Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bàn về khái niệm mệnh đề nghĩa trong ngữ nghĩa học cú pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.53 KB, 8 trang )


BÀN VỀ KHÁI NIỆM MỆNH ĐỀ NGHĨA
TRONG NGỮ NGHĨA HỌC CÚ PHÁP
Hứa Văn Đức
( )*

Trong bài viết này chúng tôi
muốn bàn thêm về khái niệm
“proposition” (tạm dịch là mệnh đề
nghĩa*) thường được giới thiệu một
cách rất cô động trong các tài liệu về
ngữ nghĩa học.
1. Với tư cách là một khoa học,
ngữ nghĩa học cú pháp hình thành và
phát triển vào khoảng
những năm 20 của thế kỷ thứ
XX. Đặc trưng của giai đoạn này là có
sự xích lại gần nhau của ngữ nghĩa và
logich học. Sự tiến bộ của triết học và logich học trong những năm đầu thế kỷ
thức 20 đã ảnh hưởng đến tư tưởng của các nhà ngôn ngữ học.
Can you use English? Prove it !
Những nghiên cứu, phân tích ngôn ngữ tự nhiên từ phía một số nhà triết
học và logich học đã có tiếng vang trong ngôn ngữ học hiện đại. Từ những năm
50-60 của thế kỷ trước với ngữ pháp học cải biến-tạo sinh người ta thấy xuất hiện
khuynh hướng vận dụng logich phân tích ngôn ngữ, mới đầu là phân tích cấu
trúc cú pháp, bắt đầu với học thuyết ngữ nghĩa học tạo sinh của J.D.Mc Cawley,
G.Lakoff, J.Ross…v…v….. và dần dần về sau là phân tích cấu trúc cú pháp-ngữ
nghĩa và cấu trúc logich-ngữ nghĩa của câu đơn, của lời.
Ngữ nghĩa học cú pháp trong giai đoạn này có những đặc trưng như sau:
1.Thế giới khách quan được xem xét không phải như là tổng hòa của các
vật thể, mà là tổng hòa của các sự kiện (event, fact), và tương ứng như vậy, đơn


vị tế bào cơ bản của ngữ nghĩa được thừa nhận không phải là từ - tên gọi của vật
thể, mà là phát ngôn về sự kiện - tức là câu.
2. Có một số từ của ngôn ngữ bắt nguồn trực tiếp từ hiện thực ngoài ngôn
ngữ, chúng được giải thích bằng thuật ngữ của các sự kiện hay vật thể quan sát
được.
3. Đối với những đơn vị cuối cùng (tức những câu) thì thủ pháp phân tích
chủ yếu là đặc trưng của sự sắp xếp tương tác giữa các từ và ngữ trong câu và
trong lời nói chung. Đó là sự tổ hợp (phân bố luận) và sự hoán cải lẫn nhau (phép
cải biến , phép cải dung).

*
Phó Giám đốc Trung tâm ĐTTX, Đại học Mở Bán công TP.HCM

1

4. Miêu tả những nghĩa khởi nguyên có tính chất cơ sở để qui về đó tất cả
những nghĩa còn lại là nhiệm vụ đặc biệt được gọi là sự xác lập các “primitives
ngữ nghĩa”
[1, tr 11]

Khuynh hướng phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của câu trong giai đoạn này đã
đưa vào cú pháp học những ý tưởng và những khái niệm mới.
2. Trước đây khi đề cặp đến chức năng định danh người ta thường nghĩ đó
là chức năng của từ . “Nhờ từ con người gọi tên sự vật, hiện tượng của thực tế
khách quan, những đặc điểm và quan hệ của chúng. Chính vì vậy chức năng cơ
bản của từ trong ngôn ngữ là chức năng định danh.” (.Ç.Ðỵçíị ). “Một trong
những chức năng quan trọng nhứt của từ là chức năng định danh.” (.Þ.Ìđìỵ), còn
giao tiếp (hay thông báo) là chức năng của câu. Ì.ß.ỵ viết :“ Khác với từ, câu là
một đơn vị thông báo”. ..ỵĩỵ cũng có ý kiến tương tự : “ Từ là đơn vị định danh cơ
bản, câu là đơn vị thông báo”.

Khuynh hướng của ngôn ngữ học hiện đại cho rằng định danh và thông báo
là chức năng của từ và câu. Định danh và thông báo không phải là những chức
năng riêng biệt của từng cấp độ ngôn ngữ (từ và câu) mà chúng tồn tại song
song và chuyển hóa cho nhau tùy theo tình huống mà chúng được hiện thực
hóa.
Nếu như trong cú pháp truyền thống vấn đề được nghiên cứu trước tiên là
quan hệ của những đơn vị cú pháp đối với cấu trúc logich của tư duy, trong đó
các nhà ngôn ngữ cố gắng tìm tòi không chỉ nội dung cơ bản mà còn cả mẫu cấu
trúc câu khái quát, thì những người ủng hộ khuynh hướng ngữ nghĩa học cú
pháp, xuất phát từ quan điểm cho rằng phát ngôn là một ký hiệu ngôn ngữ hoàn
chỉnh để tập trung sự chú ý đến mối quan hệ của câu đối với tình huống được
biểu hiện bởi chúng. Tính tổng hợp của chức năng cú pháp hiện nay được chứng
minh không chỉ bằng quy luật tư duy của con người, mà cả bởi tính loại suy chung
phổ biến của cấu trúc hoạt động con người. Tư tưởng về tính tổng hợp của những
tình huống trong ngôn ngữ trở thành cơ bản của việc nghiên cứu đối chiếu và tiêu
biểu trong lĩnh vực ngữ nghĩa học cú pháp, dẫn đến bằng con đường so sánh cấu
trúc câu của những ngôn ngữ khác nhau với cấu trúc một sự kiện được biểu hiện
bởi chúng.
Một mặt, với sự lý giải ký hiệu học của câu, mặt khác do khuynh hướng
chung đối với ngữ nghĩa của việc phân tích cú pháp đã thu hút sự quan tâm đặc
biệt đối với bình diện định danh của câu và khi nói đến chức năng định danh của
câu trong ngôn ngữ học đã nêu lên khai niệm mệnh đề nghĩa (proposition) hay
định danh mệnh đề (propositional nomination).
Định danh mệnh đề chính là yếu tố thông báo của câu. Khi tách ra khỏi cái
được thông báo thì tác động của nó đối với cấu trúc định danh theo cách thức:
trung tâm thông báo trở thành cốt lõi của định danh vì vị ngữ thể hiện dấu hiệu
của sự vật (chất lượng, thuộc tính…) hay hành động và cấu trúc danh hóa liên
quan đến cả câu chớ không riêng gì một phần vị thể. Ý nghĩa được biểu hiện của
nó thuộc về dãy nghĩa. Vì vậy, cái biểu vật của câu khác với cái biểu vật của từ,
về nguyên tắc nó không thể có tính vật chất của sự vật cụ thể. Với ý nghĩa này,

định danh sự kiện đối lập với định danh vật thể. Nói cách khác, định danh mệnh

2

đề là sự định danh của ký hiệu ngôn ngữ ở cấp độ cú pháp. Đặc trưng của định
danh này là nó không mang thuộc tính vật thể. Nó tương liên với trục thời gian và
được tư duy trong mối quan hệ với các vật và các sự kiện, nó thuộc loại nghĩa của
lời nói và được biểu hiện ra trong câu , cũng như các chuyển đổi của câu trên cơ
sở của vĩ tố cấu tạo danh từ.
3. Như vậy, khái niệm «PROPOSITION» được hiểu như thế nào trong ngữ
nghĩa học?
Trước hết để tránh sự nhầm lẫn đối với thuật ngữ mệnh đề, chúng tôi xin
phân biệt rõ về cách dùng của thuật ngữ này.
Lâu nay, trong cú pháp học vẫn thường dùng thuật ngữ mệnh đề để chỉ hai
thành phần trong câu phức. Đó là mệnh đề chính (main clause) và mệnh đề phụ
(surbordinate clause). Chẳng hạn như trong các ví dụ sau đây:
1) I agree that it was a mistake.
2) He complained that he had been underpaid .
trong đó : I agree, He complained: là những mệnh đề chính
it was a mistake, he had been underpaid: là những mệnh đề phụ.
Còn khái niệm proposition được đề cặp trong bài viết này được hiểu là
mệnh đề nghĩa, là một đơn vị ngữ nghĩa thường được chứa đựng trong mệnh đề
cú pháp (clause).
Khái niệm mệnh đề được hình thành từ khái niệm của logich học. Mệnh đề
logich là cấu trúc dùng để biểu thị phán đoán. Bản chất của phán đoán là liên kết
khái niệm để thực hiện nhận định. “ “Phán đoán là hình thức của tư duy nhờ kết
hợp các khái niệm có thể khẳng định hay phủ định về sự tồn tại của đối tượng
nào đó, về mối liên hệ giữa các đối tượng với dấu hiệu của nó hay về quan hệ
giữa các đối tượng.” [2, tr. 48]
Thực hiện một nhận định là hành động mệnh đề. Nhận định đó có thể là

nhận định khẳng định hay phủ định. Hành động đó tồn tại dưới dạng một ngôn
ngữ nhất định. Hành động mệnh đề tồn tại trong tư duy dưới dạng chất liệu ngôn
ngữ chứ không phải là hành động hư vô. Chất liệu biểu hiện ngôn ngữ của mệnh
đề chính là câu. Câu trong tiềm năng đó khi được đưa vào giao tiếp được gọi là
một phát ngôn. Câu chính là cái vỏ vật chất của phán đoán được bộc lộ ra bên
ngoài theo các cấu trúc hình thức khác nhau và cấu trúc câu không trùng với cấu
trúc mệnh đề.
Ngôn ngữ học vay mượn khái niệm mệnh đề từ logich học và làm thành
một đơn vị của ngôn ngữ học. Khi đó nó thuộc về bình diện nội dung, là một đơn
vị ngữ nghĩa. Từ đây, ta có khái niệm mệnh đề nghĩa, hay nói cách khác thuật
ngữ mệnh được sử dụng trong ngữ nghĩa học cú pháp là mệnh đề nghĩa, là ý
nghĩa cơ bản của câu có động từ làm vị ngữ và thường diễn đạt một nội dung
tương ứng với một tình huống, sự kiện hiện thực hay hư tạo.
Trong giáo trình “
ĐỴÐÌÍÍ ÐĨĐĐ ßÇ
” tác giả .. ỵỵa đã đưa ra định nghĩa như
sau: “ Khuynh hướng của ngữ nghĩa học cú pháp khi hướng sự chú ý vào cấu trúc

3

sự kiện, tình huống với tư cách là cái biểu niệm của câu, đã nêu lên khái niệm
mệnh đề, được vay mượn từ logich học, để chỉ cái chung nhất tồn tại giữa câu và
các biến thể của câu trong giới hạn của một ngôn ngữ và sự diễn dịch sang các
ngôn ngữ khác. Mệnh đề được hiểu như là sự tình, một nội dung khách thể của
câu , được xem xét trong sự tách biệt với tất cả các ý nghĩa chủ thể đi kèm và với
các phép qui chiếu mà tổ chức hình thức của câu đặt ra.” [3, tr 480]
4. Là đơn vị cơ bản của định danh sự kiện, mệnh đề nghĩa có kết cấu của
riêng mình. Trong đa số các công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học cú pháp, cấu
trúc của mệnh đề được miêu tả như sau: hạt nhân ngữ nghĩa của mệnh đề là vị
thể (predicate), nó mang trong mình sự tình (state of affairs) – một dấu hiệu của

đối tượng hay quan hệ giữa các đối tượng, sự vật, nó cho một vị trí xác định đối
với sự vật là các tham tố (participants) của sự tình, xác định số lượng và vai trò
của chúng.
Cấu trúc của mệnh đề nghĩa có thể được thể hiện như sau:


participant
participant
participant
participant


PREDICATE

participant
participant










Ví dụ: Trong mệnh đề:
The Earth revolves around the Sun.
Vị thể là động từ có hình thái “revolves” (hay là hình thái tương ứng
revolving trong cụm từ revolving around the Sun). Vị thể này được bao bọc bởi

các tham tố nằm trong mối quan hệ xác định với vị thể. Trong trường hợp trên,
trái đất (the earth), mặt trời (the sun) là các tham tố. Trong mối quan hệ với vị
thể các tham tố này có các ý nghĩa khác nhau: trái đất (the earth) - mang ý nghĩa
agent, mặt trời (the sun) - mang ý nghĩa undergoer. Cần lưu ý rằng ngòai các ý
nghĩa của tham tố vị thể cũng xác định số lượng của chúng. Đ.. ưíđỵí cho rằng :
“Mỗi vị thể mở ra những “chỗ trống” để lôi kéo các tham tố lấp vào” (ưíđỵí 1972 :
177).
Nếu động từ vị thể “revolves” mở ra 2 vị trí đối với “The Earth” và “the
Sun” (xem sơ đồ 1) thì động từ vị thể “write” (trong câu: I write my father the

4

letter.) mở ra 3 vị trí là “ I”, “the letter” và “ my father” trong mệnh đề “write my
father the letter”(xem sơ đồ 2).



REVOLVES
THE SUN
THE EARTH



Sơ đồ 1



WRITE

THE LETTER

I






Sơ đồ 2
MY FATHER
Ngoài vị thể xác định cấu trúc của mệnh đề, các từ danh hóa cũng là những
thành tố của cấu trúc mệnh đề đó. Chúng là những tham tố sự kiện được hiểu
tương đối độc lập với nhau. Song các tham tố không khác nhau trong mối quan
hệ với vị thể, chúng tồn tại trong những mối quan hệ khác nhau với vị thể, biểu
hiện các ý nghĩa ngữ nghĩa khác nhau. Chẳng hạn như trong ví dụ sau đây: đối
với động từ vị thể “write” có thể có các tham tố sau đây:
1) Người thực hiện hành động: Ai viết ?
2) Đối tượng của hành động : Viết cái gì?
3) Công cụ thực hiện hành động: Viết bằng gì?
4) Đối tượng tiếp nhận hành động: Viết cho ai?
5) Vật liệu : Viết vào đâu ?
6) Chủ đề : Viết về cái gì?

Tóm lại, về mặt ý nghĩa các tham tố không đồng loại. Tùy thuộc vào các
định hướng của vị thể các tham tố có những ý nghĩa khác nhau.
5. Liên quan đến hình thái của mệnh đề cần phải thấy rằng hình thái của
mệnh đề có thể trùng với hình thái vị thể của câu (Her eyes glow) hoặc có thể
không trùng (glow in her eyes). Trong ngữ nghĩa học cú pháp mệnh đề được xem
xét trong sự khác biệt với hình thái vị thể của câu ( không có phạm trù tình thái
và thời gian), cũng như nó tồn tại ngoài thời gian và tình thái thể hiện mối quan
hệ giữa vị thể và định danh. Có những câu hàm ẩn nhiều mệnh đề nghĩa và

ngược lại nội dung một mệnh đề nghĩa có thể được thể hiện bằng nhiều cấu trúc

5

×