MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ
GIA ĐÌNH....................................................................................................2
1.1.
Khái niệm về gia đình..................................................................2
1.1.1. Khái niệm gia đình......................................................................2
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình........................3
1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử...........................................4
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình........................5
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG Q TRÌNH
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM................7
2.1. Thực trạng xây dựng gia đình mới ở Việt Nam.............................7
2.1.1. Một số thành tựu đạt được...........................................................7
2.1.2. Một số hạn chế tồn tại.................................................................9
2.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng chính sách gia đình mới........10
KẾT LUẬN....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................15
i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc biệt trong cơ cấu của xã hội. Sự ổn
định và phát triển của gia đình có vị trí, vai trị hết sức quan trọng đối với sự
ổn định và phát triển xã hội. Việt Nam là một trong số những nước có truyền
thống tơn trọng gia đình. Tuy nhiên, đã có một thời gian dài do phải tập trung
giải quyết các vấn đề giải phóng dân tộc, thống nhất và xây dựng đất nước
nên chúng ta đã khơng có điều kiện để nghiên cứu về gia đình. Gia đình ở
nước ta, bên cạnh những bước phát triển mới, tiến bộ, thuận lợi cũng phải đối
diện với rất nhiều thách thức và bước đầu có những dấu hiệu của sự khủng
hoảng. Những định hướng về xây dựng giá trị, chuẩn mực gia đình trong thời
kỳ mới chưa rõ ràng và chưa trở thành học thuyết cho các gia đình noi theo.
Bởi vậy, nghiên cứu về gia đình nhằm xây dựng những luận cứ khoa học cho
việc củng cố và phát triển gia đình là một trong những vấn đề quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.
Việt Nam là một nước chậm tiến đang đi vào cơng nghiệp hố, hiện đại
hóa với đầy rẫy những khó khăn. Tuy nhiên Việt Nam cũng có những thuận
lợi to lớn là với sự nỗ lực và sáng tạo, Việt Nam có thể tránh được những sai
lầm của người đi trước và xử lý vấn đề gia đình một cách khoa học, hợp lý,
phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gạt bỏ được những nhân tố
lạc hậu để gia đình Việt Nam trở thành nhân tố tích cực cho cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa vừa thể hiện bản sắc văn hố của dân tộc, vừa phù hợp với xu
hướng tiến bộ của nhân loại. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tôi đã chọn đề
tài “ Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình và sự vận dụng
của Đảng ta trong xây dựng chính sách gia đình mới ở Việt Nam hiện
nay” để hiểu rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn gia đình Việt Nam.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC- LÊ NIN VỀ
GIA ĐÌNH
1.1.
Khái niệm về gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình - hai tiếng thân thương đó đã in sâu vào trái tim mỗi người từ
khi ta cịn tấm bé. Đó chính là nơi mỗi người được sinh ra và lớn lên, có tác
động to lớn đến sự hình thành nhân cách của cá nhân cũng như sự phát triển
của xã hội.
Vấn đề gia đình từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy có rất nhiều cách hiểu khác nhau
về gia đình. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý một số định nghĩa sau về gia đình.
a.
Khi đề cập đến vấn đề gia đình, C.Mác cho rằng “Quan hệ thứ
ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử là hàng ngày tái tạo ra
đời sống của bản thân mình, con người cịn tạo ra những người khác, sinh
sơi, nảy nở, đó là quan hệ giữa chồng - vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia
đình”.
Như vậy, gia đình là một cộng đồng xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân
và huyết thống.
b.
Theo Liên hợp Quốc thì gia đình là một đơn vị được quy định
thông qua mối liên hệ của các cá nhân nói lên sự tái sản xuất thế hệ sau ở
mức độ mà những mối liên hệ này đựơc những quy phạm và thủ tục pháp lý
phê chuẩn.
Như vậy trong định nghĩa về gia đình của Liên hợp quốc có thêm vấn
đề pháp lý, ở đây, gia đình được Nhà nước bảo hộ. Đó là một cơ sở quy
phạm pháp luật của Liên hợp quốc. Gia đình là một nhóm người có quan hệ
họ hàng, có cuộc sống chung, có ngân sách chung.
2
c.
Nhà Tâm lý học Ngơ Cơng Hồng khi bàn đến vấn đề gia đình
thì cho rằng gia đình là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hơn nhân
và huyết thống, tâm sinh lí, có chung gia đình vật chất và tinh thần ổn định
trong các thời điểm lịch sử”.
So với hai định nghĩa trên thì định nghĩa thứ ba này có thêm khía cạnh về mối
quan hệ kinh tế (vật chất) và tình cảm (tinh thần) giữa các thành viên trong
gia đình.
Tóm lại, gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau về hơn
nhân và huyết thống đồng thời có sự cố kết nhất định về kinh tế - vật chất,
qua đó nảy sinh những nghĩa vụ và quyền lợi cho các thành viên của mình.
1.1.2. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình.
Trong gia đình có hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống. Hai mối quan hệ này được cụ thể hoá là mối quan hệ giữa
vợ và chồng và mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ cơ bản có tác động đến
nhiều mối quan hệ khác trong gia đình, Vì gia đình hạnh phúc khi duy trì
được tình yêu trong hơn nhân. Quan hệ vợ chồng phải dựa trên tình nghĩa sự
chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau và cùng nhau
xây dựng gia đình hạnh phúc.
Bên cạnh mối quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữa cha mẹ
và con cái. Đây là mối quan hệ bình đẳng và nề nếp. Cha mẹ và con cái cùng
thương yêu và chia sẻ với nhau để làm tốt cơng việc gia đình và xã hội.
Ngồi ra, gia đình cịn bao gồm nhiều mối quan hệ khác như quan hệ giữa
ông bà và cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ dì chú bác với nhau.
Có thể nói mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đều được bắt
nguồn từ quan hệ hơn nhân và huyết thống. Đây là thứ tình cảm thiêng liêng
3
và cao cả mà không một cộng đồng xã hội nào thay thế được. Đây là mối
quan hệ bền vững, lâu dài, không thể phá vỡ của cả đời người .
1.1.3. Các hình thức gia đình trong lịch sử.
Gia đình là sản phẩm của xã hội. Cùng với sự vận động và phát triển
của xã hội, gia đình cũng có những bộ mặt tương xứng. Trong lịch sử xã hội
loài người đã xuất hiện nhiều hình thức gia đình khác nhau.
Đầu tiên là những gia đình tập thể, gia đình huyết tộc, gia đình punaluan, gia
đình cặp đơi. Những kiểu gia đình tập thể này đều xuất hiện ở chế độ cộng
sản nguyên thuỷ, khi con người vẫn còn đang ở vào thời đại mơng muội. Ba
gia đình này vẫn thuộc chế độ mẫu hệ và mẫu quyền, và vẫn phụ thuộc vào
tự nhiên.
Sang chế độ chiếm hữu nô lệ, người đàn ơng càng giữ vai trị quan
trọng trong lao động, từ đó sinh ra chế độ phụ quyền. Gia đình một vợ - một
chồng trở thành một đặc trưng, một hình thức phát triển tiến bộ nhất trong
lịch sử. Sự ra đời của nó gắn liền với sự nơ dịch của người đàn ông đối với
người đàn bà.
Tuy nhiên, gia đình một vợ - một chồng trong chế độ tư hữu chỉ mang
tính tương đối mà thơi. Nó ln đi kèm với tệ ngoại tình và mãi dâm.
Phải đến chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội thì gia đình một vợ - một
chồng mới thực sự trọn vẹn. Đây là gia đình mới trong thời đại mới. Nó có
mầm mống từ gia đình ở xã hội tư bản chủ nghĩa. Gia đình mới trong xã hội
chủ nghĩa xã hội bắt nguồn từ tình u thương chứ khơng có sự thống trị và
áp đặt của người đàn ông với người đàn bà. Đồng thời tệ ngoại tình và mãi
dâm cũng bị loại bỏ.
4
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về gia đình
Theo Ăngghen, các mơ hình gia đình trong lịch sử luôn gắn với
phương thức sản xuất và chế độ xã hội nhất định. Sự vận động, biến đổi của
gia đình phụ thuộc vào sự vận động và biến đổi của xã hội. Gia đình “là sản
vật của một chế độ xã hội nhất định, hình thức đó sẽ phản ánh trạng thái phát
triển của chế độ xã hội đó”
Ăngghen cũng vạch rõ nguồn gốc phát triển của các hình thức gia đình
trong lịch sử là do sự tác động của quy luật đào thải tự nhiên và do sự phát
triển của những điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của tâm lý, đạo đức,
tình cảm của con người, trong đó sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã
hội là yếu tố quyết định.
Những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định có
tác dụng quyết định đến hình thức tổ chức và kết cấu của gia đình. “Chế độ
gia đình hồn tồn bị quan hệ sở hữu chi phối”. Ngược lại, gia đình và trình
độ phát triển của gia đình cũng có tác động rất quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tái tạo ra bản thân con
người để bảo vệ nòi giống cũng như tái tạo ra sức lao động cho sản xuất xã
hội.
Qua khảo cứu lịch sử, Ăngghen nhận thấy, trong thời kỳ đầu tiên của
lịch sử nhân loại đã từng tồn tại những hình thức khác nhau của chế độ quần
hơn, sau đó xuất hiện hôn nhân đối ngẫu, kết hợp những đôi riêng lẻ trong
một thời kỳ nhất định. Cuối cùng, chế độ hơn nhân một vợ, một chồng xuất
hiện.
Gia đình một vợ, một chồng được nảy sinh từ gia đình cặp đơi vào lúc
giao thời giữa giai đoạn giữa và giai đoạn cao của thời đại dã man. Thắng lợi
của gia đình một vợ, một chồng là một trong những dấu hiệu của buổi đầu của
thời đại văn minh. Gia đình một vợ, một chồng được hình thành chủ yếu do
5
sự phát triển của lực lượng sản xuất làm nảy sinh chế độ tư hữu và sự phân
chia giai cấp trong xã hội. Hình thức này được duy trì cho đến ngày nay và sẽ
ngày càng hoàn thiện hơn khi xuất hiện chế độ sở hữu công cộng về tư liệu
sản xuất. Gia đình một vợ, một chồng trong chế độ tư hữu trở thành những
đơn vị kinh tế của xã hội. Ăngghen viết: Việc chuyển sang chế độ tư hữu
hoàn toàn được thực hiện dần dần và song song với việc chuyển từ hôn nhân
cặp đôi sang chế độ một vợ một chồng. Gia đình cá thể bắt đầu trở thành đơn
vị kinh tế của xã hội. Ph.Ăngghen vạch rõ chế độ một vợ một chồng là hình
thức gia đình đầu tiên khơng dựa trên những điều kiện tự nhiên mà dựa trên
những điều kiện kinh tế, tức là trên thắng lợi của sở hữu tư nhân đối với sở
hữu cơng cộng ngun thủy và tự phát.
Sự phân tích tồn diện của Ăngghen về q trình phát sinh và phát triển
của các hình thức gia đình cho thấy tính liên tục một cách khoa học nhất,
đúng đắn nhất của lịch sử nhân loại, điều mà trước kia chưa từng diễn ra. Lần
đầu tiên trong lịch sử, bằng những cứ liệu khoa học, Ăngghen đã chỉ ra các
hình thức hơn nhân chính tương ứng với các giai đoạn phát triển khác nhau
của nhân loại.
Khi viết về gia đình, về hơn nhân và tình yêu nam nữ, Ăngghen tán
thành quan điểm của Mc gan cho rằng: “Gia đình là yếu tố năng động, nó
khơng bao giờ đứng ngun một chỗ, mà chuyển từ hình thức thấp lên một
hình thức cao, như xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp lên một giai đoạn
cao”.
Các Mác và Ăngghen đã vận dụng quan điểm duy vật về lịch sử để
nghiên cứu xã hội lồi người. Các ơng coi sự vận động phát triển và thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình phát triển lịch sử - tự
nhiên. Các ông cũng dự báo sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu của nó là “chủ nghĩa xã hội”. Điều đó là do quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
6
sản xuất, trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất thì con người có vai
trị quyết định, mà con người cụ thể chính là sản phẩm duy trì nịi giống của
gia đình.
Trong nền đại cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa, không chỉ các quan hệ xã
hội mà cả quan hệ gia đình cũng bị thay đổi. Sự yên ấm của từng gia đình
cũng có thể bị phá vỡ theo dịng xốy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: “Chính
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại có sứ mệnh phải gây cho lối hơn nhân đó
một vết rạn quyết định. Biến mọi thứ thành hàng hoá” đồng thời “xé toang
tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ
ấy chỉ cịn là những quan hệ tiền nong đơn thuần”.
Gia đình của xã hội văn minh được hình thành trên nền tảng của tình
u và hơn nhân, đó cũng là những quyền hết sức cơ bản của con người quyền được tự do yêu đương và tự do kết hôn, được cộng đồng xã hội tôn
trọng và bảo vệ: “Hiện nay chỉ có trong giai cấp vơ sản thì tình u nam nữ
mới có thể trở thành một quy tắc”, và muốn thực hiện được điều đó,“tất yếu
phải xác lập sự bình đẳng xã hội thật sự giữa hai bên”. Dưới chế độ tư hữu,
phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò lớn nhưng địa vị thấp hèn cả
trong gia đình lẫn ngồi xã hội; ln chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị
bóc lột, bị tha hố. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình thức bất
bình đẳng tuy có thay đổi nhưng bản chất thì khơng thay đổi. Các Mác cịn tố
cáo sự lợi dụng, bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Phụ
nữ bị đối xử kém hơn cả so với súc vật, họ phải lao động nặng nhọc trong
những điều kiện khắc khổ: “để kéo thuyền dọc sơng Đào, thỉnh thoảng người
ta vẫn cịn dùng phụ nữ thay cho ngựa”.
7
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH GIA ĐÌNH MỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
2.1.1. Một số thành tựu đạt được
Để củng cố, xây dựng gia đình thành tế bào lành mạnh của xã hội,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong những
năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo đến gia đình và chỉ rõ: Phải gắn
chặt xây dựng nếp sống mới với xây dựng con người mới, xây dựng gia đình
văn hóa. Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21-02-2005, của Ban Bí thư Trung ương
Đảng khóa IX đề cao vai trị của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là
nơi duy trì nịi giống, là mơi trường quan trọng hình thành, ni dưỡng và
giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt
đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, các bộ, ngành Trung ương phát động và xây dựng các phong trào mang
tính xã hội trên quy mơ tồn quốc như phong trào: Ông bà cha mẹ mẫu mực,
con cháu thảo hiền, con trung hiếu, cháu thảo hiền, Phụ nữ Việt Nam nuôi con
khỏe, dạy con ngoan... Năm 1962, Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch) phát động phong trào xây dựng Gia đình văn hóa với tiêu chí xây
dựng gia đình hịa thuận, hạnh phúc. Nội dung xây dựng gia đình hướng tới:
Gia đình có kỷ cương, nền nếp, kính trên, nhường dưới, tơn trọng lẫn nhau,
anh em hịa thuận, cha mẹ ni con khỏe, dạy con ngoan, đối xử bình đẳng
với các con, tạo điều kiện cho con rèn luyện sức khỏe, đạo đức, học tập, đáp
ứng nhu cầu xã hội, đồng thời chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già tận tâm,
chu đáo.
Trên 50 năm qua (từ năm 1962 đến nay), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch kiên trì duy trì đẩy mạnh thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
8
trong đó tiêu chí: Gia đình hịa thuận, tiến bộ, hạnh phúc được đề cao thực
hiện, cho đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Hiện nay có trên 16 triệu hộ gia
đình đạt chuẩn văn hóa. Định kỳ 5 năm/1 lần, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tổ chức Hội nghị tun dương Gia đình văn hóa tiêu biểu xuất sắc tồn
quốc. Tun dương 911/16 triệu hộ gia đình (năm 2007) và 822/16.421.740
hộ gia đình (năm 2013) đạt chuẩn gia đình văn hóa.
Phong trào xây dựng Gia đình văn hóa tác động đến nền tảng gia đình
với những quy tắc ứng xử tốt đẹp, phát huy giá trị đạo đức truyền thống của
gia đình Việt Nam như hiếu nghĩa, thủy chung, kính trên nhường dưới, ngày
càng được nhân rộng trong các mơ hình gia đình trẻ sống hạnh phúc, gia đình
nhiều thế hệ chung sống hịa thuận, mẫu mực. Chất lượng cuộc sống của gia
đình ngày càng được nâng cao, mơ hình gia đình hịa thuận, hạnh phúc, tiến
bộ, tương trợ cộng đồng đã được nhiều gia đình hướng tới và thực hiện.
2.1.2. Một số hạn chế tồn tại
Bên cạnh những kết quả, những mặt tích cực đạt được, trên thực tế ở
nhiều nơi, nhất là ở các đô thị lớn, đời sống gia đình có biểu biện của sự
khủng hoảng. Các mối quan hệ gia đình, nếp sống văn hóa gia đình truyền
thống tốt đẹp đang bị lấn át bởi những quan hệ hàng hóa, thị trường, lợi
nhuận, bởi sự lệch chuẩn giá trị do những lối sống lai căng kệch cỡm, thiếu
văn hóa, xa lạ với đạo lý và truyền thống văn hóa dân tộc (sống ly thân, sống
thử, chung sống trước hôn nhân, sống đơn thân, sống khơng cần có hơn
thú…). Sự gắn bó với nhau giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng
lẻo hơn. Bên cạnh những gia đình vẫn giữ được lịng hiếu thảo, vượt lên khó
khăn, sống có hồi bão, xuất hiện lối sống thực dụng, phóng đãng, xem nhẹ
hoặc khơng cần biết đến lịng hiếu thuận, lễ nghĩa gia đình, thiếu trách nhiệm
với gia đình và cộng đồng, sống lạnh lùng và xa lánh những người nghèo
đang phải đối mặt với cuộc sống nghèo khó. Trong mỗi gia đình, sự thay đổi
về đạo đức, lối sống cũng đang diễn ra mạnh mẽ. Để thỏa mãn nhu cầu vật
9
chất ngày càng tăng, các thành viên trong gia đình lao vào hoạt động kiếm
tiền dưới các hình thức khác nhau, thậm chí hy sinh cả các nhu cầu tình cảm
bình thường trong cuộc sống hằng ngày, làm giảm sút tình cảm gia đình, ảnh
hưởng đến sự gắn bó thân mật của các thành viên trong gia đình. Mặt khác, hệ
thống giá trị xã hội thay đổi, định hướng giá trị trong từng con người cũng
thay đổi, hiện tượng rạn nứt tình cảm giữa các thành viên trong gia đình tăng
lên, xuất hiện tình trạng ly hơn, trẻ em lang thang kiếm sống và lao vào tệ nạn
xã hội, một số người già sống cô đơn thiếu vắng sự chăm sóc của con cháu và
người thân. Tệ nạn xã hội, bạo hành gia đình, tệ mại dâm, ma túy, tệ cờ bạc
đang xâm nhập phá vỡ hạnh phúc gia đình cả ở những đô thị lớn và vùng
nông thôn./.
2.2. Một số giải pháp nhằm xây dựng chính sách gia đình mới
Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
cùng cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra các điều kiện, cơ hội
thuận lợi để các gia đình tiếp cận kiến thức, giá trị tốt đẹp của các dân tộc, các
nền văn hóa khác, kỹ năng tổ chức cuộc sống trong xã hội hiện đại, song cũng
tiềm ẩn những thách thức về chăm sóc và phát huy vai trị của người cao tuổi,
việc cân bằng giữa cơng việc và gia đình, suy giảm quan hệ liên thế hệ, mối
quan hệ giữa vợ và chồng cũng đối mặt với nhiều khó khăn cả từ hệ thống
chính sách, dịch vụ hỗ trợ và đặc biệt là sự phát triển chưa đồng đều của các
nhóm xã hội ở các địa phương, các đặc điểm cá nhân và gia đình, văn hóa
khác nhau... Thực tiễn trên đặt ra yêu cầu cần tiếp tục giữ gìn giá trị gia đình,
đồng thời đặt gia đình trong mối quan hệ tương tác với các thiết chế xã hội
khác, như kinh tế, văn hóa, chính trị…, thúc đẩy vai trị và sự tham gia của
gia đình vào quá trình phát triển xã hội bền vững.
Để thực hiện được mục tiêu trên, một số khuyến nghị được đề xuất là:
Thứ nhất, rà sốt, hồn thiện chính sách, pháp luật.
10
Tổ chức đánh giá, tổng kết chính sách về gia đình, trên cơ sở đó cung
cấp các luận cứ khoa học và đề xuất xây dựng các chiến lược, chính sách mới
phù hợp với đặc điểm gia đình hiện nay, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội
bền vững giai đoạn 2021 - 2030. Chiến lược phát triển gia đình giai đoạn
2021 - 2030 nên sớm được xây dựng để cùng nhịp với các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, chiến lược bình đẳng giới... Rà sốt và bổ sung một số
văn bản pháp luật với những định hướng mới phù hợp với bối cảnh xã hội và
những vấn đề đang nảy sinh.
Thứ hai, thúc đẩy giáo dục gia đình và các dịch vụ hỗ trợ gia đình.
Chú trọng giáo dục gia đình. Tránh sự phân biệt giới trong việc dạy dỗ
con cái. Cần thay đổi định kiến hay khn mẫu giới bắt đầu từ chính các cơng
việc nhà hằng ngày trong gia đình, từ sự dạy dỗ hay phân công công việc của
cha mẹ dành cho con cái.
Bố mẹ cần xác định tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức và lối
sống trong gia đình, quan tâm tạo dựng mơi trường gia đình, xây dựng nền
nếp, truyền thống đạo đức gia đình, lối sống lành mạnh, tình cảm yêu thương,
chia sẻ, quan tâm, lắng nghe và tơn trọng con cái. Một mơi trường gia đình tốt
sẽ giúp trẻ em có nền tảng đạo đức, lối sống tốt.
Giáo dục trước hôn nhân nhằm cung cấp cho những người trưởng thành
kiến thức cần thiết về tình bạn, tình u, tình dục, sức khỏe sinh sản, Luật
Hơn nhân và Gia đình, điều kiện kết hơn, lựa chọn bạn đời, quan hệ vợ
chồng,... Xây dựng mối quan hệ mới giữa cha mẹ và con cái trên cơ sở tiếp
thu những giá trị nhân văn mới và kế thừa những giá trị tốt đẹp của gia đình
Việt Nam truyền thống. Có các biện pháp hỗ trợ, trang bị kiến thức, kỹ năng
cho cha mẹ trong việc giáo dục, định hướng lối sống phù hợp cho trẻ vị thành
niên cũng như trong ứng xử giữa các thế hệ của gia đình nhằm giảm thiểu
khoảng cách bất đồng giữa các thế hệ. Hỗ trợ để các bậc cha mẹ có phương
11
pháp, biện pháp, nội dung giáo dục phù hợp với sự thay đổi những giá trị mới
của gia đình trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Có nhận thức đầy đủ về hệ thống dịch vụ cơng thuộc lĩnh vực gia đình,
xây dựng danh mục dịch vụ công và cơ chế quản lý đối với từng loại hình
dịch vụ cơng thuộc lĩnh vực gia đình. Nghiên cứu và triển khai những dịch vụ
gia đình cần thiết để hỗ trợ cho công việc nội trợ và chăm sóc sức khỏe. Đặc
biệt quan tâm đến việc hỗ trợ sắp xếp và tổ chức cuộc sống gia đình của
người di cư lao động nhằm bảo đảm sự ổn định, an tồn của cuộc sống gia
đình. Xây dựng mơi trường văn hóa - xã hội lành mạnh, kiên quyết đấu tranh
chống những tệ nạn xã hội, tham nhũng, lãng phí và lối sống thực dụng, tơn
thờ đồng tiền làm ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách trẻ em.
Thứ ba, sự phối hợp của gia đình, nhà trường và xã hội trong định
hướng giá trị và xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống cho trẻ em.
Gia đình cần phối hợp chặt chẽ hơn với nhà trường trong việc quản lý,
giáo dục đạo đức, lối sống cho trẻ em. Thơng qua quan hệ chặt chẽ với nhà
trường, gia đình có thể nắm bắt rõ tình hình con cái, can thiệp giáo dục kịp
thời khi con cái có biểu hiện sai lệch về lối sống, đạo đức, hạn chế những tác
động tiêu cực từ phía xã hội, đồng thời khen thưởng và động viên khi con cái
có thành tích học tập, rèn luyện tốt, tạo thêm động lực cho trẻ phát huy những
điểm mạnh, sở trường. Khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà
trường, hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn nếu bố mẹ của trẻ tham gia vào các hoạt
động học tập của trẻ và có những hỗ trợ tích cực về mặt tinh thần, qua đó giúp
trẻ phát triển hơn về tinh thần, đạo đức.
Trong môi trường xã hội, cần xác định các nội dung giáo dục đạo đức,
lối sống là một trong những bộ mơn chính trong chương trình giáo dục từ cấp
mẫu giáo trở lên. Đồng thời, cải thiện chương trình giáo dục về đạo đức, lối
sống trong trường học theo hướng tăng cường các nội dung và đa dạng hóa
12
hình thức giảng dạy có tính thực tế giúp thay đổi nhận thức và hành vi nhiều
hơn.
Thứ tư, thúc đẩy phát triển kinh tế hộ gia đình.
Cơng nghiệp hóa cần tạo cơ hội công bằng để tất cả các hộ gia đình ở
mọi vùng, miền, tất cả các dân tộc, khu vực thành thị và nơng thơn, nhóm hộ
giàu và hộ nghèo đều có thể tham gia vào q trình phát triển. Quan điểm này
cũng phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tồn diện mà Việt Nam đang hướng
tới, đó là “khơng ai bị bỏ lại phía sau” trong q trình phát triển.
Cần nắm bắt đúng xu hướng biến đổi chức năng kinh tế của gia đình để
có những chính sách phù hợp, thúc đẩy những yếu tố tích cực và giảm thiểu
những yếu tố tác động tiêu cực tới chức năng kinh tế gia đình.
Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội lấy gia đình là trọng
tâm, đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế gia đình. Khuyến khích các
thành viên trong gia đình hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh cũng như
trong cuộc sống nhằm duy trì giá trị truyền thống gắn kết giữa các thành viên
trong gia đình Việt Nam.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, truyền
thơng về bình đẳng giới.
Đẩy mạnh tun truyền, phổ biến và hỗ trợ phụ nữ tự thoát khỏi các
định kiến xã hội từ cộng đồng và từ chính bản thân, hướng phụ nữ tới những
giá trị được tôn trọng, được hạnh phúc, được thể hiện bản thân, đồng thời
đóng góp tốt cho xã hội.
Xây dựng môi trường làm việc thân thiện, có hệ thống dịch vụ hỗ trợ
(ví dụ như hệ thống nhà trẻ chăm sóc ban ngày…), giúp phụ nữ sẵn sàng và
thuận lợi hơn trong tham gia xã hội.
13
Thứ sáu, phổ biến kết quả nghiên cứu nhằm giữ gìn, phát huy và định
hướng dư luận xã hội cho các giá trị gia đình trong thời kỳ hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế; xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong
thời kỳ mới, hướng tới xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam thịnh vượng,
tiến bộ, hạnh phúc và văn minh./.
14
KẾT LUẬN
Tiếp thu lý luận Mác - Lênin, Đảng ta rất quan tâm đến gia đình, đến
việc xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa. Xây dựng gia
đình xã hội chủ nghĩa trước hết là phải tạo dựng ra những điều kiện cần thiết
trên mọi phương diện giúp các thành viên trong gia đình sống một cách hòa
hợp tốt đẹp với nhau bao gồm những yếu tố vật chất, tinh thần, xã hội, là xây
dựng những điều kiện cho những yếu tố đó hình thành và phát triển. Do vậy
xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa là cơng việc của mỗi
gia đình và của tồn xã hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng (1996) chỉ rõ: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng tiến bộ và
hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm
của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của mỗi người trong việc lưu truyền
những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác…”.
Như vậy, vấn đề xây dựng gia đình xã hội chủ nghĩa - gia đình văn hóa
ở nước ta chính là nền tảng vững chắc đảm bảo cho sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Đây là cơng việc mang tính tồn diện, đồng bộ,
lâu dài nhưng lại rất cấp bách. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay cần có những giải pháp thiết
thực, hiệu quả. Trước hết cần nâng cao trách nhiệm quản lý, điều hành cơng
tác gia đình. Tăng cường tun truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của
các cấp, ngành, tổ chức đồn thể, các gia đình, cá nhân và cộng đồng về vai
trị của cơng tác xây dựng gia đình văn hóa, hướng tới mục tiêu gia đình bình
đẳng, ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Phát triển kinh tế hộ gia đình nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, tạo cơ sở cho việc thực hiện
tốt cơng tác xây dựng gia đình văn hóa.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ph.Ăngghen - Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của
Nhà nước. Nxb Sự thật, 1961.
2. Gia đình văn hố mới - Nxb Văn hố 1997.
3. Nguyễn Minh Hồ, Hơn nhân gia đình trong xã hội hiện đại, - Nxb
trẻ . 2000.
4. Vũ Ngọc Khánh, Văn hố gia đình Việt Nam - Nxb Văn hoá Dân
tộc , 1998.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2015a. Văn kiện Đảng tồn tập, tập 57.
Nxb. Chính trị Quốc gia.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2015b. Văn kiện Đảng tồn tập, tập 64.
Nxb. Chính trị Quốc gia.
16