Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Hiến pháp đạo luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.97 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
PHẦN A. LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................1
PHẦN B: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI VÀ HIẾN PHÁP...........................................................................2
1.1.

Quyền con người............................................................................2

1.1.1.

Khái niệm.................................................................................2

1.1.2.

Nội dung...................................................................................2

1.2.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam..................3

1.2.1.

Khái kiệm.................................................................................3

1.2.2.

Nội dung...................................................................................3

CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HIẾN PHÁP 1946- 2013..............................................................4


2.1. Hiến pháp 1946..................................................................................4
2.2. Hiến pháp 1959..................................................................................4
2.3. Hiến pháp 1980..................................................................................5
2.4. Hiến pháp 1992..................................................................................6
2.5. Hiến pháp 2013..................................................................................6
PHẦN C: KẾT LUẬN.....................................................................................9


PHẦN A. LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người dân Việt Nam lao động cần cù,
sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước; hun đúc nên truyền
thống đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Qua các thời
kỳ, nước ta đã ban hành 05 bản Hiến pháp (năm 1946, năm 1959, năm 1980,
năm 1992, năm 2013). Mỗi bản Hiến pháp đều gắn liền với một giai đoạn
phát triển của đất nước.
Hiến pháp đạo luật cơ bản có giá trị pháp lí cao nhất. Hiến pháp là nền
tảng cho hệ thống các văn bản pháp luật khác, đồng thời góp phần nền tảng
tạo lập một thể chế chính trị dân chủ và một Nhà nước minh bạch, quản lý xã
hội hiệu quả, bảo vệ tốt các quyền lợi của người dân. Từ đó, tạo cơ sở phát
triển bền vững cho một quốc gia. Điều này quyết định to lớn đến sự thịnh
vượng của quốc gia ấy. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tơi đã lựa chọn chủ
đề “ Hiến pháp- đạo luật bảo vệ quyền cơ bản của con người” làm đề tài
nghiên cứu


PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI VÀ HIẾN PHÁP
1.1.


Quyền con người

1.1.1. Khái niệm
Trước hết, chúng ta cần điểm qua về thuật ngữ liên quan “Quyền cơ
bản của con người”
Theo các nhà khai sáng cuối thế kỉ 17 đầu thế kỉ 18 thì đó là những
quyền cơ bản mà tạo hóa đã ban cho họ và khơng ai có thể xâm phạm được.
Các quyền này không thể bị phá hủy khi một xã hội dân sự được thiết lập, và
không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hay “chuyển nhượng”
những quyền này.
1.1.2. Nội dung
Các quyền này bao gồm: Quyền tự do ngôn luận, thể hiện và tự do báo
chí; tự do tơn giáo; tự do hội họp lập hội; quyền bình đẳng trước pháp luật,
quyền được xét xử cơng bằng và theo đúng trình tự tố tụng.
Trong 21 khoản đầu tiên của Tun ngơn, chúng ta có thể kể ra những
quyền cơ bản sau đây: Quyền được sống, được tự do và được đảm bảo an
ninh cá nhân, quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền không bị tra tấn hay chịu
những hình phạt độc ác, vơ nhân đạo hay chà đạp phẩm giá con người, quyền
được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng,
quyền được khiếu nại đến sự xét xử của những tịa án quốc gia có thẩm
quyền, quyền không bị bắt giữ, giam cầm hay dày ải trái phép, quyền khơng
bị độc đốn vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, quyền được đi lại,
quyền được cư trú, quyền được một quốc tịch, quyền được kết hơn và lập gia
đình, quyền được sở hữu, quyền được tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo, tự
do ngôn luận, tự do phát biểu, tự do hội họp.


1.2.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


1.2.1. Khái kiệm
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp
luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Bản hiến pháp
đang có hiệu lực là bản của năm 2013, là bản Hiến pháp của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6
thông qua vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực vào ngày 1 tháng
1 năm 2014.
1.2.2. Nội dung
Hiến pháp hiện hành năm 2013 gồm lời mở đầu và 11 chương:
Chương I: Chế độ chính trị
Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Chương III: Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, cơng nghệ và
mơi trường
Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc
Chương V: Quốc hội
Chương VI: Chủ tịch nước
Chương VII: Chính phủ
Chương VIII: Tồ án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Chương IX: Chính quyền địa phương
Chương X: Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
Chương XI: Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp


CHƯƠNG II: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG HIẾN PHÁP 1946- 2013
2.1. Hiến pháp 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu
tiên trong lịch sử nước nhà ... dân tộc Việt Nam đã có mọi quyền tự do ... phụ
nữ Việt Nam đã được ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi

quyền cá nhân của công dân”.
Hiến pháp năm 1946 được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa
thơng qua ngày 09/11/1946 với 7 chương và 70 Điều. Trong đó, chương
“Quyền và nghĩa vụ của cơng dân” được xếp thứ 2 gồm 18 Điều. Lần đầu tiên
trong lịch sử Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng dân tộc trong đạo luật
có giá trị pháp lý cao nhất. Ngồi ra, Hiến pháp cũng quy định đàn bà ngang
quyền với đàn ơng trên mọi phương diện, có quyền tự do ngôn luận, quyền tư
hữu tài sản được bảo đảm,... Đặc biệt tại Điều 21 ghi nhận: “Nhân dân có
quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc
gia”. Hiến pháp năm 1946 đã tuyên bố với cả thế giới rằng nước Việt Nam là
một nước độc lập, dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do, phụ nữ đã
được đứng ngang hàng với đàn ông để hưởng chung mọi quyền tự do của một
cơng dân, nêu tinh thần đồn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một
tinh thần liêm khiết, cơng bình của các dân tộc.
2.2. Hiến pháp 1959
Hiến pháp năm 1959 được thông qua ngày 31/12/1959, bao gồm 10
chương 112 Điều, trong đó Quyền và Nghĩa vụ của cơng dân được quy định
tại chương III, bao gồm 21 Điều. So với Hiến pháp 1946 thì Hiến pháp 1959
đã bổ sung những quy định mới về quyền con người như: Quyền khiếu nại tố
cáo với cơ quan Nhà nước (Điều 29), Quyền làm việc (Điều 30), Quyền nghỉ
ngơi (Điều 31). Bên cạnh quy định quyền, Hiến pháp 1959 cũng quy định cụ
thể những nghĩa vụ cơ bản của công dân. Một điều đáng lưu ý, Hiến pháp


1946 đề cao vai trò của nhân dân trong quá trình lập hiến, theo đó nhân dân
có quyền phúc quyết Hiến pháp. Tuy nhiên, Hiến pháp 1959, 1980 và 1992
sau này đều bãi bỏ quyền này. Đây là một quyền dân chủ trực tiếp rất quan
trọng của công dân và nên được khôi phục lại.
Với sự thay đổi của nền kinh tế - xã hội, Hiến pháp 1959 ra đời phần
nào đã khắc phục được những hạn chế, những điều khoản khơng cịn phù hợp

với tình hình của Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 1959 có thể xem như là
một bước tiến mới trong kỹ năng lập hiến Việt Nam.
2.3. Hiến pháp 1980
So với Hiến pháp 1946 và 1959 thì quyền con người thể hiện trong
Hiến pháp 1980 ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn, các Điều luật ngày
càng cụ thể hơn, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các quy định từ các
bản Hiến pháp trước đó. Nếu như Hiến pháp năm 1946 quy định quyền bình
đẳng tại Điều 6 đến Điều 9 trong đó có các nội dung là: “Tất cả cơng dân Việt
Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hố. Tất cả
cơng dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính
quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Ngồi
sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi
phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung. Đàn bà ngang quyền với đàn
ơng về mọi phương diện” thì đến Hiến pháp năm 1980, đối với quyền bình
đẳng nam, nữ (Điều 63), Hiến pháp bổ sung bốn điểm mới: Nhà nước và xã
hội có nghĩa vụ chăm lo nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ
thuật và nghề nghiệp của phụ nữ để phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội;
Nhà nước cần hoạch định chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ
nữ; xã viên hợp tác xã cũng được hưởng phụ cấp sinh đẻ; Nhà nước và xã hội
phải chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, các nhà ăn
công cộng và những cơ sở phúc lợi khác. Khơng chỉ là nội dung ngày càng
hồn thiện mà số lượng các điều khoản ở Hiến pháp 1980 cũng nhiều hơn so


với bản Hiến pháp trước. Nếu trước đây, ở Hiến pháp năm 1946 chỉ có 18
Điều quy định về quyền và nghĩa vụ của cơng dân thì ở Hiến pháp năm 1959
là 21 Điều và Hiến pháp năm 1980 là 29 Điều.
2.4. Hiến pháp 1992
Đất nước từng ngày thay đổi, có những quy định về vấn đề quyền con
người trong Hiến pháp 1980 đã khơng cịn phù hợp nữa mà buộc phải thay

đổi bằng một bản Hiến pháp mới phù hợp hơn với tình hình đất nước lúc bấy
giờ nên bản Hiến pháp 1992 đã ra đời, có những điểm mới phù hợp hơn các
bản Hiến pháp trước đó. Lần đầu tiên, thuật ngữ “quyền con người” được
thừa nhận trong Hiến pháp. Số lượng các quyền và nghĩa vụ ghi nhận trong
chương về Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của cơng dân cũng có bước phát triển,
khơng chỉ so với ba bản Hiến pháp trước mà còn so với Hiến pháp của các
nước. Nếu Hiến pháp 1946 có 28 Điều về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, Hiến pháp 1959 có 21 Điều, Hiến pháp 1980 có 28 Điều thì Hiến pháp
1992 có 34 Điều trong tổng số 147 điều của tồn bộ Hiến pháp. Cũng chính vì
việc tăng các Điều luật hơn so với các bản Hiến pháp trước đó mà quyền cơng
dân ở Hiến pháp 1992 được mở rộng hơn so với 3 bản Hiến pháp trước.
Những thay đổi đó thể hiện kỹ thuật lập hiến ngày một nâng cao. Cũng
như các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 hay 1980, các quyền của công dân
được quy định trong Hiến pháp 1992 đã được bổ sung và cụ thể hóa hơn để đi
đến hồn thiện. Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận quyền tư hữu như là một
trong những quyền cơ bản nhất của công dân. Việc xác định lại quyền tư hữu
của công dân - một trong những quyền cơ bản nhất của con người, là một nội
dung căn bản nhất của bản Hiến pháp năm 1992.
2.5. Hiến pháp 2013
Việc thay đổi Hiến pháp là một điều cần thiết để phù hợp hơn với sự
phát triển của đất nước, bản Hiến pháp năm 2013 ra đời có 11 chương, 120
Điều được thơng qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực ngày 01/01/2014. Trong


đó, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân là
chương có số lượng Điều luật nhiều nhất, gồm 36 Điều (từ Điều 14 đến Điều
49). Quyền con người được quy định trong chương II của Hiến pháp năm
2013, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại chương V của
Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con

người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện
như: đưa vị trí chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân"  từ chương
V trong Hiến pháp năm 1992 về chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay
đổi vị trí nói trên khơng đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay
đổi về nhận thức. Đề cao chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp, coi nhân dân
là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí quan trọng hàng đầu
trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là thể hiện nhất quán đường lối
của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ “quyền con
người” thông qua quy định “quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế,
văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân” tại Điều 50, Hiến pháp
năm 1992 lại chưa phân biệt rạch ròi được quyền con người với các quyền cơ
bản của công dân.  Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự
phân biệt giữa “quyền con người” và “quyền cơng dân”. Trong Hiến pháp sửa
đổi, khi nói đến quyền con người thì dùng từ “mọi người”, khi nói đến cơng
dân Việt Nam thì dùng từ “cơng dân”. Quy định này thể hiện sự phát triển
quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp. Theo quy định tại Điều 14, không ai được
tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói
trên do Luật định. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi quy định: việc hạn chế quyền


con người, quyền cơng dân dứt khốt phải được quy định bằng Luật, không
phải

bằng

văn


bản

dưới

luật.

Hiến pháp mới bổ sung một số quyền mới, thể hiện bước tiến mới trong việc
mở rộng và phát triển quyền, phản ảnh kết quả của quá trình đổi mới ở nước
ta. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến
xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, Quyền được
sống trong môi trường trong lành (Điều 43). Việc ghi nhận các quyền mới này
hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là
thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng
định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người.
Ngồi ra, quyền con người khơng chỉ đề cập ở chương II mà ở nhiều
chương khác như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tịa án
nhân dân. Như vậy, bộ máy nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người.
Cách tiếp cận quyền con người này thể hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm
tiến bộ của các nước trên thế giới.
 


PHẦN C: KẾT LUẬN
Như vậy, cả năm bản Hiến pháp vấn đề “quyền cơ bản của con người”
đều được ghi nhận nó gắn liền với những quyền cơ bản của cơng dân. Hiến
pháp sau là sự kế thừa có chọn lọc, bổ sung những quyền của con người của
Hiến pháp trước. Có thể nói vấn đề đảm bảo những quyền cơ bản của con
người là một trong những tư tưởng xuyên suốt lịch sử lập hiến của nhà nước
ta.

Đặc biệt, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã thể
hiện được ý Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của tinh thần dân chủ, đổi mới,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền trong thời kỳ mới. Từ đó cho thấy quyết tâm của Đảng và
Nhà nước trong nỗ lực nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, hướng đến
mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Wikipedia.org
- />- />- />


×