĩ, làm sao đưa được Vinamilk vững vàng ra biển lớn sánh vai các
thương hiệu danh tiếng trên thế giới. “Để làm điều này thì phải xây dựng,
phát triển thương hiệu mà điều quan trọng hàng đầu là ứng dụng khoa học -
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm;chúng tôi chủ trương lựa
chọn đầu tư trang thiết bị công nghệ tiên tiến thế hệ mới nhất hiện có” - bà
Mai Kiều Liên nói. Bà đã cùng các chuyên gia kỹ thuật đến các nước có
nền công nghiệp sản xuất sữa hàng đầu thế giới tìm hiểu kỹ thuật và nhập
về máy móc công nghệ chế biến sữa vượt trội, không thua kém bất cứ hãng
sữa nào. Bên cạnh đó, Vinamilk đã xây dựng phòng thí nghiệm hiện đại,
tạo điều kiện cho các kỹ sư, chuyên gia giỏi trong và ngoài nước làm việc.
10
Đề tài quản trị
Để vươn lên làm chủ khoa học - công nghệ trên lĩnh vực công nghiệp
chế biến sữa, bà Mai Kiểu Liên còn tổ chức liên kết, cộng tác với các viện
nghiên cứu, các nhà khoa học trong nước, sử dụng các phát minh sáng chế
của các nhà khoa học VN. Việc khôi phục Nhà máy sữa bột Dielac là một
minh chứng sinh động. Bằng chất xám của các nhà khoa học trong nước,
thiết bị sản xuất trong nước, kinh phí đầu tư chỉ 200.000 USD, Nhà máy
sữa Dielac đã được khôi phục và đưa vào vận hành với chất lượng sản
phẩm tốt hơn trước, đặc biệt là đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong
khi đó, nếu thuê chuyên gia nước ngoài và nhập khẩu toàn bộ thiết bị để
khôi phục nhà máy này phải mất trên 3 triệu USD… Theo hướng đó,
Vinamilk đã có nhiều sản phẩm ra đời từ các công trình nghiên cứu khoa
học trong nước và của chính bà Mai Kiều Liên, được người tiêu dùng ưa

chuộng, như sữa chua, sữa chua kem, sữa bột cho trẻ em sơ sinh, sữa đặc có
đường sản xuất từ dầu thực vật Vinamilk hiện có trên 200 mặt hàng sữa và
các sản phẩm từ sữa. Với thành tích đó, bà Mai Kiều Liên đã được Tổ chức
Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) trao tặng bằng khen "Giải nhất Lao động
sáng tạo năm 2004”
2.5/ Chiến lược phát triển chủ động
Ngành công nghiệp chế biến sữa VN đang đứng trước một khó khăn lớn
là phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. “Điều day dứt
lớn nhất của ngành sữa là chúng ta chưa chủ động được 100% nguồn
nguyên liệu” - bà tâm sự. Tháo gỡ khó khăn này, hướng đến chủ động
nguồn nguyên liệu sản xuất sữa, bà Mai Kiều Liên chủ trương phát triển
11
Đề tài quản trị
chăn nuôi đàn bò sữa ở Việt Nam. Thực ra bò sữa đã được đưa vào
Việt Nam chăn nuôi từ những năm 1920, nhưng đến nay ngành chăn nuôi
bò sữa vẫn chưa phát triển mạnh dù nước ta có nhiều vùng chăn nuôi bò
sữa thuận lợi, như Lâm Đồng, Mộc Châu… Ở đó, sữa sau khi vắt ra, chế
biến ở nhiệt độ 72 độ C thì gần như còn nguyên giá trị dinh dưỡng. Tuy
nhiên, giá thu mua sữa hiện không kích thích chăn nuôi. Trung bình giá
mua trên toàn quốc là 7.000 đồng/lít. Người chăn nuôi bị thua lỗ nên tỷ lệ
tăng trưởng đàn bò có thể nói gần như bằng 0. Từ thực tế đó, bà Mai Kiều
Liên mạnh dạn đề ra giải pháp mới. Những năm đầu thập niên 1990,
Vinamilk đã khẩn trương nhập máy móc hiện đại để sản xuất sữa tươi tiệt
trùng và thu mua sữa của nông dân với giá cao hơn nguyên liệu sữa nhập
khẩu. Vinamilk không ngần ngại giảm lãi để khuyến khích phát triển đàn
bò sữa trong nước. Từ đó, các trang trại bò sữa của Vinamilk đã hình thành
và phát triển suốt từ Bắc vào Nam. Mỗi trang trại nuôi khoảng 2.000 con bò
sữa. Mặt khác, Vinamilk chuyển giao con giống, kỹ thuật chăn nuôi cho bà
con nông dân để họ vững vàng trong chăn nuôi bò sữa. Năm 1990-1991,
đàn bò sữa chỉ mới khoảng 3.000 con thì nay đã phát triển đến trên 107.000

con, cho sản lượng sữa trên 130 triệu lít/năm, chiếm 25% tổng số nguyên
liệu sản xuất của Vinamilk. Và mục tiêu của Vinamilk là phấn đấu đến năm
2015 sẽ chủ động được 50% nguồn nguyên liệu. Quyền lợi của người chăn
nuôi bò sữa cũng được mở rộng. Bà Mai Kiều Liên cho biết,
khi Vinamilk cổ phần hóa, nông dân được mua cổ phần ưu đãi với giá chỉ
bằng 70% mệnh giá. Những nông dân không có tiền mua cổ phần
được Vinamilk bảo lãnh vay vốn để mua. Tính nhân văn thể hiện rõ trong
chiều sâu chiến lược phát triển.
Nhờ chủ động tạo được nguồn nguyên liệu, có nhiều sản phẩm chất
lượng tốt, sức cạnh tranh tăng cao,Vinamilk liên tục mở rộng thị phần.
12
Đề tài quản trị
2.6/ Đi lên từ thất bại
Gần 20 năm giữ trọng trách "thuyền trưởng", bà Mai Kiều Liên gặt hái
nhiều thành công nhưng cũng không ít thất bại. Sau cổ phần hóa năm 2003,
đến năm 2006 Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán, lúc đó vốn
hoá trên thị trường là 530 triệu đôla Mỹ, qua 5 năm, nay vốn hoá đạt được 2
tỷ đôla Mỹ, tăng gần 4 lần. Đà thăng hoa đó khiến Vinamilk định hướng
phát triển thành tập đoàn thực phẩm và nước giải khát đa ngành với sữa,
các sản phẩm từ sữa và ngoài ngành sữa như bia, cà phê thương hiệu
Vinamilk. Thế nhưng việc hợp tác đầu tư liên doanh sản xuất bia Zorok
cùng SabMiller, nhà máy sản xuất cà phê không như mong đợi, Vinamilk
phải chuyển nhượng lại 2 dự án này để bảo toàn vốn.
Rút kinh nghiệm thất bại trên, bà Mai Kiều Liên chỉ hướng tới duy
nhất một lĩnh vực (sữa) và tập trung mọi nhân lực, vật lực. Nguồn vốn sau
khi chắt chiu qua từng năm chỉ dùng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất cho
ngành sữa, chứ không đầu tư trái ngành hay rót vào chứng khoán, bất động
sản như gợi ý của nhiều người. Cũng chính vì điều này mà hiện tại,
Vinamilk chủ động nguồn vốn cho các dự án và hàng loạt kế hoạch đang ấp
ủ mà không phải toan tính nên gõ cửa nhà băng nào. Gần đây, ngoài việc

13
Đề tài quản trị
mua lại cổ phần của Công ty sữa Thanh Hóa và Bình Định, Vinamilk cũng
nghiên cứu mua những công ty đang có nhu cầu bán.
2.7/ Mở rộng thị trường - Liên kết quốc tế
Theo bà Mai Kiều Liên, trong hội nhập kinh tế quốc tế, bà luôn hướng
cho công ty cố gắng đi hai chân vững chắc, chiếm lĩnh thị trường trong
nước và quốc tế. Nhờ tự lực ngay từ đầu nên giờ đây, quy trình sản xuất, hệ
thống phân phối, nguồn nhân lực của Công ty Vinamilk đã được chuẩn
hóa. Bên cạnh sự tìm tòi, nghiên cứu những công nghệ sản xuất mới, thì
việc liên doanh liên kết với các đối tác là một phương châm hành động của
vị nữ giám đốc trên con đường phát triển doanh nghiệp.
Mới nhất là liên doanh với Tập đoàn Campina (Hà Lan) "Gần đây có
nhiều tập đoàn nước ngoài đề nghị liên doanh xây dựng thêm các nhà máy
sản xuất mới theo tỷ lệ 70:30 (nước ngoài góp 70% vốn, Vinamilk góp 30%
vốn). Chúng tôi không đồng ý vì hiện nay, chúng tôi chỉ muốn liên doanh ở
tư thế bình đẳng 50:50" - bà Liên nhấn mạnh. Cũng theo bà Liên, thay vì
đối đầu, Vinamilk chủ động liên doanh với các đối tác nước ngoài để tận
dụng những điểm mạnh của họ cho sự phát triển của công ty. Đó là hệ
thống phân phối trên toàn thế giới, chiến lược marketing toàn cầu của các
tập đoàn lớn.
Những người quan tâm đến hoạt động phát triển thương hiệu của ngành
sữa Việt Nam có lẽ khó quên một sự kiện vang dội của Vinamilk. Đó là vào
năm 2005, lần đầu tiên một thương hiệu Việt -Vinamilk đã chiến thắng
ngoạn mục trên thị trường Iraq khi vượt qua 15 hãng sữa danh tiếng thế
giới để thắng thầu bằng các lợi thế của chất lượng sản phẩm sữa, giá cả và
14
Đề tài quản trị
uy tín thực hiện hợp đồng cho đối tác. Đến nay, tại các thị trường khó tính
khác như Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Úc, Ba Lan, các nước khu vực Trung

Đông, Đông Nam Á…, sản phẩm Vinamilk đều được xuất khẩu trực tiếp
bằng nhãn hiệu của mình với kim ngạch từ 2-3 triệu USD/năm.
2.8/ Kết luận
Có thể nói những thành tích trên là kết quả lao động miệt mài và cống
hiến của đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty và đặc biệt là công lao
không nhỏ của bà Mai Kiều Liên-quản trị viên cấp cao nhất của
Vinamilk với một tư duy chiến lược chủ động và sáng tạo cùng khả năng
thiết kế linh hoạt trong công việc. Quả thật không quá khi nhìn nhận
rằng trong một môi trường kinh doanh sức ép lớn ngày nay, thành công
chỉ tới với sự song hành của những nổ lực thay đổi về tư duy chiến lược
và một bộ óc thiết kế ngày càng hoàn hảo của các quản trị viên cao cấp.
Người chiến thắng sẽ là những ai đứng trước đường cong của sự thay
đổi, không ngừng xem xét và tự hoàn thiện mình để tạo ra những thị
trường mới, khai phá những con đường mới và sáng tạo ra các quy tắc
phù hợp với thương trường đầy biến động này.
15

×