Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình việt nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.22 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.........................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ GIA
ĐÌNH.................................................................................................................2
1.1. Khái niệm về gia đình..........................................................................2
1.1.1. Khái niệm gia đình..........................................................................2
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình............................3
1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử...............................................4
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình............................4
1.3. Vị trí gia đình trong xã hội..................................................................7
1.3.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu,
hình thức tổ chức và tính chất của gia đình...............................................7
1.3.2. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa
cá nhân với xã hội......................................................................................7
1.4. Các chức năng cơ bản của gia đình....................................................8
1.4.1. Chức năng tái sản xuất ra con người...............................................8
1.4.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình.............................8
1.4.3. Chức năng giáo dục của gia đình....................................................9
1.4.4. Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia
đình..........................................................................................................10
CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM TRONG
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ.......................................................................................10
2.1. Những biến đổi của gia đình Việt Nam............................................10
i


2.1.1. Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu.........................................11
2.1.2. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền
thống, vừa tiếp thu yếu tố hiện đại..........................................................11


2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị
hiện đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời.............................................12
2.1.4. Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số
hiện tượng hôn nhân gia đình mới...........................................................13
2.1.5. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng
đồng.........................................................................................................14
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình mới ở Việt Nam...............................15
2.2.1. Một số thành tựu đạt được.............................................................15
2.2.2. Một số hạn chế tồn tại...................................................................17
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM..........................................................18
3.1. Phương hướng xây dựng gia đinh trong thời kỳ quá độ.................18
3.2. Giải pháp xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
Xã hội..........................................................................................................19
3.3. Trách nhiệm của bản thân đối với gia đình trong thời kỳ quá độ
lên CNXH...................................................................................................21
KẾT LUẬN........................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................24

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình khơng chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của
xã hội. Gia đình có vai trị đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Gia đình có vai trị quyết định đối với
sự hình thành và phát triển của xã hội. Những chuẩn mực giá trị tốt đẹp của gia
đình được tiếp nhận, phát triển góp phần xây dựng, tơ thắm, làm rạng rỡ thêm
bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Gia đình là mơi
trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách, góp

phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lịng u nước, có ý thức làm
chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa,
nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”.
Con người Việt Nam chỉ có thể được trang bị những phẩm chất tốt đẹp
nếu có một mơi trường xã hội tốt. Mơi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình,
mỗi tế bào của xã hội. Gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản phẩm của
gia đình mình, có trách nhiệm nuôi dưỡng và giáo dục con cái, cung cấp cho xã
hội những cơng dân hữu ích. Cùng với nhà trường, gia đình tham gia tích cực
nhiệm vụ “dạy người, dạy chữ”, tạo ra lực lượng lao động tương lai chất lượng
cao. Gia đình chính là “đơn vị xã hội” đầu tiên cung cấp lực lượng lao động cho
xã hội. Từ những người lao động chân tay giản đơn đến lao động trí óc... đều
được sinh ra, ni dưỡng và chịu sự giáo dục của gia đình. Do đó, sau một thời
gian tìm hiểu, tơi đã lựa chọn đề tài “ Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin
về gia đình và vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ
GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm về gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình - hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi người từ
khi ta cịn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người được sinh ra và lớn lên, có tác
động to lớn đến sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng như sự phát triển
của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về gia

đình. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý một số định nghĩa sau về gia đình.
Khi đề cập đến vấn đề gia đình, C.Mác cho rằng “Quan hệ thứ ba tham
dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử là hàng ngày tái tạo ra đời sống
của bản thân mình, con người cịn tạo ra những người khác, sinh sơi, nảy nở,
đó là quan hệ giữa chồng - vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”.
Như vậy, gia đình là một cộng đồng xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân và
huyết thống.
Theo Liên hợp Quốc thì gia đình là một đơn vị được quy định thơng qua
mối liên hệ của các cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ sau ở mức độ mà
những mối liên hệ này đựơc những quy phạm và thủ tục pháp lý phê chuẩn.
Như vậy trong định nghĩa về gia đình của Liên hợp quốc có thêm vấn đề
pháp lý, ở đây, gia đình được Nhà nước bảo hộ. Đó là một cơ sở quy phạm
pháp luật của Liên hợp quốc. Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng,
có cuộc sống chung, có ngân sách chung.
Nhà Tâm lý học Ngơ Cơng Hồng khi bàn đến vấn đề gia đình thì cho
rằng gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân và huyết
2


thống, tâm sinh lí, có chung gia đình vật chất và tinh thần ổn định trong các thời
điểm lịch sử”.
So với hai định nghĩa trên thì định nghĩa thứ ba này có thêm khía cạnh về
mối quan hệ kinh tế (vật chất) và tình cảm (tinh thần) giữa các thành viên trong
gia đình.
Tóm lại, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau về hơn nhân
và huyết thống đồng thời có sự cố kết nhất định về kinh tế - vật chất, qua đó
nảy sinh những nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành viên của mình.
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong gia đình có hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống. Hai mối quan hệ này được cụ thể hoá là mối quan hệ giữa vợ

và chồng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ cơ bản có tác động đến
nhiều mối quan hệ khác trong gia đình, Vì gia đình hạnh phúc khi duy trì được
tình u trong hơn nhân. Quan hệ vợ chồng phải dựa trên tình nghĩa sự chung
thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau và cùng nhau xây dựng
gia đình hạnh phúc.
Bên cạnh mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữa cha mẹ và
con cái. Đây là mối quan hệ bình đẳng và nề nếp. Cha mẹ và con cái cùng
thương yêu và chia sẻ với nhau để làm tốt công việc gia đình và xã hội.
Ngồi ra, gia đình cịn bao gồm nhiều mối quan hệ khác như quan hệ giữa ông
bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ dì chú bác với nhau.
Có thể nói mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều được bắt nguồn
từ quan hệ hôn nhân và huyết thống. Đây là thứ tình cảm thiêng liêng và cao cả
mà không một cộng đồng xã hội nào thay thế được. Đây là mối quan hệ bền
vững, lâu dài, không thể phá vỡ của cả đời người .
3


1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử.
Gia đình là sản phẩm của xã hội. Cùng với sự vận động và phát triển của
xã hội, gia đình cũng có những bộ mặt tương xứng. Trong lịch sử xã hội lồi
người đã xuất hiện nhiều hình thức gia đình khác nhau.
Đầu tiên là những gia đình tập thể, gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia
đình cặp đơi. Những kiểu gia đình tập thể này đều xuất hiện ở chế độ cộng sản
nguyên thuỷ, khi con người vẫn còn đang ở vào thời đại mơng muội. Ba gia
đình này vẫn thuộc chế độ mẫu hệ và mẫu quyền, và vẫn phụ thuộc vào tự
nhiên.
Sang chế độ chiếm hữu nô lệ, người đàn ơng càng giữ vai trị quan trọng
trong lao động, từ đó sinh ra chế độ phụ quyền. Gia đình một vợ - một chồng
trở thành một đặc trưng, một hình thức phát triển tiến bộ nhất trong lịch sử. Sự

ra đời của nó gắn liền với sự nơ dịch của người đàn ông đối với người đàn bà.
Tuy nhiên, gia đình một vợ - một chồng trong chế độ tư hữu chỉ mang
tính tương đối mà thơi. Nó ln đi kèm với tệ ngoại tình và mãi dâm.
Phải đến chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội thì gia đình một vợ - một chồng
mới thực sự trọn vẹn. Đây là gia đình mới trong thời đại mới. Nó có mầm
mống từ gia đình ở xã hội tư bản chủ nghĩa. Gia đình mới trong xã hội chủ
nghĩa xã hội bắt nguồn từ tình u thương chứ khơng có sự thống trị và áp đặt
của người đàn ơng với người đàn bà. Đồng thời tệ ngoại tình và mãi dâm cũng
bị loại bỏ.

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình
Theo Ăngghen, các mơ hình gia đình trong lịch sử ln gắn với phương
thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của gia đình phụ
thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản vật của một chế
4


độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát triển của chế độ xã
hội đó”
Ăngghen cũng vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình
trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát triển
của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo đức, tình cảm
của con người, trong đó sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội là yếu tố
quyết định.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có
tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. “Chế độ gia
đình hồn tồn bị quan hệ sở hữu chi phối”. Ngược lại, gia đình và trình độ phát
triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con người để bảo vệ
nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã hội.

Qua khảo cứu lịch sử, Ăngghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của lịch
sử nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần hơn, sau
đó xuất hiện hơn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong một thời kỳ
nhất định. Cuối cùng, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng xuất hiện.
Gia đình một vợ, một chồng được nảy sinh từ gia đình cặp đơi vào lúc
giao thời giữa giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng lợi
của gia đình một vợ, một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của
thời đại văn minh. Gia đình một vợ, một chồng được hình thành chủ yếu do sự
phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân chia
giai cấp trong xã hội. Hình thức này được duy trì cho đến ngày nay và sẽ ngày
càng hoàn thiện hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất.
Gia đình một vợ, một chồng trong chế độ tư hữu trở thành những đơn vị kinh tế
của xã hội. Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tư hữu hoàn toàn được thực
hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân cặp đôi sang chế độ một
vợ một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn vị kinh tế của xã hội.
5


Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình thức gia đình đầu tiên
khơng dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên những điều kiện kinh tế,
tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở hữu công cộng nguyên thủy
và tự phát.
Sự phân tích tồn diện của Ăngghen về q trình phát sinh và phát triển
của các hình thức gia đình cho thấy tính liên tục một cách khoa học nhất, đúng
đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trước kia chưa từng diễn ra. Lần đầu tiên
trong lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ăngghen đã chỉ ra các hình thức hơn
nhân chính tương ứng với các giai đoạn phát triển khác nhau của nhân loại.
Khi viết về gia đình, về hơn nhân và tình u nam nữ, Ăngghen tán thành
quan điểm của Mc gan cho rằng: “Gia đình là yếu tố năng động, nó khơng bao
giờ đứng ngun một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một hình thức cao,

như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn cao”.
Các Mác và Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để nghiên
cứu xã hội lồi người. Các ơng coi sự vận động phát triển và thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên. Các
ông cũng dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà
giai đoạn đầu của nó là “chủ nghĩa xã hội”. Điều đó là do quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trong các
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người có vai trị quyết định, mà con
người cụ thể chính là sản phẩm duy trì nịi giống của gia đình.
Trong nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, không chỉ các quan hệ xã
hội mà cả quan hệ gia đình cũng bị thay đổi. Sự yên ấm của từng gia đình cũng
có thể bị phá vỡ theo dịng xốy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Chính nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa lại có sứ mệnh phải gây cho lối hơn nhân đó một vết rạn
quyết định. Biến mọi thứ thành hàng hoá” đồng thời “xé toang tấm màn tình
cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là
những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
6


Gia đình của xã hội văn minh được hình thành trên nền tảng của tình u
và hơn nhân, đó cũng là những quyền hết sức cơ bản của con người - quyền
được tự do yêu đương và tự do kết hôn, được cộng đồng xã hội tôn trọng và bảo
vệ: “Hiện nay chỉ có trong giai cấp vơ sản thì tình u nam nữ mới có thể trở
thành một quy tắc”, và muốn thực hiện được điều đó,“tất yếu phải xác lập sự
bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên”. Dưới chế độ tư hữu, phụ nữ phải chịu
đựng một nghịch lý: vai trò lớn nhưng địa vị thấp hèn cả trong gia đình lẫn
ngồi xã hội; ln chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hoá.
Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình thức bất bình đẳng tuy có thay
đổi nhưng bản chất thì khơng thay đổi. Các Mác cịn tố cáo sự lợi dụng, bóc lột
tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Phụ nữ bị đối xử kém hơn cả so

với súc vật, họ phải lao động nặng nhọc trong những điều kiện khắc khổ: “để
kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh thoảng người ta vẫn cịn dùng phụ nữ thay cho
ngựa”.
1.3. Vị trí gia đình trong xã hội
1.3.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mơ, kết cấu, hình thức
tổ chức và tính chất của gia đình
Quan điểm duy vật về lịch sử đã chỉ ra rằng, gia đình là những hình thức
phản ánh đặc thù của trình độ sản xuất, của trình độ phát triển kinh tế. Trong
tiến trình lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ,
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt thay
thế nhau, kéo theo và dẫn đến sự biến đổi về hình thức tổ chức, quy mơ và kết
cấu cũng như tính chất của gia đình. Từ gia đình tập thể - quần hơn với các hình
thức huyết thống, đối ngẫu, gia đình cặp đơi bước sang hình thức gia đình cá
thể, một vợ một chồng; từ gia đình một vợ, một chồng bất bình đẳng, chỉ về phía
người phụ nữ, người vợ sang gia đình một vợ, một chồng ngày càng bình đẳng
giữa nam - nữ, giữa các thành viên trong gia đình. Tất cả những bước tiến đó
của gia đình phụ thuộc chủ yếu và trước hết vào những bước tiến trong sản xuất,
trong trình độ phát triển kinh tế của mỗi thời đại.
7


1.3.2. Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội, là cầu nối giữa cá
nhân với xã hội
Thông qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình,
mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với
những tác động của xã hội, thơng qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách...
của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội,
nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ tạo
ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời

sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội
Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được ni dưỡng,
chăm sóc để trở thành công dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ,
đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thơng qua gia đình và với gia đình.
Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình
thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động
của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây
dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục
tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
1.4. Các chức năng cơ bản của gia đình
1.4.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Hoạt động sinh con đẻ cái của con người trước hết xuất phát từ nhu cầu
tồn tại của chính con người, của xã hội. Chức năng này đáp ứng một nhu cầu rất
tự nhiên, chính đáng của con người. Nhưng tốc độ gia tăng dân số, mật độ dân
cư... và nhiều yếu tố khác liên quan đến các vấn đề chiến lược và trình độ phát
triển kinh tế, xã hội... Vì vậy sinh đẻ của mỗi gia đình khơng chỉ là việc riêng
của gia đình mà cịn là một nội dung quan trọng của mỗi quốc gia và toàn nhân
loại. Chiến lược về dân số hợp lý sẽ trực tiếp tạo ra một cách có kế hoạch nguồn

8


nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, là mục tiêu, động
lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
1.4.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có
sở hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng
tạo trong kinh tế, đảng và nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách sao cho
mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động sản xuất

kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Cùng với sản xuất kinh doanh, các gia đình và hộ gia đình cơng nhân viên
chức, cán bộ hành chính sự nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ
sỹ... cũng được khuyến khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng
từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia đình này tuy khơng trực tiếp thực
hiện chức năng sản xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan
trọng của hoạt động kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu
vật chất cơ bản của con người, qua đó kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế
của xã hội.
1.4.3. Chức năng giáo dục của gia đình
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối tồn diện, cả giáo dục tri thức
và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm mỹ, ý
thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, song chủ
yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng khơng ít của tư
tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Dù giáo dục xã hội
đóng vai trị ngày càng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, nhưng có những nội
dung và phương pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn khơng thể thay
thế. Giáo dục gia đình cịn bao hàm cả tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia
đình cơ bản và chủ yếu vẫn là thế hệ cha mẹ, ông bà đối với con cháu.

9


Giáo dục gia đình là một bộ phận và có quan hệ hỗ trợ, bổ sung hoàn
thiện thêm cho giáo dục nhà trường và xã hội. Do đó, dù giáo dục nhà trường và
giáo dục xã hội có phát triển lên trình độ nào, giáo dục gia đình vẫn được coi là
một thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Giáo dục gia đình ln trở
thành bộ phận quan trọng, hợp thành giáo dục nói chung phục vụ các lợi ích cơ
bản của giai cấp thống trị trong bất cứ thời đại nào, khi xã hội còn giai cấp và
phân chia giai cấp.

1.4.4. Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm của gia đình.
Chức năng này có vị trí đặc biệt quan trọng, cùng với các chức năng khác
tạo ra khả năng thực tế cho xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhiều vấn đề phức tạp
liên quan đến giới tính và giới, tâm lý lứa tuổi và thế hệ, những căng thẳng mệt
mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và cơng tác... nhiều khi có thể được
giải quyết trong một mơi trường gia đình hồ thuận. Sự hiểu biết, cảm thông,
chia sẻ và đáp ứng các nhu cầu tâm sinh lý giữa vợ - chồng, cha mẹ - con cái...
làm cho mỗi thành viên có điều kiện sống lạc quan, khoẻ mạnh về thể chất và
tinh thần là những tiền đề cần thiết cho một thái độ, hành vi tích cực trong cuộc
sống gia đình và xã hội.
Gia đình là một thiết chế đa chức năng. Mọi thành viên gia đình, tuỳ
thuộc vào vị thế, lứa tuổi... đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các chức năng
nói trên. Trong đó, người phụ nữ có vai trị đặc biệt quan trọng, bởi họ là người
do đặc thù tự nhiên - sinh học, đảm nhận và thực hiện một số thiên chức khơng
thể thay thế. Tuy nhiên, trong q trình lịch sử, phụ nữ là những người vất vả,
cực nhọc và chịu nhiều thiệt thòi nhất cả trong quan hệ xã hội lẫn trong quan hệ
gia đình. Do đó, giải phóng phụ nữ được coi là một mục tiêu quan trọng của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cần phải được bắt đầu từ gia đình.

10


CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
2.1. Những biến đổi của gia đình Việt Nam
Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến
chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm
mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và
giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia

đình Việt Nam.
2.1.1. Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu
Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc
sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí,
địa vị, tín ngưỡng tơn giáo và chính trị.
Có thể thấy, gia đình và hơn nhân là một giá trị quan trọng ở Việt Nam và
là thiết chế xã hội phổ biến. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng định tầm
quan trọng của hôn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết
cần lập gia đình. Quan điểm của nhóm những người chưa kết hôn cho thấy xu
hướng hôn nhân vẫn là xu hướng chủ đạo trong tương lai (với 80,5% số người
chưa kết hơn cho biết sẽ “kết hơn, có gia đình”, 46,2% cho rằng “thanh niên đến
tuổi trưởng thành phải lập gia đình”; tỷ lệ người đồng ý với việc sống độc thân
thấp hơn nhiều so với số người không đồng ý).
2.1.2. Gia đình Việt Nam trong quá trình vừa bảo lưu các giá trị truyền thống,
vừa tiếp thu yếu tố hiện đại
Trong số các giá trị đạo đức, tâm lý, tình cảm của gia đình, giá trị chung
thủy là giá trị rất được coi trọng trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được người
dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình u thương, bình đẳng, có
con, chia sẻ việc nhà, hịa hợp, có thu nhập. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới
41,6% coi chung thủy là “quan trọng”, và 56,7% coi chung thủy là “rất quan
11


trọng” trong hôn nhân. Đồng thời, nghiên cứu cho thấy hiện tượng bảo lưu
những tiêu chuẩn kép khắt khe với phụ nữ và xu hướng vị tha hơn cho nam giới
trong vấn đề chung thủy (giá trị “chung thủy quan trọng hơn với phụ nữ” có tỷ
lệ đồng ý cao là 66,2%). Điều này cho thấy, chung thủy vẫn là thước đo phẩm
giá của người phụ nữ khi họ được kỳ vọng là nhân tố giữ gìn cho sự êm ấm, tốt
đẹp của gia đình và xã hội.
Giá trị tình yêu là một giá trị bảo đảm sự bền vững của hôn nhân, nhất là

hôn nhân hiện đại dựa trên tình u để kết hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
khơng có sự khác biệt theo giới tính, tuổi, học vấn trong đánh giá tầm quan
trọng của tình yêu với sự gắn kết hôn nhân (trong số người được khảo sát có
89,7% số người được hỏi cho rằng tình yêu là quan trọng và rất quan trọng).
Thực tế khảo sát cũng cho thấy tỷ lệ người đánh giá thấp tiêu chí này nhất thuộc
về nhóm người trẻ nhất, người dân tộc Kinh, người đi làm, người sống ở đô thị,
ở các khu vực có đời sống kinh tế phát triển và mức độ hiện đại hóa cao.
Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại. Đa số người dân đánh giá khá
cao tầm quan trọng của bình đẳng, cho thấy gia đình Việt Nam đang thích ứng
với sự thay đổi của xã hội hiện đại, ủng hộ bình đẳng giới trong quan hệ vợ
chồng. Cùng với đó là những thay đổi trong quan niệm về việc sống chung hoặc
riêng trong gia đình. Sự xuất hiện các nhân tố mới, như di cư lao động, tôn trọng
tự do cá nhân, sự độc lập về kinh tế giữa bố mẹ và con cái trong đời sống gia
đình hiện đại cũng góp phần làm chuyển dịch từ gia đình lớn nhiều thế hệ (ông
bà - cha mẹ - con cháu) sang gia đình nhỏ (1 hoặc 2 thế hệ).
Hiện nay, các gia đình ngày càng nhận thức cao về tầm quan trọng của
trách nhiệm, chia sẻ trong đời sống gia đình. Đó là việc chia sẻ những mối quan
tâm, lắng nghe tâm tư, suy nghĩ của các thành viên trong gia đình. Các gia đình
có mức độ hiện đại hóa càng cao, mang nhiều đặc điểm hiện đại, như sống ở đơ
thị, có việc làm, có học vấn cao, mức sống cao, các khu vực kinh tế phát triển
hơn thì các giá trị chia sẻ và trân trọng càng được các cặp vợ chồng thể hiện rõ.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, người phụ nữ vẫn chưa bình đẳng thực sự với nam
12


giới, thể hiện trong tỷ lệ được người chồng chia sẻ, lắng nghe tâm tư và chia sẻ
suy nghĩ. Các gia đình được khảo sát ở khu vực Đơng Nam Bộ đạt điểm số trung
bình cao nhất trong các hoạt động chia sẻ, lắng nghe những mối quan tâm, tâm
tư của vợ/chồng. Cịn nhóm nữ giới, dân tộc thiểu số, có mức sống thấp, ở nơng
thơn, học vấn thấp thì có tỷ lệ cao trong việc cho rằng bạn đời coi thường hoặc

đánh giá thấp việc ứng xử hằng ngày hoặc đóng góp của họ đối với gia đình.
2.1.3. Các giá trị truyền thống và xu hướng dịch chuyển sang các giá trị hiện
đại trong tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
Cùng với việc coi trọng giá trị gia đình, các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
của người Việt Nam vẫn nghiêng về các giá trị truyền thống nhưng đang có xu
hướng dịch chuyển sang các giá trị mang tính cá nhân và hiện đại. Có thể thấy,
tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời của người dân được khảo sát ưu tiên các phẩm chất
về tư cách, đạo đức hơn là các tiêu chuẩn về ngoại hình hay tiêu chuẩn về kinh
tế.
Như vậy, có thể thấy, nếu chia tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời theo nhóm giá
trị cá nhân (tình u, hình thức, thu nhập, công việc, học vấn) và giá trị tập thể
(gia đình tương đồng, sự chấp thuận của bố mẹ, cùng địa phương, cùng dân tộc)
thì các giá trị cá nhân trong chọn lựa bạn đời là xu hướng nổi bật hiện nay, nhất
là với nhóm có đặc điểm hiện đại, như học vấn cao, sống ở thành thị.
2.1.4. Gia đình truyền thống và mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện
tượng hơn nhân gia đình mới
Các kiểu loại gia đình mới như hơn nhân đồng giới, chung sống không kết
hôn, làm mẹ đơn thân, tùy từng giai đoạn, thường rất hiếm hoặc khơng có trong
truyền thống nhưng lại có xu hướng gia tăng trong các xã hội đang chuyển đổi
từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, hiện đại. Ở Việt Nam hiện nay,
một bộ phận người dân, chủ yếu là người dân tộc Kinh, trẻ tuổi, học vấn cao, ở
thành thị có tỷ lệ chấp nhận những kiểu loại gia đình mới cao hơn, tuy rằng có
thể chưa thực sự hiểu rõ những hệ quả tiêu cực của nó.
13


Với những thay đổi lớn trong kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, những
hình thức hơn nhân gia đình mới ủng hộ tính cá nhân có xu hướng tăng. Nghiên
cứu cho thấy 38,5% người trả lời chấp nhận sống độc thân - mức độ này được
chấp nhận cao hơn ở nữ giới và nhóm xã hội mang nhiều đặc điểm hiện đại;

28,4% có nhu cầu, mong muốn sống thử trước khi kết hôn; 58,3% không ủng hộ
sống thử. Tỷ lệ này cho thấy nhóm người vẫn theo khn mẫu truyền thống
trong kết hôn tuy vẫn chiếm tỷ lệ cao nhưng khơng mang tính gần như tuyệt đối
như trong xã hội truyền thống trước đây.
Gần đây, hôn nhân đồng giới là vấn đề gây ra tranh cãi gay gắt giữa
những người ủng hộ và không ủng hộ. Hôn nhân đồng tính mới được chấp nhận
dè dặt, chỉ có 27,7% người đồng ý, phần lớn ở nhóm mang nhiều đặc điểm hiện
đại.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, người phụ nữ khơng lấy chồng
nhưng có con thường phải chịu sự lên án gay gắt của xã hội, cộng đồng và gia
đình. Hiện nay, hơn nhân vẫn là quyết định hệ trọng trong cuộc đời của người
phụ nữ. Tuy vậy, cùng với sự tiếp nhận văn hóa phương Tây cộng với quyền cá
nhân ngày càng được pháp luật bảo vệ, người phụ nữ ngày càng có quyền quyết
định việc kết hơn và có con. Quyền làm mẹ khơng chỉ thể hiện sự biến đổi trong
nhận thức mà còn là biểu hiện của sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.
2.1.5. Gia đình hiện đại và xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng
Quan hệ của gia đình với dòng họ trong xã hội Việt Nam hiện nay còn
khá chặt chẽ, gắn kết, mức độ gắn kết mạnh mẽ hơn ở nhóm mang những đặc
điểm truyền thống (như cao tuổi, học vấn thấp, nghèo, cư trú ở nông thơn); thể
hiện ở số gia đình đồng ý cao với nhận định mỗi gia đình, thành viên cần ln
gắn kết với dòng họ để giúp đỡ lẫn nhau, đạt điểm trung bình 4,04 theo thang đo
5 điểm, coi trọng việc giữ gìn nền nếp gia phong cho con cháu, đạt điểm trung
bình 4,17 theo thang đo 5 điểm.

14


Thực tế cho thấy có xu hướng suy giảm tính tập thể, tính cộng đồng theo
mức độ hiện đại hóa. Ở một chừng mực nhất định, những giá trị truyền thống về
tình làng nghĩa xóm vẫn được duy trì. Điều này cho thấy tính liên tục của các

giá trị văn hóa nhưng cũng đã có những biểu hiện mới ở thế hệ trẻ về thái độ đối
với quan hệ tình cảm và quan hệ vật chất giữa các thành viên trong gia đình và
cộng đồng. Trong khi người cao tuổi đề cao việc ứng xử có lễ nghĩa, có trước có
sau trong mọi hồn cảnh thì nhiều thanh niên lại gắn khía cạnh kinh tế với khía
cạnh tình cảm, hạnh phúc gia đình. Họ cho rằng khơng thể có hạnh phúc nếu
khó khăn về kinh tế.
So với điểm trung bình về mức độ gắn kết với dòng họ, mức độ gắn kết
giữa gia đình với cộng đồng thấp hơn. Chẳng hạn, điểm trung bình về nhận định
“bạn bè xóm giềng giúp đỡ bất cứ khi nào tôi cần” là 3,52/5 điểm, khá thấp so
với nhiều giá trị về quan hệ gắn kết với cha mẹ, anh chị em và dòng họ. Một
chiều quan hệ khác của gia đình với cộng đồng là mức độ tham gia các hoạt
động cộng đồng của gia đình và thành viên gia đình. Kết quả cho thấy, điểm
trung bình tham gia các hoạt động cộng đồng là 3,54, trên ngưỡng trung bình
một chút, cho thấy, tính cộng đồng của người dân Việt Nam đang trên đà suy
giảm.
Tình làng nghĩa xóm theo nghĩa được giúp đỡ, hỗ trợ thể hiện nhiều hơn ở
nhóm các gia đình mang đặc điểm hiện đại thấp hơn. Điểm trung bình về mức
độ sẵn sàng hy sinh lợi ích vì cộng đồng của gia đình Việt Nam trong diện được
khảo sát là 3,60, không quá cao, nhưng cũng không quá thấp. Điều đáng chú ý
là, mức độ sẵn sàng vì tập thể, vì cái chung cao hơn ở khu vực có mức độ hiện
đại thấp hơn, tức là khu vực còn duy trì tính cộng đồng cao hơn. Mức độ sẵn
sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung giảm dần theo đồn hệ tuổi, cho thấy
càng nhóm trẻ, mức độ chấp nhận tính cộng đồng, tính tập thể càng thấp, tính cá
nhân càng cao. Chiều hướng này cũng tương tự nếu nhìn theo mức độ chấp nhận
hy sinh lợi ích cá nhân vì cái chung theo trình độ học vấn của người trả lời và
15


mức sống. Sự chấp nhận giá trị cộng đồng, giá trị tập thể cao hơn ở những nhóm
có đặc điểm truyền thống hoặc yếu thế hơn.

Như vậy, các kết quả nghiên cứu về giá trị gia đình Việt Nam hiện nay
cho thấy có sự dịch chuyển từ các giá trị gia đình truyền thống sang giá trị gia
đình hiện đại, đồng thời có sự bền vững tương đối của văn hóa trong q trình
hiện đại hóa.

2.2. Thực trạng xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
2.2.1. Một số thành tựu đạt được
Để củng cố, xây dựng gia đình thành tế bào lành mạnh của xã hội, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong những năm đổi
mới, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo đến gia đình và chỉ rõ: Phải gắn chặt xây
dựng nếp sống mới với xây dựng con người mới, xây dựng gia đình văn hóa.
Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21-02-2005, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa
IX đề cao vai trị của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nịi
giống, là mơi trường quan trọng hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách
con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ
nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, các bộ, ngành Trung ương phát động và xây dựng các phong trào mang
tính xã hội trên quy mơ tồn quốc như phong trào: Ông bà cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền, con trung hiếu, cháu thảo hiền, Phụ nữ Việt Nam nuôi con khỏe,
dạy con ngoan... Năm 1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch) phát động phong trào xây dựng Gia đình văn hóa với tiêu chí xây dựng gia
đình hịa thuận, hạnh phúc. Nội dung xây dựng gia đình hướng tới: Gia đình có
kỷ cương, nền nếp, kính trên, nhường dưới, tơn trọng lẫn nhau, anh em hịa
thuận, cha mẹ ni con khỏe, dạy con ngoan, đối xử bình đẳng với các con, tạo

16


điều kiện cho con rèn luyện sức khỏe, đạo đức, học tập, đáp ứng nhu cầu xã hội,

đồng thời chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già tận tâm, chu đáo.
Trên 50 năm qua (từ năm 1962 đến nay), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch kiên trì duy trì đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
trong đó tiêu chí: Gia đình hịa thuận, tiến bộ, hạnh phúc được đề cao thực hiện,
cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Hiện nay có trên 16 triệu hộ gia đình đạt
chuẩn văn hóa. Định kỳ 5 năm/1 lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức
Hội nghị tun dương Gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc tồn quốc. Tun
dương 911/16 triệu hộ gia đình (năm 2007) và 822/16.421.740 hộ gia đình (năm
2013) đạt chuẩn gia đình văn hóa.
Phong trào xây dựng Gia đình văn hóa tác động đến nền tảng gia đình với
những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của gia đình
Việt Nam như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên nhường dưới, ngày càng được
nhân rộng trong các mơ hình gia đình trẻ sống hạnh phúc, gia đình nhiều thế hệ
chung sống hịa thuận, mẫu mực. Chất lượng cuộc sống của gia đình ngày càng
được nâng cao, mơ hình gia đình hịa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, tương trợ cộng
đồng đã được nhiều gia đình hướng tới và thực hiện.
2.2.2. Một số hạn chế tồn tại
Thời đại mới lại mang đến nhiều giá trị tiến bộ cần tiếp nhận như sự bình
đẳng nam nữ, bình đẳng trong nghĩa vụ trách nhiệm, dân chủ trong các mối quan
hệ gia đình, tơn trọng tự do và lợi ích cá nhân... Điều cần thiết là phải biết tiếp
thu một cách có chọn lọc các tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại đồng
thời bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống quý báu và cải biến, loại bỏ
những giá trị cũ khơng cịn phù hợp. Nếu thực hiện tốt được điều đó thì gia đình
Việt Nam sẽ có cơ hội để phát triển theo xu hướng bình đẳng, tiến bộ, ấm no và
hạnh phúc.
Tuy nhiên, ngay trong khuôn khổ những hệ giá trị của gia đình cũng sẽ
khơng tránh khỏi sự xung đột giữa những giá trị mới tiến bộ cần thu nhận và
17



những giá trị cũ lỗi thời cần loại bỏ. Điều đó cũng góp phần thúc đẩy sự biến đổi
về quy mơ của gia đình Việt Nam. Cịn nhân tố chủ yếu quyết định sự biến đổi
vẫn là xung đột trong các quan hệ xã hội, thách thức đặt ra cho gia đình Việt
Nam là mâu thuẫn giữa các thế hệ. Với việc trong một gia đình có ba bốn hay
thậm chí là năm thế hệ cùng chung sống, ngồi những ưu điểm thì cũng tồn tại
khá nhiều những điều bất tiện. Mâu thuẫn giữa các thế hệ diễn ra do có sự khác
biệt về tuổi tác, tư tưởng, quan niệm, lối sống sẽ làm cho các cá nhân cảm thấy
gò bó mất tự do khi cùng chung sống với nhau, cuộc sống của gia đình ln đặt
trong tình trạng căng thẳng. Người già thường hướng về các giá trị truyền thống,
do vậy họ có xu hướng bảo thủ, áp đặt nhận thức và cách nghĩ của mình đối với
những người trẻ. Điều đó dẫn đến sự khó hịa hợp về lối sống, đơi khi có thể dẫn
đến những sự va chạm, bất đồng, khiến cho những người trẻ cảm thấy khơng
thoải mái, khơng thể tự mình quyết định các vấn đề riêng mà phải thông qua ý
kiến những người lớn tuổi. Trong khi đó lớp trẻ do tiếp cận nhiều hơn với các
tiến bộ khoa học kỹ thuật, các trào lưu văn hóa mới từ nước ngồi nên hướng tới
thay đổi về suy nghĩ và nhận thức, họ trở nên độc lập hơn, cái tôi cá nhân phát
triển hơn, họ muốn được tự do nói lên những suy nghĩ của mình, tiếp thu những
giá trị hiện đại.
Lẽ tất nhiên là những cái mới không phải đều chứa đựng yếu tố tích cực,
tốt đẹp, khó tránh được có những cái khơng phù hợp với truyền thống, bởi vậy
cần tiếp thu có chọn lọc. Lớp trẻ khi nhận được sự góp ý của người già thì cảm
thấy khó chịu, cho rằng những người già là cổ hủ, lạc hậu, thích dạy bảo. Sự
chênh nhau về thế hệ này khiến cho xu hướng tách ra ở riêng tăng cao, khi đó
mỗi cá nhân sẽ thỏa mãn được nhu cầu tự do của riêng mình, có thể hành động
theo ý muốn của bản thân. Một gia đình chỉ có hai thế hệ: cha mẹ - con cái tất
nhiên sẽ tồn tại ít xung đột hơn so với một gia đình có ba, bốn thế hệ. Việc
những xung đột thế hệ ngày càng trở nên phổ biến làm cho gia đình truyền
thống cũng dần mất đi và đến bây giờ chỉ còn tồn tại với số lượng rất ít.

18




×