Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc việt nam và sự kế thừa nó trong xây dựng gia đình văn hoá mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.78 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA
DÂN TỘC VIỆT NAM.........................................................................................2
1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................2
1.1.1. Quan niệm về đạo đức..............................................................2
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống.....................................................2
1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.......4
1.2.1. Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và
tự cường dân tộc.............................................................................................4
1.2.2. Lịng u thương, độ lượng, sống có nghĩa tình với con người5
1.2.3. Tinh thần cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động sản xuất. .6
1.2.4. Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo..............................7
CHƯƠNG II: SỰ KẾ THỪA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN
THỐNG TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HĨA MỚI HIỆN NAY.....9
2.1. Thực trạng phát huy giá trị văn hóa truyền thống của gia đình
Việt Nam............................................................................................................9
2.1.1. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị
truyền thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại......................................................9
2.1.2. Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu
trong cuộc sống_Ảnh minh họa.....................................................................9
2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá
trị hiện đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời.............................................10
2.1.4. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng
đồng..............................................................................................................12
2.2. Một số thành tự và hạn chế đạt được.........................................13
i


2.2.1. Một số thành tựu đạt được......................................................13


2.2.2. Một số hạn chế tồn tại.............................................................14
2.3. Một số giải pháp trong xây dựng gia đình văn hóa mới hiện nay
..........................................................................................................................15
KẾT LUẬN...................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................18

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt
Nam đã viết lên những trang sử hào hùng. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc đã tạo
nên nhân cách con người Việt Nam với các giá trị đạo đức vô cùng phong phú. Cùng
với thời gian, các giá trị đạo đức này được lưu truyền qua các thế hệ, trở thành truyền
thống tốt đẹp, là sức mạnh và động lực của dân tộc. Hòa cùng với dòng chảy lịch sử
dân tộc, vùng quê hưng thịnh và yên bình với tên gọi “Hưng Yên” đã chứa đựng cả bề
dày và sự phong phú, độc đáo của vùng văn hóa sông Hồng, đồng thời phát huy được
các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Những thế hệ con người Hưng n đã mang
trong mình dịng máu của người Việt Nam với đầy đủ các giá trị đạo đức truyền thống:
Yêu quê hương, đất nước; đoàn kết, anh dũng trong cải tạo thiên nhiên và chống giặc
ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất; ham học hỏi và giàu lòng nhân
nghĩa, thủy chung...
Hiện nay, những tác động đa chiều của nền kinh tế thị trường đòi hỏi chúng ta
một mặt, phải quan tâm tới phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra cuộc sống đầy đủ cho
nhân dân, mặt khác duy trì và phát huy giá trị đạo đức truyền thống, đặc biệt cho thế
hệ trẻ. Trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, thanh niên, sinh viên đang đứng
trước những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng phải sẵn sàng đối mặt với những thách
thức, khó khăn. Việc tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế
giới và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đã giúp thanh niên, sinh viên có nhận thức,
tư duy phát triển, thị hiếu thẩm mỹ nâng lên.

Do vậy, sau quá trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài “ Giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và sự kế thừa nó trong xây dựng gia đình
văn hố mới hiện nay” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA DÂN TỘC
VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Quan niệm về đạo đức
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội, phán ánh tồn tại xã hội, phán ánh hiện thực đời sống xã hội.
Ngày nay, đạo đức được hiểu là một trong những phương thức cơ bản điều tiết
chuẩn mực hoạt động của con người, là một hình thái ý thức xã hội, là một dạng của
quan hệ xã hội (quan hệ đạo đức) là đối tượng nghiên cứu của đạo đức học.
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một trong những giá trị tinh
thần mà xã hội loài người đã sáng tạo ra. Đó là một hệ thống chuẩn mực, quan niệm,
giá trị và nguyên tắc được hình thành trong đời sống xã hội nhằm điều chỉnh hành vi
của con người, qua đó điều chỉnh mối quan hệ giữa người này với người khác, giữa cá
nhân với xã hội, được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống, tập quán và sức
mạnh của dư luận xã hội.
1.1.2. Giá trị đạo đức truyền thống
Khái niệm
Giá trị đạo đức truyền thống là tồn bộ những tư tưởng, tình cảm, những chuẩn
mực, quy tắc, phong tục, tập quán đạo đức được truyền từ đời này sang đời khác và
được mọi người hay một cộng đồng người nhất định tự nguyện noi theo.
Nói đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù của
đạo đức Việt Nam với những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã hình thành và bảo lưu cho

đến thời điểm hiện tại. Đó là các giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, tính ổn định
tương đối, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thể hiện trong các chuẩn
mực mang tính phổ biến có tác dụng điều chỉnh hành vi giữa cá nhân và cá nhân, giữa
cá nhân và xã hội.
Đặc điểm
2


Các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc hình thành gắn với điều kiện lịch sử cụ
thể của Việt Nam trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là kết quả và động lực to lớn
của quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Đồng thời là kết quả của quá
trình tiếp thu sáng tạo tinh hoa của nhiều trào lưu tư tưởng, văn hóa lớn của thế giới để
bồi đắp thêm cho những giá trị đạo đức – văn hóa vốn có của mình.
Chủ nghĩa u nước là tình u đối với đất nước, lịng trung thành với Tổ quốc
biểu hiện ở khát vọng và hành động tích cực để phục vụ lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân. Tình yêu là tình cảm phổ biến của nhân dân các dân tộc trên thế giới. V.I. Lênin
đã từng khẳng định: “chủ nghĩa yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất đã
được củng cố qua hàng năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập” . Song
sự hình thành sớm hay muộn, nội dung cụ thể, hình thức và mức độ biểu hiện của nó
tùy thuộc vào điều kiện lịch sử đặc thù của từng dân tộc.
Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng sâu sắc, là một giá trị được tạo nên từ
trong chiều sâu văn hóa dân tộc, là nhân tố tinh thần hợp thành động lực thúc đẩy quá
trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Tinh thần lao động cần cù, tiết kiệm là một giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc ta, được hình thành do điều kiện sản xuất và đấu tranh xã hội trong lịch sử dân tộc.
Cần cù là biểu hiện thái độ của con người trong hoạt động sáng tạo ra của cải vật chất,
tinh thần và các mặt hoạt động khác của con người. Nó là kết quả và điều kiện khơng
thể thiếu được trong q trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Đối với mỗi
người Việt Nam, cần cù, siêng năng, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động là điều phải
làm vì có như vậy mới có của cải vật chất.

Truyền thống hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ nhiều thế hệ là
một trong những giá trị truyền thống dân tộc, nó luôn được kế thừa phát huy. Đảng ta
luôn ý thức sâu sắc rằng “giáo dục là quốc sách hàng đầu” là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Việt Nam từ xưa tới nay. Ngay từ rất sớm con người đã nhận thức được học
hành khơng chỉ là quyền lợi mà cịn nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Người xưa từng nói:

3


“Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học, bất tri đạo” (ngọc khơng mài dũa thì khơng
thành đồ dùng được, người khơng học thì khơng biết đạo).
1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
Là quốc gia nằm ở phía Đơng, thuộc bán đảo Đơng Dương, khu vực Đơng Nam
Á, châu Á; có diện tích 331.698 km2, bao gồm khoảng 327.480 km2 đất liền và 4.500
km2 biển nội thủy... Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới và một phần xích đạo nên
có những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp; là
nơi giao thoa của nhiều nền văn minh trên thế giới, điển hình là văn minh Trung Quốc
và Ấn Độ với cốt lõi là hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo. Quy mô dân số gần 92,5 triệu
người (năm 2016), đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á,
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc, trong đó, dân tộc Kinh (Việt) chiếm
đa số, 53 dân tộc còn lại là các dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa
riêng mang đậm bản sắc địa phương, nhưng 54 dân tộc anh em cùng gắn bó chặt chẽ
với nhau trong vận mệnh chung của cuộc đấu tranh, hòa hợp lâu dài, lấy tộc người
Việt làm trung tâm. Điều này đã tạo nên văn hóa dân tộc Việt Nam thống nhất trên cơ
sở đa dạng sắc thái văn hóa của các dân tộc với những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp.
1.2.1. Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và tự cường dân tộc
Tình yêu dành cho quê hương, đất nước ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trên thế
giới hồn tồn khơng giống nhau, song tựu chung lại sợi chỉ đỏ chủ nghĩa yêu nước là

biểu hiện khát vọng và hành động ln đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên
hết. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt nguồn
từ những tình cảm rất đơn sơ, bình dị trong gia đình, làng xã và rộng hơn là tình u
Tổ quốc. Với vị trí địa lý là đầu mối giao thơng quốc tế quan trọng, có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều quốc
gia. Trong tiến trình phát triển của dân tộc, nhân dân ta đã phải trải qua thời gian dài
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Lịch sử thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm
gương kiên trung, bất khuất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Từ Bà Triệu “Tơi chỉ
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy
lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nơ lệ, chứ đâu chịu khom lưng làm tì thiếp
4


cho người!”; Trần Bình Trọng “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương
đất Bắc”; Nguyễn Huệ “Đánh cho để dài tóc/Đánh cho để đen răng/Đánh cho nó chích
ln bất phản/Đánh cho nó phiến giáp bất hồn/Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng
chi hữu chủ”… đến Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân
mình lấp lỗ châu mai, Nguyễn Viết Xn với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù!
Bắn!”…
Chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập và tự cường dân tộc đã trở thành “dòng chủ
lưu của đời sống Việt Nam”, là nền tảng tinh thần to lớn, là giá trị đạo đức cao quý
nhất trong thang bậc các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, trở thành
“tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” và là nguồn sức mạnh vô địch để
dân tộc ta vượt qua khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, xứng đáng với lời ngợi ca của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại
sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
1.2.2. Lòng yêu thương, độ lượng, sống có nghĩa tình với con người
Đây là giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc được sinh dưỡng trong chính đau

thương, mất mát qua các cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và cuộc sống lam lũ hàng
ngày từ nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước của dân tộc Việt Nam. Điều dễ nhận
thấy về biểu hiện lòng nhân ái của dân tộc ta được bắt nguồn từ một chữ “tình” - Trong
gia đình đó là tình cảm đối với đấng sinh thành “Cơng cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra”, tình anh em “như thể tay chân”, tình nghĩa vợ chồng
“đầu gối, tay ấp”; rộng hơn là tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là tình yêu
thương đồng loại “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương
nhau cùng”… Lịng u thương và sống có nghĩa tình cịn được biểu hiện trong sự
tương trợ, giúp đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những người đã từng lầm
đường lạc lối biết lấy công chuộc tội.
Khơng chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung,
độ lượng với con người của dân tộc Việt Nam còn được nâng lên thành những chuẩn
tắc trong các bộ luật của Nhà nước; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà
5


bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề
cao và coi trọng việc giữ tình hồ hiếu với các nước, tận dụng mọi cơ hội có thể để
giải quyết hồ bình các xung đột, cho dù ngun nhân từ phía kẻ thù ... Ngày nay,
truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi, ngược lại tiếp tục được
khẳng định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất
quán “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hồ bình, độc lập và phát triển”. Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người
Việt Nam đã được dân gian thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh
“bọc trăm trứng” để lý giải cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - Truyền thuyết
Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như chiến
đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc bền chặt càng được đề cao và đã trở thành một triết lý
nhân sinh sâu sắc “Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết/Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng”. Trong 86 năm qua kể từ khi có Đảng lãnh đạo, thực tiễn cách mạng Việt Nam
thêm một lần nữa đã thể hiện sức sống kỳ diệu và chứng minh chân lý đúng đắn về sức

mạnh vĩ đại của tinh thần đại đồn kết dân tộc. Sức mạnh đó chính là mạch nguồn của
các thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám (1945), kháng chiến chống Pháp (1946 1954) và chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)...
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tinh thần đồn kết dân tộc càng có ý nghĩa
hơn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, do đó tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam luôn được Đảng ta nhấn mạnh “Kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế… phát huy cao độ
nội lực, đồng thời phải tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại”. Như vậy, biểu hiện về tinh thần đại đoàn kết cộng đồng đã trở thành một truyền
thống tốt đẹp, có giá trị lý luận và thực tiễn cách mạng sâu sắc. Phát huy đại đoàn kết
dân tộc là đoàn kết rộng rãi và lâu dài, đó là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam
- “Một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của nhân dân ta”.
1.2.3. Tinh thần cần cù, sáng tạo, tiết kiệm trong lao động sản xuất
Cần cù, siêng năng là một trong những giá trị đạo đức nổi bật, phẩm chất đáng
quý của người Đơng Á, trong đó có Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, cần cù,
siêng năng, sáng tạo trong lao động là điều phải làm vì có như vậy mới có của cải vật
6


chất. Phẩm chất cần cù, chịu thương chịu khó trong lao động của người Việt Nam luôn
gắn với sự dành dụm, tiết kiệm và trở thành đức tính cần có như một lẽ tự nhiên. Như
vậy, đầu tiên, đức tính cần cù, sáng tạo và tiết kiệm trong lao động chính là yếu tố
quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân. Trong
xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, sự cần cù, sáng tạo đi
đôi với thực hành tiết kiệm trong lao động sản xuất của mỗi người Việt Nam càng trở
nên có ý nghĩa thiết thực, bởi đây chính là động lực tiên quyết nhằm tăng năng suất,
năng lực cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, qua đó tự mỗi người
đóng góp một phần vào cơng cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
1.2.4. Truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo
Từ ngàn đời nay, hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Lịch sử khoa bảng của dân tộc còn lưu danh những tấm gương sáng ngời về

ý chí và tinh thần ham học: Nguyễn Hiền mồ côi cha từ nhỏ, theo học nơi cửa chùa, đã
trở thành Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nước ta khi mới 13 tuổi. Mạc Đĩnh
Chi vì nhà nghèo khơng thể đến lớp, chỉ đứng ngoài nghe thầy giảng, đêm đến phải
học dưới ánh sáng của con đom đóm trong vỏ trứng, đã đỗ trạng nguyên và trở thành
Lưỡng quốc Trạng nguyên (Trung Hoa và Đại Việt). Đó cịn là những tấm gương hiếu
học của các bậc hiền tài đáng kính: Nhà giáo Chu Văn An, Trạng trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Trạng lường Lương Thế Vinh, nhà bác học Lê Quý Đôn…; là tinh thần của
nghị lực phi thường vươn lên trở thành nhà giáo ưu tú - Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký…
Sự hiếu học, tinh thần ham học hỏi của dân tộc Việt Nam còn được biểu hiện ở thái độ
coi trọng việc học và người có học, tơn trọng thầy cơ, kính trọng họ như cha mẹ của
mình “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, “Không thày đố mày làm nên”. Cùng với tiến trình
lịch sử dân tộc, dịng chảy của truyền thống hiếu học ấy với tinh thần “Học! Học nữa!
Học mãi!” đã được các thế hệ người Việt Nam hôm nay tiếp tục phát huy và tỏa sáng:
Đó là những tấm gương vượt khó, học giỏi trên khắp mọi miền của đất nước; từ những
nếp nhà trong gia đình tất cả con cháu đều chăm học và thành đạt như giáo sư Đặng
Thai Mai, giáo sư Đào Duy Anh, giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân… đến
những vận động viên khổ luyện thành tài như kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên, xạ thủ
Hoàng Xuân Vinh, tài năng như giáo sư Ngô Bảo Châu, nữ tiến sĩ trẻ tuổi nhất Nguyễn
7


Kiều Liên… Họ đã thực sự là niềm tự hào làm rạng danh đất Việt và tô thắm thêm tinh
thần hiếu học của cha ông.

8


CHƯƠNG II: SỰ KẾ THỪA GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG TRONG
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HĨA MỚI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng phát huy giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam

2.1.1. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền thống, vừa
tiếp thu yếu tố hiện đại
Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị chung thủy là
giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hơn nhân và gia đình, được người dân đánh giá
cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình u thương, bình đẳng, có con, chia sẻ việc nhà,
hịa hợp, có thu nhập. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 41,6% coi chung thủy là “quan
trọng”, và 56,7% coi chung thủy là “rất quan trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên
cứu cho thấy hiện tượng bảo lưu những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu
hướng vị tha hơn cho nam giới trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan
trọng hơn với phụ nữ” có tỷ lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy
vẫn là thước đo phẩm giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn
cho sự êm ấm, tốt đẹp của gia đình và xã hội.
2.1.2. Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống_Ảnh
minh họa
Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất là hôn
nhân hiện đại dựa trên tình u để kết hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khơng có sự
khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm quan trọng của tình u với
sự gắn kết hơn nhân (trong số người được khảo sát có 89,7% số người được hỏi cho
rằng tình yêu là quan trọng và rất quan trọng). Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ
người đánh giá thấp tiêu chí này nhất thuộc về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc
Kinh, người đi làm, người sống ở đơ thị, ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển
và mức độ hiện đại hóa cao.
Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá cao
tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích ứng với sự thay
đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ vợ chồng. Cùng với đó là
những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung hoặc riêng trong gia đình. Sự xuất
hiện các nhân tố mới, như di cư lao động, tôn trọng tự do cá nhân, sự độc lập về kinh
9



tế giữa bố mẹ và con cái trong đời sống gia đình hiện đại cũng góp phần làm chuyển
dịch từ gia đình lớn nhiều thế hệ.
Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của trách
nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan tâm, lắng
nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình có mức độ hiện
đại hóa càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đô thị, có việc làm, có
học vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển hơn thì các giá trị chia sẻ và
trân trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ. Tuy nhiên thực tế cho thấy, người
phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam giới, thể hiện trong tỷ lệ được người
chồng chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu
vực Đơng Nam Bộ đạt điểm số trung bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng
nghe những mối quan tâm, tâm tư của vợ/chồng. Cịn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu số,
có mức sống thấp, ở nơng thơn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc cho rằng bạn
đời coi thường hoặc đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc đóng góp của họ đối
với gia đình.
2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị hiện đại
trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của
người Việt Nam vẫn nghiêng về các giá trị truyền thống nhưng đang có xu hướng dịch
chuyển sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Có thể thấy, tiêu chuẩn lựa chọn
bạn đời của người dân được khảo sát ưu tiên các phẩm chất về tư cách, đạo đức hơn là
các tiêu chuẩn về ngoại hình hay tiêu chuẩn về kinh tế. Tiêu chuẩn đầu tiên của lựa
chọn bạn đời là người đó “có tư cách đạo đức tốt” (chiếm 66,7%), tiếp theo là tiêu
chuẩn “biết cách ứng xử” (chiếm 45%), tiêu chuẩn “khỏe mạnh” đứng thứ 3 trong các
tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời (chiếm 36,1%). Các tiêu chuẩn liên quan đến điều kiện
kinh tế, vật chất được lựa chọn nhưng với tỷ lệ thấp, như biết cách làm ăn (chiếm
28,6%), có nghề nghiệp ổn định (chiếm 12,9%). Trong các nhóm tiêu chí lựa chọn bạn
đời hiện nay, tiêu chí tình yêu được người trả lời đề cập đến cao nhất. Điều này nói lên
rằng những giá trị về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời đã có sự chuyển đổi rõ nét từ giá trị
truyền thống sang các giá trị hiện đại. Khi cá nhân được giải phóng thì yếu tố tình cảm

10


và sự tự do lựa chọn hôn nhân được đề cao. Vì thế, hơn nhân đã chuyển dần từ thể chế
kinh tế là chính sang thể chế tâm lý là chính. Tiêu chuẩn lựa chọn gia đình tương đồng
về điều kiện kinh tế, địa vị xã hội “gia đình mơn đăng hộ đối” hầu như khơng cịn là
giá trị cần chú ý trong thang tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời. Nghiên cứu cũng cho thấy,
tiêu chuẩn nội hôn, hôn nhân cùng nhóm xã hội/tộc người/tơn giáo trong xã hội truyền
thống khơng cịn là tiêu chí hàng đầu. Có đến 69% số người được hỏi cho rằng tiêu
chuẩn người “cùng làng, cùng địa phương” không quan trọng; 64,1% cho rằng “cùng
dân tộc, cùng tơn giáo” khơng phải là những tiêu chí quan trọng trong lựa chọn người
yêu. Quá trình này tạo nên sự di động xã hội nhanh và đa dạng. Bên cạnh đó, nhiều
loại hình nghề nghiệp xuất hiện và sự phát triển của công nghệ thông tin là những yếu
tố thúc đẩy việc hình thành hơn nhân giữa các tiểu văn hóa (dân tộc, vùng, miền) và
giữa các nền văn hóa (hơn nhân có yếu tố nước ngồi).
Như vậy, có thể thấy, nếu chia tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời theo nhóm giá trị cá
nhân (tình u, hình thức, thu nhập, công việc, học vấn) và giá trị tập thể (gia đình
tương đồng, sự chấp thuận của bố mẹ, cùng địa phương, cùng dân tộc) thì các giá trị cá
nhân trong chọn lựa bạn đời là xu hướng nổi bật hiện nay, nhất là với nhóm có đặc
điểm hiện đại, như học vấn cao, sống ở thành thị.
Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện tượng
hơn nhân gia đình mới
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống không kết hôn,
làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có trong truyền
thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi từ xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay, một bộ phận người
dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở thành thị có tỷ lệ chấp
nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có thể chưa thực sự hiểu rõ
những hệ quả tiêu cực của nó.
Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, những hình

thức hơn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng tăng. Nghiên cứu cho
thấy 38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức độ này được chấp nhận cao
hơn ở nữ giới và nhóm xã hội mang nhiều đặc điểm hiện đại; 28,4% có nhu cầu, mong
11


muốn sống thử trước khi kết hôn; 58,3% không ủng hộ sống thử. Tỷ lệ này cho thấy
nhóm người vẫn theo khuôn mẫu truyền thống trong kết hôn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao
nhưng khơng mang tính gần như tuyệt đối như trong xã hội truyền thống trước đây.
Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa những
người ủng hộ và không ủng hộ. Hơn nhân đồng tính mới được chấp nhận dè dặt, chỉ có
27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ khơng lấy chồng nhưng có
con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia đình. Hiện nay,
hơn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người phụ nữ. Tuy vậy, cùng
với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá nhân ngày càng được pháp
luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết định việc kết hơn và có con.
Quyền làm mẹ không chỉ thể hiện sự biến đổi trong nhận thức mà còn là biểu hiện của
sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.
2.1.4. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng
Quan hệ của gia đình với dịng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn khá chặt
chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc điểm truyền
thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nông thôn); thể hiện ở số gia đình
đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần ln gắn kết với dịng họ để
giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo 5 điểm, coi trọng việc giữ gìn
nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.
Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng theo mức
độ hiện đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền thống về tình làng
nghĩa xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên tục của các giá trị văn hóa
nhưng cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ về thái độ đối với quan hệ tình cảm

và quan hệ vật chất giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng. Trong khi người
cao tuổi đề cao việc ứng xử có lễ nghĩa, có trước có sau trong mọi hồn cảnh thì nhiều
thanh niên lại gắn khía cạnh kinh tế với khía cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ
cho rằng khơng thể có hạnh phúc nếu khó khăn về kinh tế.

12


So với điểm trung bình về mức độ gắn kết với dịng họ, mức độ gắn kết giữa gia
đình với cộng đồng thấp hơn. Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận định “bạn bè xóm
giềng giúp đỡ bất cứ khi nào tôi cần” là 3,52/5 điểm, khá thấp so với nhiều giá trị về
quan hệ gắn kết với cha mẹ, anh chị em và dòng họ. Một chiều quan hệ khác của gia
đình với cộng đồng là mức độ tham gia các hoạt động cộng đồng của gia đình và thành
viên gia đình. Kết quả cho thấy, điểm trung bình tham gia các hoạt động cộng đồng là
3,54, trên ngưỡng trung bình một chút, cho thấy, tính cộng đồng của người dân Việt
Nam đang trên đà suy giảm.
Tình làng nghĩa xóm theo nghĩa được giúp đỡ, hỗ trợ thể hiện nhiều hơn ở
nhóm các gia đình mang đặc điểm hiện đại thấp hơn. Điểm trung bình về mức độ sẵn
sàng hy sinh lợi ích vì cộng đồng của gia đình Việt Nam trong diện được khảo sát là
3,60, không quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Điều đáng chú ý là, mức độ sẵn
sàng vì tập thể, vì cái chung cao hơn ở khu vực có mức độ hiện đại thấp hơn, tức là
khu vực cịn duy trì tính cộng đồng cao hơn. Mức độ sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân
vì cái chung giảm dần theo đồn hệ tuổi, cho thấy càng nhóm trẻ, mức độ chấp nhận
tính cộng đồng, tính tập thể càng thấp, tính cá nhân càng cao. Chiều hướng này cũng
tương tự nếu nhìn theo mức độ chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung theo
trình độ học vấn của người trả lời và mức sống. Sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị
tập thể cao hơn ở những nhóm có đặc điểm truyền thống hoặc yếu thế hơn.
2.2. Một số thành tự và hạn chế đạt được
2.2.1. Một số thành tựu đạt được
Thời gian qua, nhiều địa phương trên cả nước đã chú trọng cơng tác gia đình;

xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, phát triển bền vững. Số lượng và chất lượng gia
đình văn hóa được nâng lên, nhất là ở một số vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa. Tại Bắc Giang, năm 2005, số gia đình văn hóa chỉ đạt tỷ lệ 74,7% thì năm
2019, tỷ lệ này đã tăng lên 89,4%. Ở Phú Thọ, năm 2005 đạt 72,5%, năm 2019 là
88,5%. Ở Cao Bằng, năm 2005 đạt 59%, năm 2019 là 84,7%... Công tác xây dựng gia
đình đã được lồng ghép với các phong trào thi đua tại cơ sở, như: “Ông bà, cha mẹ
mẫu mực, con cháu hảo hiền”, “Nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, “Xây dựng gia đình
năm khơng, ba sạch”… Các mơ hình câu lạc bộ gia đình phát triển mạnh mẽ ở nhiều
13


địa phương, hoạt động tích cực, góp phần dung hịa các mối quan hệ gia đình, hạn chế
bạo lực, xung đột, xây dựng các kỹ năng chăm sóc gia đình. Điển hình như câu lạc bộ
Gia đình hạnh phúc ở Đồng Nai, câu lạc bộ Xây dựng gia đình hạnh phúc ở Hịa Bình.
Đầu năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai hoạt động thí điểm Bộ
tiêu chí ứng xử trong gia đình tại 12 tỉnh, thành phố trên cả nước nhằm vận động các
hộ và thành viên trong gia đình hiểu và thực hiện ứng xử văn hóa gia đình.
Thực tế cho thấy, trong nhiều hồn cảnh, văn hóa gia đình truyền thống ln là
nền tảng, sợi dây liên kết chặt chẽ các thành viên trong gia đình; tạo nên sức mạnh
vượt qua nhiều khó khăn. Thời điểm cả nước thực hiện giãn cách xã hội để phòng,
chống đại dịch Covid-19 theo chỉ đạo của Chính phủ vừa qua, nhiều giá trị văn hóa gia
đình được dịp khơi gợi, củng cố và phát huy mạnh mẽ. Nhịp sống chậm lại là cơ hội
để mọi người trong nhà dành thời gian quây quần, đoàn tụ. Ông bà, cha mẹ, con cái
gần gũi tâm sự, trò chuyện và gắn kết với nhau thông qua bữa cơm, cùng chia sẻ công
việc nhà, những vấn đề trong cuộc sống. Cha mẹ quan tâm dạy dỗ con học bài, lắng
nghe tâm tư tình cảm, cùng rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể chất… Tổ ấm gia đình
chính là điểm tựa yêu thương. Trong giai đoạn giãn cách xã hội, các giá trị cốt lõi
trong cuộc sống đã hình thành nên nếp sống gia đình văn minh, đồng cảm chia sẻ; từ
đó thể hiện trách nhiệm với cộng đồng để cùng nhau vượt qua đại dịch.
2.2.2. Một số hạn chế tồn tại

Bên cạnh mặt tích cực, trong thực tế, một số vấn đề đáng lo ngại như tình trạng
bạo lực gia đình, bất bình đẳng trong hơn nhân, bạo hành, xâm hại trẻ em, tảo hôn…
vẫn diễn ra nhức nhối. Đáng chú ý, tình trạng bạo lực với phụ nữ và trẻ em chưa có
dấu hiệu thuyên giảm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển thể chất, sự
hình thành nhân cách và sự phát triển lành mạnh của trẻ. Vì vậy, cùng với việc xây
dựng gia đình vững mạnh, hạnh phúc, các cấp, ngành, tổ chức và người dân cần chú
trọng nâng cao nhận thức, hiểu biết về phịng, chống bạo lực gia đình; có chế tài
nghiêm khắc với những người gây ra hành vi bạo lực; tăng cường cơng tác bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em; phòng, chống xâm hại trẻ em trong gia đình và cộng
đồng…

14


Xã hội hiện đại đang không ngừng thay đổi, phát triển tác động trực tiếp đến
các mối quan hệ trong gia đình Việt Nam, nhưng dù có biến đổi đến đâu thì gia đình
vẫn ln là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tốt đẹp, bền vững. Sức mạnh nền tảng
của văn hóa gia đình sẽ ln là yếu tố được phát huy để xây dựng gia đình và xã hội
ấm no, hạnh phúc, ngày càng phát triển. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp thu những điều mới
mẻ, tiến bộ trong q trình hội nhập và tồn cầu hóa cần tiếp tục giữ gìn, tơn vinh và
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; tăng cường giáo
dục đạo đức và lối sống, phát huy vai trò, trách nhiệm và hướng tới sự phát triển bền
vững của gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.3. Một số giải pháp trong xây dựng gia đình văn hóa mới hiện nay
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị đạo đức truyền thống của gia đình hiện nay
bao gồm các yếu tố liên quan đến thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế. Sự phát triển
mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội giúp giải phóng sức lao động, nhất là lao động
làm việc nhà cho người dân, trong đó có phụ nữ. Điều này giúp các gia đình có nhiều
thời gian chăm sóc bản thân, gia đình, có nhiều cơ hợi hơn để thực hiện các hoạt đợng
giải trí, tiếp thu các kiến thức văn hóa, xã hội mới từ các phương tiện thơng tin đại

chúng. Nhờ đó, hiểu biết về những nếp sống văn minh, quan điểm hiện đại về hơn
nhân và gia đình được nâng cao, từng bước thẩm thấu vào đời sống gia đình Việt Nam.
Một là, tăng cường các hoạt động tun truyền, truyền thơng về bình đẳng giới.
Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các định kiến xã
hội từ cộng đồng và từ chính bản thân về những khắt khe trong hành vi hơn nhân và
gia đình, hướng phụ nữ tới những giá trị được tơn trọng, được bình đẳng trong tiếp cận
dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục, được tự thể hiện bản thân, được hạnh phúc,
đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa...
Hai là, xây dựng chính sách và dịch vụ xã hội bảo đảm sự tiếp cận cơng bằng,
bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay, như chung sống khơng kết hơn, gia
đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hơn nhân với người nước ngồi, gia đình
ly hơn/ly thân...
15


Ba là, phổ biến kết quả nghiên cứu về các giá trị gia đình mà người dân Việt
Nam đang ủng hộ tới các nhà lập pháp, hoạch định chính sách, quản lý nhà nước về
gia đình để nắm rõ thực tế các giá trị của gia đình hiện nay, đặc biệt là những khác biệt
xã hội về giá trị gia đình thuộc các mức hiện đại hóa khác nhau, trong các bối cảnh văn
hóa khác nhau. Quan tâm đến các giá trị của nhóm thuộc khu vực kém phát triển, có
mức hiện đại hóa thấp để có thể giáo dục, tuyên truyền duy trì những giá trị truyền
thống tốt đẹp đang bảo lưu rõ nét ở khu vực này. Đồng thời, có những hỗ trợ về dịch
vụ xã hội, tư vấn xã hội cho các nhóm hiện đại, đang có xu hướng theo những giá trị
hiện đại của gia đình để phát huy sự tự do cá nhân, cởi mở trong quan niệm, đồng thời
hạn chế những tác động tiêu cực của chủ nghĩa cá nhân, lối sống hưởng thụ, ích kỷ.
Bốn là, xem xét xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong
thời kỳ tới trên cơ sở những giá trị gia đình đã được định hình thơng suốt và thống
nhất về mặt nhà nước là “ấm no”, “bình đẳng”, “chung thủy”, “tiến bộ” và “hạnh
phúc”. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời sống xã hội hay trong

quan niệm của nhân dân có thể cịn những biểu hiện cụ thể hơn nữa, như giá trị của
hơn nhân, gia đình, các biểu hiện của bền vững gia đình, giá trị con cái, tình thương
u, hiếu thảo, đồn kết cộng đồng, đồng thời bao hàm cả những biến đổi mạnh mẽ
theo mức độ hiện đại hóa của các gia đình hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2021 - 2030 nên xem xét bổ sung nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng
gia đình. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nên chuyển mục tiêu từ “xây dựng gia đình no
ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” sang “xây dựng gia
đình tiến bộ, hạnh phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của các quá trình kinh tế xã hội và nguồn nhân lực ổn định, chất lượng” để tiếp tục khẳng định vai trị quan
trọng của gia đình trong sự phát triển của xã hội, đặt gia đình trong mối quan hệ
“động” hơn với các quá trình kinh tế - xã hội chung./.

16


KẾT LUẬN
Truyền thống văn hóa Việt Nam được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử ln
đề cao các giá trị văn hóa gia đình bởi đó là cái nơi ni dưỡng, hình thành và phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân, là cơ sở, nền tảng để phát triển xã hội. Có những
chuẩn mực đạo đức gia đình kết tinh, trao truyền qua nhiều thế hệ đã trở thành các
chuẩn mực đạo đức của dân tộc, được trân trọng giữ gìn như hướng về cội nguồn, biết
ơn tổ tiên, con cháu hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, vợ chồng chung thủy, anh chị em
đoàn kết, thương yêu nhau. Những giá trị chuẩn mực truyền thống đó được thể hiện
trong nhận thức, suy nghĩ, việc làm của mỗi người, từ ăn nói, đi đứng cho đến cung
cách ứng xử kính trên, nhường
Nhìn lại tiến trình lịch sử hào hùng của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước
và giữ nước, trong đó có sức trỗi dậy của mảnh đất và con người Việt Nam, chúng ta
thêm tự hào về những giá trị tinh thần và đặc điểm nhân cách con người Việt Nam.
Các thế hệ dân tộc Việt Nam, đã gìn giữ, phát huy những nét đẹp truyền thống của chủ
nghĩa yêu nước, anh hùng cách mạng và chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Cả nước đang
bước vào quá trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, bối cảnh đó sẽ có tác động khơng

nhỏ tới các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ở cả hai mặt tích cực và tiêu cực.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh. Tồn tập, tập 6. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.171.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.66.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1993.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994.

18



×