Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.81 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..............................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH
PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ................................................2
1.1.

Lý luận chung về nền kinh tế nhiều thành phần...............................2

1.1.1.

Khái niệm..........................................................................................2

1.1.2.

Vai trò...............................................................................................2

1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ.........................................................................................3
1.2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của Người.....................3
1.2.2.

Nguyên tắc hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần..................3

1.2.3.

Mục tiêu và vai trò cụ thể của với mỗi thành phần kinh tế...............4

CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI...................................................................................................6


2.1. Thực trạng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội...........................................................................6
2.1.1. Đánh giá chung......................................................................................6
2.1.2. Đảng đẩy mạnh phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế..................8
2.2. Một số định hướng và giải pháp phát triển nền Kinh tế nhiều thành
phân trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam...................11
2.2.1. Những vấn đề cần tháo gỡ để phát triển các thành phần kinh tế..........11
2.2.2. Một số giải pháp nhằm phát triển nền Kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội...........................................................12
KẾT LUẬN..............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................16

i


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sự nghiệp cách mạng
mang tính tồn diện . Nội dung kinh tế được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt: lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lí kinh tế. Đối với cơ cấu kinh tế, Hồ
Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế
vùng, cơ cấu kinh tế lãnh thổ.
Ở nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người xác định
rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên
phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho Chủ nghĩa xã hội, thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động. Đối với những người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ
khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp
họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác.
Đối với những nhà tư sản cơng thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khơi phục kinh tế và sẵn
sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà và chủ nghĩa xã hội, nên Nhà
nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, mà hướng dẫn họ, giúp
đỡ họ cải tạo theo Chủ nghĩa Xã hội bằng hình thức tư bản nhà nước. Do đó qua q
trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Phân tích quan điểm của Hồ
Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã
hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm trên của Đảng trong việc phát triển
thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU THÀNH
PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
1.1.

Lý luận chung về nền kinh tế nhiều thành phần

1.1.1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là
cơ cấu kinh tế trong đó các thành thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển như
một tổng thể, giữa chúng có quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một
hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế nhất định, trong
đó căn cứ vào quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào thống trị để
xác định từng thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành

phần kinh tế.
1.1.2. Vai trị
Sự tờn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan,
mà còn có vai trò to lớn vì:
- Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, nhiều phương thức quản lí phù hợp với trình độ khác nhau của
lực lượng sản xuất.
Chính sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao
động, tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể
kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh,
khắc phục tình trạng độc quyền.
Điều đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cảI thiện và nâng cao đời sống của nhân dân,
phát triển các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
2


- Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ,
trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những "cầu nối", trạm "trung
gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
- Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với nó là các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế
của các giai cấp, tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, các tiềm năng của đất nước, như sức lao động, vớn, tài nguyên thiên

nhiên, kinh nghiệm quản lí để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
1.2. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ
1.2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần theo quan điểm của Người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung, từng
thành phần kinh tế nói riêng được thể hiện khá rõ trong “Hồ Chí Minh tồn tập”,
nhưng rõ nhất trong hai tác phẩm là “Thường thức chính trị” (năm 1953) và “Báo
cáo Dự thảo Hiến pháp năm 1959”.
Người cho rằng, trong chế độ dân chủ mới, có 6 loại kinh tế khác nhau là :


Kinh tế quốc doanh



Hợp tác xã



Kinh tế của cá nhân



Tư bản của tư nhân ( tư bản cơng thương )



Tư bản nhà nước

1.2.2. Ngun tắc hướng tới của nền kinh tế nhiều thành phần

Công tư đều lợi: Kinh tế quốc doanh là cơng. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo
của kinh tế dân chủ mới .Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của
nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh
tế nước nhà. Cho nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng
sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.

3


Chủ thợ đều lợi: Nhà tư bản thì khơng khỏi bóc lột. Nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột cơng nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của cơng nhân.
Đồng thời, vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý,
không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác, tự động, tăng gia sản xuất lợi cả
đôi bên.
Công nông giúp nhau : Sự kết hợp của nền nơng nghiệp và cơng nghiệp.
Lưu thơng trong ngồi : Phát triển thị trường trong nước và đẩy mạnh hợp
tác, buôn bán với nước ngồi.
Có thể khái qt chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là:
“Công tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Cơng nơng giúp nhau - Lưu
thơng trong ngồi”
"Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta".
Ở đây, Hồ Chí Minh nêu quan điểm "công tư đều lợi", "chủ thợ đều lợi"
trong thời kỳ quá độ và khi nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh,
Người vẫn đồng thời khẳng định, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể
"là lực lượng cần thiết cho xây dựng kinh tế nước nhà".
1.2.3. Mục tiêu và vai trò cụ thể của với mỗi thành phần kinh tế
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức khơng xã hội chủ nghĩa, làm
cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất,
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể .

Đối với việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa các hình thức sở hữu, giữa
các thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là:
Kinh tế quốc doanh :
Phải phát triển để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc
cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đáp ứng vai trò to lớn và quan trọng của xã hội , của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược. Giữ vai trị chủ đạo , nó là 1 cơng cụ có sức mạnh
vật chất mang tính quyết định để nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hợp tác xã :
4




Đặc biệt khuyến khích , giúp đỡ và hướng dẫn để nó phát triển .



Đóng góp quan trọng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.



Giữ vai trò nền tảng trong nền kinh tế.

Người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác :


Tự tạo được việc làm cho người lao động với lượng vốn rất ít.



Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức
hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã
sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Tư bản công thương :

Nắm tiềm năng rất lớn về vốn , kỹ thuật , cơng nghệ , kinh nghiệm và
trình độ quản lý
=> Có vai trị to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất , giải quyết việc
làm , tăng thu nhập quốc dân, nâng cao đời sống.

Góp phần đẩy nhanh HĐH – CNH của đất nước thông qua việc nâng
cao tỉ lệ tích lũy và đầu tư , phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh
tế , tăng sức cạnh tranh , tạo động lực thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ để hội
nhập kinh tế quốc tế.

Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải
khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh,
phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và
giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tư hợp doanh và
những hình thức cải tạo
Tư bản nhà nước : Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh , và do Nhà
nước lãnh đạo.

Là nấc thang , bước trung gian để 1 nước kém phát triển bước lên Chủ
nghĩa Xã hội.

5



CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Thực trạng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa Xã hội
2.1.1. Đánh giá chung
Một trong những thành tựu lớn nhất của gần 35 năm đổi mới ở nước ta là đổi
mới kinh tế, tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước.
Có được thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh
tế, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, gắn với thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa là cơ bản nhất.
Một thời chưa xa, chúng ta lúng túng trong nền kinh tế chỉ thừa nhận hai
thành phần là quốc doanh và tập thể. Và khơng ít người cho rằng, chỉ có như vậy
mới thực sự là Xã hội Chủ nghĩa.
Chúng ta không phê phán một cách phi lịch sử, nhưng quan trọng là đã nhận
ra những lẽ cần thiết của sự tồn tại hai thành phần kinh tế đó và những hạn chế làm
kìm hãm sự phát triển của đất nước khi thực hiện nền kinh tế chỉ có hai thành phần
như vậy để từ đó tìm ra cách làm ăn mới phù hợp với quy luật phát triển.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó có
đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức rất phong phú,
đa dạng và sáng tạo. Nhờ đó, chỉ sau hơn 10 năm, vẫn những con người ấy, cũng
những điều kiện tự nhiên ấy, từ một đất nước thiếu ăn quanh năm, trơng chờ chủ
yếu vào sự viện trợ từ bên ngồi; hàng tiêu dùng khan hiếm, người lao động khơng
có việc làm… đã trở thành một đất nước không những đủ ăn, mà cịn có lương thực,
thực phẩm dự trữ và đến nay xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới; nhu cầu tiêu
dùng trong nước được thỏa mãn về nhiều mặt, kết cấu hạ tầng phát triển, nền kinh tế
– xã hội sôi động, đất nước không ngừng phát triển. Chính nhờ đổi mới cơ chế,
chính sách nhằm khơng ngừng phát triển các thành phần kinh tế, các tiềm năng của
xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngồi được huy
động.

Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận trong
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ không thừa
nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một
số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không
6


cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần thay đổi tư duy như vậy là một lần
nhận thức của chúng ta được mở rộng, sâu thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành
phần kinh tế phát triển. Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho
những chủ thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm,
dám chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.
Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán
nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp
chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng
sản xuất. Nghị quyết Trung ương 6, khóaVI, chỉ rõ: "Trong điều kiện nước ta, các
hình thức kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho
nền kinh tế và nằm trong cơ cấu nền kinh tế hàng hóa đi lên chủ nghĩa xã hội". Đại
hội VIII của Đảng nêu 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội IX của
Đảng xác định, ở nước ta hiện nay, cần phát triển 6 thành phần kinh tế, tức là ngồi
5 thành phần kinh tế nêu trên, có thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi
và nhấn mạnh các thành phần kinh tế đó đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói đây là q
trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện
cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra
một tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa.
Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xác định và
phát triển các loại hình sở hữu, phân định các thành phần kinh tế là cần thiết, hợp
quy luật làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói chung và
tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng phát triển, phát huy được mọi
nguồn sức mạnh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ thúc đẩy, cạnh tranh lẫn
nhau làm cho nền kinh tế của đất nước thực sự năng động phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự
thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu dài, vừa hợp
tác vừa cạnh tranh lành mạnh góp phần phát triển vững mạnh nền kinh tế nước ta
7


trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập với kinh tế khu vực và thế
giới.
2.1.2. Đảng đẩy mạnh phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp nhà nước,
các tài nguyên quốc gia và các tài sản sở hữu nhà nước như hầm mỏ, đất đai, rừng,
biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ
tầng kinh tế – xã hội, phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác…
Đại hội VIII của Đảng, chỉ rõ, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện
ở "làm đòn bẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở
đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực
lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền
tảng cho chế độ xã hội mới".
Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan
trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Doanh
nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu

gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả và chấp hành pháp luật.
Sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì những
người lao động riêng rẽ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có yêu
cầu phải liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Vì thế, phát triển kinh tế
hợp tác và hợp tác xã là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ manh
mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế hợp tác là hình thức kinh tế mang tính tập thể, xã hội hóa, là nhân tố
quan trọng để xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh. Nó giáo dục ý thức cộng đồng, tinh thần hợp tác hỗ trợ lẫn
nhau giữa các thành viên xã hội, giữa các thành phần kinh tế để sản xuất, kinh
doanh đúng pháp luật.
Hợp tác xã kiểu mới đã khắc phục những hạn chế của hợp tác xã kiểu cũ. Nó
do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân (người lao động, hộ gia đình,
trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ…), cả người ít vốn và người nhiều vốn, người
góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng các ngun tắc,
bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Hợp tác xã khơng tập thể hóa mọi tư liệu
8


sản xuất của các thành viên mà dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập
thể. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không bị giới hạn bởi quy mơ, lĩnh vực và
địa bàn, hồn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ
chế thị trường. Hình thức phân phối vừa theo lao động, vừa theo cổ phần và mức độ
tham gia, dịch vụ…
Với những ưu việt như vậy, Đại hội IX của Đảng xác định: Kinh tế tập thể
phát triển với nhiều hình thức hợp tác xã đa dạng. Nhà nước phải giúp đỡ hợp tác xã
đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học – công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị
trường… để cùng với kinh tế nhà nước ngày càng giữ vai trò nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân.

Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đại hội IX của Đảng coi kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài.
Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả
trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Sự phát triển kinh
tế cá thể, tiểu chủ trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường có vai trị
quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát
triển.
Qua thực tế gần 35 năm đổi mới cho thấy, kinh tế hộ cá thể, tiểu chủ là loại
hình tổ chức sản xuất, kinh doanh mang tính chất của một xí nghiệp gia đình chứa
đựng những khả năng lớn của sáng kiến cá nhân. ở đây, nguyên tắc kinh doanh,
theo đuổi mục tiêu doanh lợi kết hợp hài hòa với các giá trị gia đình. Những thành
viên trong hộ gắn bó với nhau bằng quan hệ ruột thịt, nên có tính cộng đồng, trách
nhiệm cao dễ thống nhất. Ngoài các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chủ hộ còn
quan tâm đến việc học hành, giáo dục truyền thống, đạo đức, pháp luật cho các
thành viên để hướng tới sự thành đạt. Quan hệ sản xuất ở đây là trực tuyến, bỏ qua
các khâu trung gian, nên việc quản lý rất chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng sản phẩm,
thương hiệu hàng hóa được quan tâm đầu tiên, bởi nó tạo nên chữ tín của gia đình.
Mọi tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản lý, tay nghề, bí quyết, kinh nghiệm sản
xuất, kinh doanh… được tích lũy qua nhiều đời là tiềm năng" chất xám" quan trọng
của kinh tế cá thể, tiểu chủ được phát huy. Quy mô của kinh tế cá thể, tiểu chủ vừa
và nhỏ nên dễ tổ chức sản xuất, kinh doanh, ít tốn kém, dễ thích nghi. Nó có khả
năng huy động mọi nguồn lực phân tán như vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên
nhiên, thiết bị kỹ thuật… kết hợp lại với nhau, qua đó giải quyết việc làm cho đông
đảo người lao động, tăng thu nhập, tăng tích lũy, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nơng nghiệp, nơng thơn thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ hội
9


cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất và hưởng thụ các
thành quả tăng trưởng nền kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ góp phần tích cực xóa

đói giảm nghèo, nâng cao mặt bằng kinh tế – xã hội, cải thiện đáng kể bộ phận đông
đảo dân cư ở thành thị và nông thôn.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao
động làm thuê.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở nước ta, thành phần kinh tế này
có vai trị quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, về phát triển
nền sản xuất hàng hóa, về giải quyết các vấn đề xã hội. Đại hội VIII của Đảng
khẳng định: "Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước.
Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ
quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường
quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh". Văn kiện
Đại hội IX của Đảng cũng khẳng định rõ hơn vai trị vị trí của kinh tế tư bản tư nhân
và Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX, xác định: "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển
kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực của đất nước trong hội
nhập kinh tế quốc tế".
Theo V.I. Lê-nin, chủ nghĩa tư bản nhà nước là con đường hữu hiệu nhất để
cải tạo các quan hệ tiểu nông, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức hợp
tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên
doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. V.I. Lê-nin cũng nhấn mạnh:
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa phục tùng sự điều tiết của nhà nước (giám
sát, kiểm tra, quy định các hình thức trật tự, v.v) (1). Chủ nghĩa tư bản nhà nước gắn
liền với nhà nước, phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, khả năng điều tiết của nhà
nước và phụ thuộc vào sự vững mạnh của nhà nước. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, chúng ta hồn tồn có khả năng làm được những điều nêu
trên. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới

các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân
trong và ngoài nước trong việc khai thác các nguồn vốn, máy móc, thiết bị, cơng
10


nghệ, kinh nghiệm quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường v.v.., để
mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước.
2.2. Một số định hướng và giải pháp phát triển nền Kinh tế nhiều thành phân
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam
2.2.1. Những vấn đề cần tháo gỡ để phát triển các thành phần kinh tế
Lý luận cũng như qua thực tiễn gần 35 năm đổi mới đã chứng minh sức sống
và vai trò to lớn của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Các thành phần kinh tế ấy không tồn tại biệt lập với nhau mà bổ sung
lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, cạnh tranh với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Song để khắc phục những khó khăn, phát huy những thuận lợi, tiếp tục thúc
đẩy phát triển các thành phần kinh tế, phát huy các nguồn lực xây dựng nền kinh tế
quốc dân vững mạnh trước hết cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc chính sau:
a – Nhận thức đúng về sự cần thiết tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải thực sự giải phóng tư tưởng cho các
chủ thể các thành phần kinh tế, tạo "sân chơi" bình đẳng, lành mạnh cho các thành
phần kinh tế. Khắc phục tâm lý mặc cảm, kỳ thị, sợ chệch hướng xã hội chủ nghĩa,
mất độc lập chủ quyền, đi theo hướng tư bản chủ nghĩa… Từ đó ngại ngùng, khơng
dám cho các thành phần kinh tế phát triển với mọi năng lực của nó. Thực tế chúng
ta có Đảng vững mạnh; có Nhà nước với hệ thống pháp luật và các cấp quản lý chặt
chẽ; ý thức độc lập tự chủ của nhân dân rất cao nên khơng dễ gì chệch hướng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội khiến ta phải băn khoăn, lo ngại khơng dám chấp
nhận nó. Phải coi đây là hình thức quá độ cần thiết, tạo sức mạnh vật chất cho nền
tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội.
b – Hoàn thiện hệ thống pháp luật để định hướng, điều chỉnh, quản lý kinh tế
vĩ mô đối với các thành phần kinh tế bằng pháp luật; xây dựng hệ thống cơ chế,

chính sách, thích hợp, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế bình đẳng, tự chủ, tự
do phát triển lâu dài. Đổi mới nội dung, phương thức quản lý của Nhà nước sao cho
đúng, hiệu quả, thực sự "chặt" mà khơng gị ép, cứng nhắc; "thống" mà không
buông. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chúng ta có cơ chế "thống" song vẫn giữ
được độc lập tự chủ của đất nước để tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài giúp ta phát triển nhanh, mạnh, vững chắc ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn
trọng tâm trọng điểm như một số nước đã làm.
c – Thực hiện công khai, công bằng, dân chủ trong chính sách đầu tư, quản
lý, thuế, tài chính v.v.. đối với các thành phần kinh tế. Xóa cơ chế "xin – cho"; ngăn
11


chặn hữu hiệu xu hướng quay lại bao cấp trong một số ngành, lĩnh vực, thành phần
kinh tế. Khắc phục mọi biểu hiện đặc quyền đặc lợi, ban phát, chạy chọt, tham
nhũng, hối lộ v.v.. trong các khâu của quá trình vận hành nền kinh tế nhiều thành
phần gắn với thị trường.
d – Chăm lo đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ các loại cho các thành phần
kinh tế. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ hiện đại vào quá trình
sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Mở rộng thông tin và tăng khả năng
lãnh đạo của Đảng và định hướng của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế để
bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước
và quốc tế. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện cho các chủ thể các thành phần kinh tế
tiếp cận với thị trường khu vực và quốc tế, giúp cho việc chủ động hội nhập với nền
kinh tế thế giới, tăng sức cạnh tranh, tiếp thu được những tiến bộ khoa học – công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiến bộ của thế giới.
đ – Coi trọng bảo vệ môi trường trong sản xuất, kinh doanh của các thành
phần kinh tế nhằm bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Kiên quyết phát hiện,
ngăn chặn kịp thời những vi phạm làm ô nhiễm môi trường gây tổn thất cho sản
xuất, kinh doanh và gây tác hại ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
e – Thực hiện nghiêm việc xử phạt những chủ thể kinh tế, các đơn vị kinh tế

sản xuất, kinh doanh hàng kém phẩm chất, làm hàng giả, gian lận trong sản xuất,
kinh doanh để tạo nên nền kinh tế lành mạnh, bền vững, khắc phục những biểu hiện
sai trái, tiêu cực của các thành phần kinh tế có thể xảy ra gây nên những biến động
về kinh tế – xã hội của đất nước.
2.2.2. Một số giải pháp nhằm phát triển nền Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản Việt Nam đã, đang
và sẽ tiếp tục chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang
nền KTTT định hướng XHCN với những thành tựu KT-XH ngày càng to lớn. Thể
chế KTTT, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây
dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế
được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng.
Chính trị-xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, do phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một sự nghiệp, một q trình chưa có tiền lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều
kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét, hoàn thiện:
12


Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng là một nền kinh tế mang tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa của đất nước và những giá trị XHCN mà chúng ta đang phấn
đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu chúng ta có thể nghiên cứu để áp dụng
nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của thể chế kinh tế thị
trường-một thành tựu của nhân loại vào nền kinh tế của chúng ta, nhằm tạo thuận
lợi sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn hay khơng? Nếu thế thì cần phải
có những điều kiện nào kèm theo?
Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng
minh rằng, để phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một thành
phần kinh tế nào, mà cần phải khơi dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của đất

nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường. Để
hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động một tinh thần khởi nghiệp với mục
tiêu là tới năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu doanh nghiệp. Như vậy, nòng
cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế đất nước, phải
chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể và kinh tế tư nhân? Như vậy, về định hướng vĩ mô, liệu chúng ta cần có sự
thay đổi nào khơng để khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo ra một
sân chơi thực sự cơng bằng, bình đẳng, trong thụ hưởng chính sách, được tiếp cận
các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp?
Thứ ba, với những biểu hiện lợi ích nhóm, biểu hiện của chủ nghĩa tư bản
thân hữu đang diễn ra trong nền kinh tế, cần phải có giải pháp gì để ngăn chặn, để
bảo đảm rằng những lợi ích từ phát triển kinh tế đất nước sẽ không bị một bộ phận
thiểu số trong xã hội chiếm dụng, mà sẽ được chia sẻ công bằng; bảo đảm rằng sự
phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm chứ khơng q thiên lệch,
tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa các thành phần,
đối tượng trong xã hội.
Thứ tư, cần có chiến lược, cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để
việc phát triển kinh tế của đất nước bảo đảm hài hịa hai yếu tố đó là: Phát triển
“nhanh” và “bền vững”. Đây là hai yêu cầu song hành. Bởi với một nền kinh tế
đang phát triển như Việt Nam nếu khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở
mức cao thì rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thế nhưng, việc
phát triển nhanh về kinh tế phải bảo đảm yếu tố bền vững, đó khơng phải là sự phát
triển bằng mọi giá, đặc biệt không phải là việc hy sinh môi trường sống để phát
13


triển kinh tế. Phát triển kinh tế đất nước không ngồi mục đích nào khác là để bảo
đảm cho mọi người dân có một cuộc sống sung túc, hạnh phúc.
Động lực và triển vọng hiệu quả phát triển kinh tế-xã hội đã, đang và sẽ tiếp
tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn

về phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam

14


KẾT LUẬN
Ở nước ta , Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Người xác định
rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Trong suốt những năm
qua , Đảng ta đã cố gắng thực hiện trọn vẹn cũng như vận dụng tương đối hiệu quả
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư
bản tư nhân thành thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được
phép làm kinh tế tư nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh
tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, các thành phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực
tạo sự yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế phi nhà nước.
Sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất, tính kế thừa trong phát
triển, cũng như đặc điểm cụ thể của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, v.v. quy định sự tồn tại đa dạng, đan xen của các hình thức sở hữu và tương
ứng với đó là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Trong
cơ cấu nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước được Đảng xác định là thành phần đóng vai
trị chủ đạo, các thành phần kinh tế khác góp phần quan trọng trong việc huy động
mọi tiềm năng, nguồn lực vào sản xuất, kinh doanh, phát triển lực lượng sản xuất.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105

2.  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106
3. Giáo trình kinh tế chính trị tập 2 - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
và Trường Đại Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội
4. C. Mác - Ph. Anghen : Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
5. V.I. Lê Nin toàn tập, Nxb Tiến Bộ, 1997.
6. Tạp chí Cộng Sản.

16



×