Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

Đặc điểm hư từ hán việt trong tiếng việt” (có đối chiếu với hư từ thuần việt, hư từ tiếng hán cổ đại và hiện đại)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.46 KB, 165 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AĐ: Anh Đức
BN: Bảo Ninh
BVAQNTT: Bạch Vân am quốc ngữ thi tập
CL: Chu Lai
CNNÂGN: Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa
ĐG: Đoàn Giỏi
HBC: Hồ Biểu Chánh
HCM: Hồ Chí Minh
HD: Hồ Dếnh
HĐ: Hồng Đức Quốc âm thi tập
HXH: Hồ Xuân Hương
KH: Khái Hưng
KL: Kim Lân
LL: Lê Lựu
MVK: Ma Văn Kháng
NB: Nguyễn Bính
NBH: Nguyễn Bá Học
NBK: Nguyễn Bỉnh Khiêm
NC: Nam Cao
NCH: Nguyễn Công Hoan
NH: Nguyên Hồng
NHT: Nguyễn Huy Thiệp
NK: Nguyễn Khuyến
NMC: Nguyễn Minh Châu
NT: Nguyễn Tuân
NTT: Ngô Tất Tố
PQ: Phùng Quán
PT: Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân


trọng kinh
QÂTT: Quốc âm thi tập
TĐK: Trần Đăng Khoa
TH: Tô Hoài
TK: Truyện Kiều
TKML: Truyền kì mạn lục giải âm
TL: Thạch Lam
VB: Vũ Bằng
VNG: Võ Nguyên Giáp
VSDÂ: Việt sử diễn âm
VTP: Vũ Trọng Phụng
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Các quan điểm phân chia hư từ tiếng Hán ……………… ………
… Error: Reference source not found
Bảng 1.2. Quan điểm của Nguyễn Anh Quế về phân chia từ loại hư từ 17
Bảng 1.3. Các quan điểm phân chia tiểu loại hư từ tiếng Việt 19
Bảng 1.4. Danh sách phó từ Hán Việt 33
Bảng 1.5. Danh sách quan hệ từ Hán Việt 35
Bảng 1.6. Danh sách trợ từ Hán Việt 36
Bảng 2.1. Hệ thống phó từ thời gian tiếng Việt 44
Bảng 2.2. Khả năng kết hợp với các từ loại của phó từ chỉ mức độ 50
Bảng 2.4. Phân loại quan hệ từ Hán Việt 60
Bảng 3.1. Danh sách phó từ Hán Việt được chuyển loại từ các từ loại khác 102
Bảng 3.2. Danh sách quan hệ từ Hán Việt chuyển loại 103
Bảng 3.3. Danh sách trợ từ Hán Việt chuyển loại 104
Bảng 3.4. Hoạt động của hư từ Hán Việt theo phong cách chức năng 113
Bảng 3.5. Phân bố sử dụng của cặp hư từ những/các trong các văn bản 115
Bảng 3.6. So sánh đặc điểm sử dụng của hư từ các 118
Bảng 3.7. So sánh tần suất hoạt động của các, mỗi, những 120
Bảng 3.8. So sánh tần suất giữa đang - đương 125

Bảng 3.9. So sánh tần suất hoạt động của cực với cực kì 132
Bảng 3.10. Thống kê tần suất hoạt động của cặp từ tuy, tuy nhiên 140
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ phân chia tiểu loại hư từ tiếng Việt 23
Hình 1.2. Biểu diễn các giai đoạn tiếp xúc Hán-Việt 26
Hình 1.3. Phân biệt từ Hán Việt với từ tiếng Hán có cách đọc Hán Việt 28
Hình 1.4. Phân biệt từ Hán Việt về nguồn gốc 29
Hình 1.5. Cấu trúc của từ Hán Việt 30
Hình 1.6. Các lớp từ Hán Việt trong tiếng Việt 31
Hình 3.1. Quá trình “hình vị hóa” của hư từ 99
Hình 3.2. Biểu đồ tần suất hoạt động của hư từ hòa 108
Hình 3.3. Biểu đồ tần suất hoạt động của hư từ hằng 109
Hình 3.4. Biểu đồ biến thiên số lượng hư từ Hán Việt (TK XV-nay) 112
Hình 3.5. Biểu đồ thống kê số lượng và tần suất hoạt động của hư từ Hán Việt
theo phong cách chức năng 113
Hình 3.6. Sự khác biệt về ý nghĩa ngữ pháp của sẽ với sắp, sắp sửa, chuẩn bị
125
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hư từ là lớp từ ra đời sau trong bất kì ngôn ngữ nào. Hư từ có số lượng
nhỏ so với thực từ nhưng tần suất hoạt động lại lớn hơn nhiều. Hư từ có vị trí quan
trọng trong việc thể hiện các quan hệ ngữ pháp. Như vậy, nghiên cứu hư từ nằm ở
khu vực giao thoa giữa từ vựng học và ngữ pháp học.
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập (từ không biến đổi hình thái khi
thay đổi chức năng cú pháp), phương tiện ngữ pháp chủ yếu dựa vào phương thức
trật tự từ và hư từ. Chính vì vậy, "gánh nặng" thể hiện các quan hệ ngữ pháp trong
tiếng Việt lại càng đặt lên hệ thống hư từ. Nghiên cứu hư từ rất hữu ích đối với việc
làm sáng tỏ những vấn đề về từ vựng và ngữ pháp của tiếng Việt.
1.2. Thông thường, vay mượn từ ngữ giữa các ngôn ngữ chủ yếu diễn ra ở bộ
phận thực từ. Bởi vì, thực từ đáp ứng nhu cầu bổ sung những tên gọi, khái niệm còn

thiếu trong ngôn ngữ. Tuy nhiên, tiếng Việt lại vay mượn một số lượng khá lớn hư
từ gốc Hán. Theo Nguyễn Tài Cẩn, tiếng Việt có đến một phần ba hư từ là gốc Hán.
Con số thống kê từ Từ điển giải thích hư từ tiếng Việt (Hoàng Trọng Phiến, 2010)
cho biết: 65% hư từ tiếng Việt có gốc Hán [64]. Từ đó mà nói, tiếng Việt chịu sự
ảnh hưởng to lớn về mặt ngữ pháp của tiếng Hán. Nghiên cứu bộ phận hư từ Hán
Việt sẽ cho chúng ta cái nhìn chính xác hơn về vấn đề này. Mặt khác, tính chất
ngoại lai của hư từ Hán Việt còn khiến cho người sử dụng gặp khó khăn. Hiện
tượng nói sai, viết sai ngữ pháp do hệ thống hư từ Hán Việt còn khá phổ biến.
1.3. Phần lớn hư từ tiếng Việt có nguồn gốc tiếng Hán. Ngay cả những hư từ
trong các văn bản tiếng Việt cổ như: mựa, sá, tua, khắng, huống, đối (với), bui,
chỉn, cái, chiếc, nhé, v.v. cũng được vay mượn từ tiếng Hán. Vì thế, nhà nghiên cứu
Nguyễn Ngọc San đã từng khẳng định: “nghiên cứu sự xuất hiện các hư từ và xác
định được tương đối chính xác thời điểm xuất hiện của nó có thể làm chỗ dựa để
nghiên cứu về trình độ diễn đạt và phát triển của ngôn ngữ.” “Tìm hiểu lai nguyên
và quá trình du nhập của các từ này [hư từ] vào văn Nôm cũng có thể giúp ta hình
1
dung được phần nào quang cảnh chung của sự phát triển tiếng Việt trong lịch sử.”
[68, tr. 236]
1.4. Hư từ là một trong những vấn đề phức tạp nhất của bất kì ngôn ngữ nào.
Chẳng hạn, muốn học giỏi một ngoại ngữ nào đó cần phải nắm vững về hư từ. Kết
quả nghiên cứu về hệ thống hư từ tiếng Việt nói chung, bộ phận hư từ Hán Việt nói
riêng có ý nghĩa ứng dụng rất to lớn, nhất là đối với việc biên soạn tài liệu dạy học
tiếng Việt cho người nước ngoài.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Đặc điểm hư từ Hán
Việt trong tiếng Việt” (có đối chiếu với hư từ thuần Việt, hư từ tiếng Hán cổ đại và
hiện đại).
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu hư từ tiếng Việt
Nhìn chung, “hầu hết các nhà ngữ pháp khi nghiên cứu về tiếng Việt đều trực
tiếp hoặc gián tiếp nói đến hư từ. Tuy nhiên vấn đề hư từ cho đến nay vẫn chưa phải

là một vấn đề đã khép kín” [67, tr. 13] Dưới đây chúng tôi tóm tắt tình hình nghiên
cứu về hư từ tiếng Việt dưới các góc độ khác nhau.
Như đã đề cập, Nguyễn Anh Quế (1988) đã tiến hành khảo sát và miêu tả các
đặc điểm về ngữ nghĩa và ngữ pháp của từng nhóm hư từ và từng hư từ cụ thể của
tiếng Việt. Trong đó biện luận, so sánh các cách dùng khác nhau của cùng một hư
từ, hoặc của những hư từ có ý nghĩa tương đồng. Công trình còn luận về khả năng
chuyển đổi ý nghĩa (hư hóa hoặc thực hóa) của hư từ.
Một số tác giả khi nghiên cứu về hư từ trên góc độ dụng học, tức không
nghiên cứu hư từ với tư cách bản thân chúng, mà nghiên cứu khả năng hành chức
của chúng. Chẳng hạn như: Lê Đông (1991) với “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của hư từ
tiếng Việt: Ý nghĩa đánh giá của các hư từ” [21], “Ngữ nghĩa, ngữ dụng của hư từ
tiếng Việt: Siêu ngôn ngữ và hư từ tiếng Việt” [22]; Lê Đông, Hùng Việt (1995),
“Nhấn mạnh như một hiện tượng ngữ dụng và đặc trưng ngữ nghĩa-ngữ dụng của
một số trợ từ nhấn mạnh trong tiếng Việt” [23]; Nguyễn Thị Lương (1996) với
Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong
tiếng Việt [53]; Nguyễn Văn Chính (2000) với luận án tiến sĩ Vai trò của hư từ
2
tiếng Việt trong việc hình thành thông báo phát ngôn [12]; Phùng Thị Thanh Lâm
(2003) với Khả năng hoạt động của các phó từ chỉ thời thể tiếng Việt trong các sự
tình hậu cảnh [48]; Vũ Thị Kim Anh (2005) với Vai trò của các tiểu từ tình thái
cuối câu trong việc hình thành hiệu lực tại lời của phát ngôn [1], v.v.
Ngoài ra, có những nghiên cứu hướng tới việc ứng dụng, trong đó rất hữu ích
là việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Đối với việc học ngoại ngữ, muốn hiểu
được ngữ pháp của một ngôn ngữ thì việc nắm bắt được hệ thống hư từ là rất quan
trọng. Có thể kể một vài công trình như: Tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt và việc
dạy tiểu từ tính thái cuối câu tiếng Việt cho người nước ngoài (Lê Thị Hoài Dương,
2003); Kết từ tiếng Việt trong một số sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và
vấn đề giảng dạy kết từ cho người nước ngoài (Nguyễn Thị Thanh Ngọc, 2004)
Một số công trình lại là những nghiên cứu chuyên sâu về một tiểu loại hư từ.
Phạm Hùng Việt (1996) với luận án tiến sĩ Một số đặc điểm chức năng của trợ từ

tiếng Việt hiện đại. Luận án này về sau (2003) được tác giả phát triển thành cuốn
sách Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại [85]. Tác giả đã đưa ra những tiêu chí để nhận
diện trợ từ tiếng Việt, một từ loại rất phức tạp và dễ nhầm lẫn với phó từ. Sau khi
xác lập một danh sách tương đối đầy đủ về trợ từ tiếng Việt, phân loại chúng, tác
giả đã tiến hành phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa, chức năng và cách sử dụng
của một số trợ từ.
Có tác giả lại chú ý nghiên cứu về hư từ trong một văn bản cụ thể. Vũ Đức
Nghiệu (1985, 2000) với một số bài viết: “Một số cứ liệu về lớp hư từ trong Quốc
âm thi tập và Hồng Đức Quốc âm thi tập thế kỉ XV” [55], “Hư từ trong bản giải âm
Truyền kì mạn lục” [58], v.v.
Gần đây, Bùi Thanh Hoa (2012) trong luận án “Đồng nghĩa của hư từ” đã
nhấn mạnh hư từ có nghĩa và cho rằng “hư từ không phải là đơn vị trống nghĩa hay
chỉ thuần túy mang nghĩa ngữ pháp”. [35, tr.5] Từ đó tác giả xếp các hư từ về 36
nhóm hư từ đồng nghĩa với nhau. “Việc xác lập và phân tích các nhóm hư từ đồng
nghĩa đồng thời cũng chỉ ra và chứng minh được những hiện tượng ngữ nghĩa giống
với thực từ của hư từ, như hiện tượng đa nghĩa, hiện tượng đồng âm và hiện tượng
trái nghĩa.” [35, tr. 179] Với nhận xét như trên, tác giả đã dường như đã đánh đồng
3
giữa ý nghĩa từ vựng với ý nghĩa ngữ pháp. Theo chúng tôi, không có hư từ đồng
nghĩa vì bản thân tên gọi “hư từ” đã là rỗng nghĩa. Chỉ có nhóm các hư từ có cùng
chức năng, cùng biểu thị một ý nghĩa ngữ pháp tương đương nhau mà thôi.
2.2. Nghiên cứu hư từ Hán Việt
Việc nghiên cứu từ vựng gốc Hán nói chung và từ Hán Việt nói riêng từ lâu đã
được quan tâm. Điểm qua các công trình viết về từ vựng tiếng Việt có thể thấy các
tác giả ít nhiều đều có đề cập đến từ Hán Việt. Các học giả: A. de Rhodes (1651),
Trương Vĩnh Kí (1889), Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), Maspéro (1912) chính là
những người đã đặt nền móng cho việc nghiên cứu về từ gốc Hán, từ Hán Việt
trong tiếng Việt. Maspéro đã đưa ra số liệu: tiếng Việt có 60% từ gốc Hán. Nhà
nghiên cứu người Trung Quốc, Vương Lực (1958) trong Hán Việt ngữ nghiên cứu
đã lấy âm Hán Việt làm trung tâm để chia từ gốc Hán làm ba loại: Hán Việt cổ, Hán

Việt và Hán Việt Việt hóa. Nguyễn Tài Cẩn (1979) với cuốn sách Nguồn gốc và
quá trình hình thành cách đọc Hán Việt [6] đã đi sâu nghiên cứu vấn đề ngữ âm của
từ gốc Hán và lí giải sâu sắc về âm Hán Việt. Từ đó về sau, nhiều nhà từ vựng học
khác cũng quan tâm đến vấn đề từ gốc Hán và nghiên cứu ở nhiều góc độ khác
nhau: Hồ Lê, Nguyễn Văn Tu (1978), Phan Ngọc (1983, 1985, 1991), Nguyễn Văn
Khang (1986, 1991, 1994), Đinh Trọng Lạc (1964, 1997), Cù Đình Tú (1983), Phan
Văn Các (1991), Nguyễn Ngọc San (1993), Stankievic N. (1991), Nguyễn Đức Tồn
(2001), Lê Đình Khẩn (2002), v.v.
Việc nghiên cứu riêng về hư từ Hán Việt hiện nay vẫn còn rất khiêm tốn. Có
thể kể tên một số tác giả có công trình nghiên cứu có liên quan đến hư từ gốc Hán
như: Lê Đình Khẩn (2001, 2002), Phạm Thị Hồng Trung (2003, luận văn thạc sĩ),
Vũ Đức Nghiệu (2006), Đào Thanh Lan (2007, chủ trì đề tài khoa học cấp Đại học
quốc gia Hà Nội).
Dưới đây, chúng tôi tóm tắt những công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên
quan đến hư từ Hán Việt.
Lê Đình Khẩn (2001) có bài “Hư từ gốc Hán và cách thức Việt hóa” [43, tr.19-
24]. Trong bài viết này, đóng góp lớn nhất của tác giả là đã liệt kê 39 hư từ Hán
Việt, xếp vào ba nhóm: phó từ, giới từ và liên từ. Với quy mô một bài báo thì số
4
lượng từ ngữ khảo sát như vậy là không nhỏ. Nhưng nhìn rộng ra, những cứ liệu
này chưa đủ để khái quát diện mạo về hư từ gốc Hán (trên thực tế tác giả làm việc
với hư từ Hán Việt) trong tiếng Việt. Các từ loại như: tình thái từ, trợ từ không hề
được nhắc đến. Ngoài ra, bài viết còn có một nội dung khác là “một số cách thức
Việt hóa hư từ gốc Hán”, như hiện tượng chuyển loại, “đổi vị trí”, “thay đổi sắc
thái”, v.v. Nhìn chung, bài viết mới dừng lại ở việc đề xuất vấn đề.
Năm 2002, tác giả Lê Đình Khẩn tiếp tục công bố cuốn Từ vựng gốc Hán
trong tiếng Việt [81], trong đó chương 5: “Hư từ gốc Hán và cách thức Việt hóa”. Ở
đây, tác giả đã khảo cứu các quan niệm về hư từ của các nhà nghiên cứu đi trước và
đưa ra 4 tiêu chí nhận diện hư từ. Theo tác giả hư từ gồm 6 tiểu loại: “phó từ (phụ
từ), giới từ, liên từ (kết từ), trợ từ, thán từ, từ tượng thanh” [44, tr. 239]. Tuy nhiên,

khi tiến hành lập danh sách và miêu tả hư từ gốc Hán, tác giả chỉ đưa ra 3 tiểu loại,
gồm: phó từ, giới từ, liên từ, tổng cộng 39 từ cụ thể (25 phó từ, 4 giới từ, 10 liên từ).
Các từ loại khác như: trợ từ, thán từ, từ tượng thanh không được nhắc đến. 39 hư từ
gốc Hán mà tác giả khảo sát chưa bao quát được hoạt động của hư từ gốc Hán và hư
từ Hán Việt nói riêng trong tiếng Việt. Lê Đình Khẩn chịu ảnh hưởng của một số
nhà biên soạn từ điển hư từ Hán cổ (Trần Văn Chánh) nên là người duy nhất đưa từ
tượng thanh vào danh sách hư từ.
Phạm Thị Hồng Trung (2003) trong Luận văn thạc sĩ “Khảo sát hoạt động
chức năng của một số hư từ có nguồn gốc tiếng Hán trong tiếng Việt hiện đại” đã
lập được một danh sách 150 hư từ, bao gồm phó từ, giới từ, liên từ gốc Hán. Ở đây,
do chưa xác định rõ ràng các vấn đề lí thuyết hư từ nên tác giả đã bỏ sót các tình
thái từ, trợ từ trong khi khảo sát. Tác giả đã tiến hành mô tả hoạt động của từng hư
từ thông qua các ví dụ bằng tiếng Việt và tiếng Hán. Nhưng nhìn lại kết quả nghiên
cứu thì tác giả mới làm được công việc liệt kê và giải thích ý nghĩa của các hư từ
trên, tựa như một cuốn từ điển chứ chưa khái quát được các đặc điểm ngữ pháp của
chúng. Hơn nữa việc so sánh sự khác biệt trong hoạt động giữa hư từ gốc Hán với
hư từ Việt, sự biến đổi về chức năng ngữ pháp và xu thế phát triển của chúng là
những vấn đề còn bỏ ngỏ.
5
Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia “Khảo sát đặc điểm hư từ có nguồn
gốc tiếng Hán trong tiếng Việt hiện đại” do Đào Thanh Lan chủ trì (2007). Trong
chuyên luận 87 trang này, các tác giả đã khảo sát 13 đầu sách để lập danh sách các
hư từ gốc Hán trong tiếng Việt, bao gồm các hư từ Hán Việt: 46 phó từ, 22 liên từ, 7
giới từ và các hư từ Hán Việt Việt hóa: 5 phó từ, 8 liên từ, 3 giới từ. Chuyên luận đã
miêu tả các hư từ trên hai phương diện: ý nghĩa và kết hợp ngữ pháp [47]. Trong
công trình nghiên cứu này, có một số vấn đề chúng tôi thấy cần lưu tâm. Thứ nhất,
định từ, trợ từ không được đưa vào khảo sát và miêu tả. Thứ hai, các tác giả “tham
khảo” cách hiểu của Trần Trọng Kim về phó từ tiếng Việt, nên coi phó từ là những
từ có thể phụ nghĩa cho mệnh đề hoặc cú.
Vũ Đức Nghiệu (2006) trong bài viết “Hư từ tiếng Việt thế kỉ XV trong Quốc

âm thi tập và HĐ” [57, tr.1-16] đã lập một danh sách 135 hư từ các loại có mặt
trong tiếng Việt vào thế kỉ XV. Tác giả phân loại các hư từ này theo hai hướng.
Hướng thứ nhất, dựa vào phạm vi sử dụng, chia chúng thành 3 loại. Loại thứ
nhất là những hư từ cổ (gồm những hư từ đã mất hoặc gần như mất hẳn trong đời
sống tiếng Việt hiện đại); loại thứ hai là những hư từ vẫn đang tồn tại nhưng đã có
những biến đổi về ý nghĩa và cách dùng; loại thứ ba là những hư từ không biến đổi
từ thế kỉ XV cho đến nay.
Hướng phân loại thứ hai, dựa vào nguồn gốc. Tác giả tách riêng nhóm 38 hư
từ gốc Hán trên tổng số 135 hư từ đã khảo sát. Dựa vào Từ điển tần số (1980) tác
giả đưa ra nhận xét rằng hầu hết các hư từ gốc Hán được vay mượn từ thế kỉ XV
vẫn được sử dụng và “cung cấp thêm cho tiếng Việt một bộ phận công cụ ngữ
pháp”, “có đủ khả năng thể hiện đầy đủ được các quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ
pháp” [57, tr.12].
Trong khi nghiên cứu về hư từ gốc Hán, một số tác giả đã phác thảo được một
diện mạo chung của hư từ Hán Việt trong tiếng Việt. Danh sách hư từ Hán Việt
(Phạm Thị Hồng Trung, 2003; Đào Thanh Lan, 2007) đã khá đầy đủ. Tuy nhiên,
các tác giả có lúc đã nhầm lẫn giữa từ Hán Việt với từ Hán có cách đọc Hán Việt
nên đã xếp nhiều hư từ của tiếng Hán vào danh sách hư từ Hán Việt. Chẳng hạn,
trong danh sách 97 phó từ Hán Việt của Phạm Thị Hồng Trung có tới 29 phó từ của
6
tiếng Hán. Ngoài ra, khi xếp đặt hư từ vào các tiểu loại có chỗ chưa phù hợp với
tiêu chí phân định lí thuyết. Ví dụ: trong danh sách 47 phó từ Hán Việt của Đào
Thanh Lan, có tới 14 trợ từ.
Kể trên, các công trình đều có phạm vi rộng là nghiên cứu hư từ gốc Hán nói
chung chứ không phải nghiên cứu riêng về hư từ Hán Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu các đặc điểm ngữ pháp-ngữ nghĩa và đặc điểm sử dụng
của hư từ Hán Việt, luận án góp phần vào nghiên cứu vấn đề hư từ nói chung, hư từ
trong tiếng Việt nói riêng; góp phần nghiên cứu tiếp xúc song ngữ Hán - Việt và hiện

tượng từ mượn Hán trong tiếng Việt; nghiên cứu quá trình ảnh hưởng của ngữ pháp
tiếng Hán đối với tiếng Việt thông qua hệ thống hư từ; nghiên cứu những biến đổi và
xu hướng vận động của hư từ Hán Việt trong quá trình hoạt động trong tiếng Việt.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận án đề ra một số nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài luận án.
- Xác định khái niệm hư từ Hán Việt và xác lập một danh sách hư từ Hán Việt
- Khảo sát, nghiên cứu đặc điểm ngữ pháp - ngữ nghĩa của hư từ Hán Việt.
- Khảo sát, nghiên cứu đặc điểm sử dụng của hư từ Hán Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng và phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó, có
một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: giúp thống kê, xử lí tư liệu ngôn ngữ.
Nhờ có phương pháp này mà luận án có được các bảng danh sách hư từ Hán Việt,
bảng thống kê số lượng, tần suất hoạt động của hư từ làm cơ sở đưa ra những kết
luận về xu hướng biến đổi của hư từ Hán Việt.
- Phương pháp tính trị số và lập biểu đồ: Đối với các đơn vị hư từ cần so
sánh trong mối tương quan với nhau, phương pháp này giúp lập các hệ giá trị (tần
suất, các đặc tính ngữ pháp) tiện cho việc lập bảng và lập biểu đồ. Biểu đồ có tác
dụng hiển thị các giá trị trong quan hệ so sánh, đối chiếu một cách rõ ràng.
7
- Phương pháp phân tích và miêu tả ngữ pháp: giúp miêu tả các đặc điểm về
ngữ pháp của hư từ Hán Việt như: vị trí, vai trò cú pháp của từ, cấu trúc từ, khả
năng kết hợp, khả năng cấu tạo đoản ngữ, khả năng hình thành các kết cấu biểu thị
ý nghĩa ngữ pháp, v.v.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu ngôn ngữ, bao gồm so sánh đồng đại và so
sánh lịch đại. So sánh bản thân hư từ Hán Việt với các hư từ có chức năng tương
đương trong tiếng Việt hoặc trong tiếng Hán hiện đại. Đối chiếu để đánh giá quá trình
hoạt động của hư từ Hán Việt trong tiếng Việt qua các giai đoạn.
5. Đối tượng nghiên cứu và nguồn tư liệu

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Theo quan niệm về lí thuyết được sử dụng trong luận án, chúng tôi tiến hành
khảo sát hư từ Hán Việt trên các nhóm từ loại: phó từ, quan hệ từ, trợ từ.
Để có thể xác lập được danh sách 149 hư từ Hán Việt (xem mục 1.2.3.2.)
chúng tôi đã tiến hành theo ba cách:
- Dựa vào từ điển tiếng Việt và từ điển hư từ, từ điển từ công cụ tiếng Việt
thông qua việc kiểm tra âm Hán Việt của từ.
- Dựa vào các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước về hư từ và hư từ
gốc Hán trong tiếng Việt để rút ra các hư từ Hán Việt.
- Thông qua khảo sát trên các văn bản tiếng Việt từ thế kỷ XV trở lại đây.
5.2. Nguồn tư liệu khảo sát
Để có được cứ liệu về quá trình hoạt động của các hư từ Hán Việt trong từ
vựng tiếng Việt qua các giai đoạn lịch sử, chúng tôi dựa vào các văn bản tiếng Việt
các thời kì: cổ - trung đại, cận đại, hiện đại.
Vì lí do lịch sử, trước thế kỉ XIII, nước ta chưa có các văn bản thành văn ghi chép
lại tiếng nói dân tộc. Vì thế, trong giai đoạn I: tiếng Việt cổ - trung đại, chúng tôi dựa
vào các văn bản từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI. Cụ thể nguồn ngữ liệu như sau:
(1) Thời kì tiếng Việt cổ đại: Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, bốn
bài phú Nôm đời Trần: Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Vịnh
Hoa Yên tự phú, Giáo tử phú; Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi); Hồng Đức Quốc âm
8
thi tập (Lê Thánh Tông và Hội Tao Đàn), Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Thiền
tông khóa hư lục (Trần Thái Tông)
(2) Thời kì tiếng Việt trung đại: Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều
(Nguyễn Du), Truyền kì mạn lục giải âm, Việt sử diễn âm (thời Mạc), Những bức
thư Nôm (Nguyễn Ánh)
(3) Thời kì tiếng Việt cận - hiện đại: Thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu, Truyện
ngắn của các tác giả: Bảo Ninh, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Kim
Lân, Khái Hưng, Thạch Lam, Phạm Duy Tốn, v.v.; Tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến

tranh (Bảo Ninh), Sông xa (Nguyễn Minh Châu), Dế mèn phiêu lưu kí (Tô Hoài),
Số đỏ, Vỡ đê, Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi),
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Nửa chừng xuân (Khái Hưng), Thời xa
vắng (Lê Lựu), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), v.v.; Nghiên
cứu, phê bình: Chân dung đối thoại (Trần Đăng Khoa); Nghị luận chính trị - xã hội:
Hồ Chí Minh toàn tập (tập 1-12); Hồi kí, bút kí: Những năm tháng không thể nào
quên, Điểm hẹn lịch sử (Võ Nguyên Giáp), Hà Nội ba mươi sáu phố phường (Thạch
Lam), Thương nhớ mười hai (Vũ Bằng); Báo chí: Báo Nhân dân, báo Tuổi trẻ, báo
Dân trí; Văn bản hành chính: các văn bản của Bộ Giáo dục năm 2013.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
+ Ý nghĩa lí thuyết:
- Luận án đưa ra cái nhìn có tính toàn diện về lí thuyết hư từ tiếng Việt và trình
bày quan điểm về khái niệm hư từ và các tiểu loại hư từ và hư từ Hán Việt. Thông
qua việc nghiên cứu các đặc điểm về ngữ pháp của các tiểu loại hư từ, luận án đưa
ra quan điểm trong cách phân định phó từ và trợ từ tiếng Việt. Bằng cách khái quát
nên các quy tắc kết hợp của phó từ, luận án cho thấy phương pháp phân biệt phó từ
với trợ từ. Tiếng Việt có hàng loạt các từ nằm giữa ranh giới của hai từ loại phó từ
và trợ từ do ý nghĩa tình thái của chúng. Căn cứ vào vị trí của chúng trong câu mà ý
nghĩa từ loại của chúng mới được định hình.
- Miêu tả các đặc điểm về ngữ pháp và ngữ dụng của hư từ Hán Việt.
+ Ý nghĩa thực tiễn:
9
Từ kết quả nghiên cứu của luận án có thể ứng dụng vào việc:
- Làm cơ sở khoa học cho các công trình nghiên cứu có liên quan về ngữ pháp
và từ vựng tiếng Việt.
- Biên soạn giáo trình dạy hư từ Hán Việt cho người nước ngoài.
- Biên soạn từ điển hư từ Hán Việt.
7. Bố cục của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Luận án có bố cục 3 chương, bao gồm:
Chương 1. Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài

Chương 2. Đặc điểm ngữ pháp-ngữ nghĩa của hư từ Hán Việt
Chương 3. Đặc điểm sử dụng của hư từ Hán Việt
10
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HƯ TỪ
1.1.1. Hư từ và phân loại hư từ trong ngôn ngữ học đại cương
Vấn đề phân loại thực từ - hư từ là một vấn đề hết sức phức tạp của ngôn ngữ học,
vốn có nguồn gốc từ trong ngữ pháp các ngôn ngữ Ấn Âu. Hư từ (grammatical words/
synsemantic words/ structure-class words/ function words/ 虚虚) được đặt trong thế đối
lập với thực từ (content words/ open class words/ lexical words/ autosemantic words/
notion words/ 虚虚虚). Thực từ có giá trị biểu đạt ý nghĩa từ vựng; hư từ có giá trị thể
hiện các quan hệ ngữ pháp. Ở nhiều trường hợp, thực từ có thể dùng từ đồng nghĩa
thay thế còn hư từ thì khả năng này rất hạn chế. Bởi lẽ, số lượng hư từ không nhiều. Hư
từ chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ so với thực từ trong bất kì ngôn ngữ nào, nhưng tần suất hoạt
động của hư từ so với thực từ lại cao hơn rất nhiều.
Hư từ là một khái niệm vừa thuộc phạm trù từ vựng vừa thuộc phạm trù ngữ
pháp có tính phổ quát ở mọi ngôn ngữ trên thế giới. Đối với các ngôn ngữ biến
hình, các phạm trù ngữ pháp chủ yếu được biểu hiện thông qua hình thái của từ.
Còn đối với các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập phân tích tính như tiếng Việt,
tiếng Hán, thì gánh nặng thể hiện các quan hệ ngữ pháp đặt lên hư từ. Các quan hệ
ngữ pháp giữa từ với từ, giữa câu với câu; giữa kiến trúc sâu với kiến trúc mặt, đều
được thể hiện thông qua ý nghĩa và chức năng của hư từ. Do vậy, nghiên cứu những
đặc trưng ngữ pháp của một ngôn ngữ, thì việc nghiên cứu hư từ là rất quan trọng.
Việc phân chia từ vựng của một ngôn ngữ thành hai mảng đối lập thực từ - hư
từ không phải lúc nào cũng có thể tiến hành dễ dàng. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
trên thế giới hầu như đều thống nhất dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa để phân biệt. Tuy
nhiên, tiêu chí này khó có thể áp dụng triệt để ở bất cứ ngôn ngữ nào. Ở các ngôn
ngữ đơn lập như tiếng Việt, tiếng Hán, cùng một từ đảm nhiệm nhiều chức năng
khác nhau: khi thì là thực từ, khi lại là hư từ thì việc phân loại chỉ đơn thuần dựa
vào ý nghĩa khái quát của từ gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, từ lâu, người ta

đã đề nghị dựa vào chức vụ cú pháp của từ trong câu để xét đoán tính chất từ loại
của từ và từ đó biết được một từ là thực từ hay hư từ.
11
Một hiện tượng chung cho mọi ngôn ngữ là hư từ đều xuất phát từ thực từ “hư
hóa”. Tất cả hư từ, dù đã trải qua quá trình hư hóa hoàn toàn vẫn có thể truy nguyên
được gốc gác thực từ của nó. Theo Vương Lực, ở mỗi ngôn ngữ khác nhau, quá
trình hư hóa của thực từ cũng diễn ra khác nhau. Mỗi một hư từ cũng lại trải qua
quá trình hư hóa đa dạng, phức tạp và không giống nhau. Minh chứng là, chúng ta
đang chứng kiến một số thực từ của tiếng Việt đã và đang trong quá trình chuyển
hóa thành hư từ (xem chương 3, luận án này). Bystrov từng nhận định: “… Đa số từ
mà truyền thống xếp vào hư từ hoàn toàn không nên coi là những từ có ý nghĩa ngữ
pháp đơn thuần, nghĩa là chúng đã hoàn toàn mất ý nghĩa từ vựng…” [67, tr. 21]
1.1.2. Hư từ và phân loại hư từ trong tiếng Hán
Hư từ trong tiếng Hán có liên quan trực tiếp tới hư từ Hán Việt trong tiếng
Việt. Bởi vậy, trước khi tìm hiểu tình hình nghiên cứu hư từ tiếng Việt, chúng tôi
đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu những thành tựu nghiên cứu hư từ trong tiếng Hán.
Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu có thể giúp chúng ta nhận
xét được những nét tương đồng và dị biệt giữa tiếng Hán và tiếng Việt trong cách
phân tách thực từ - hư từ; cách phân chia tiểu loại hư từ. Đồng thời thấy được
những ảnh hưởng to lớn từ thành tựu nghiên cứu hư từ trong tiếng Hán tác động
sang tiếng Việt từ trước tới nay.
1.1.2.1. Trước “Mã thị văn thông” (1898)
Ngay từ thời Hán đã manh nha có những nghiên cứu về “trợ tự” 虚虚, “ngữ trợ”
虚虚, “trợ ngữ từ” 虚虚虚 (hư từ). Lưu Hiệp 虚虚 trong Văn tâm điêu long 虚虚虚虚 căn
cứ vào vị trí và chức năng của từ mà chia thành “từ phát đoan” (từ mở đầu) và “tống
mạt” (từ kết thúc). Thời Nam Tống, Trương Viêm 虚 虚 đã đặt ra tên gọi “thực tự”
(chữ thực) và “hư tự” (chữ hư) để phân biệt các chữ Hán về ý nghĩa.
Đời Nguyên (1271-1368), Lư Dĩ Vĩ 虚虚虚 cho ra đời cuốn Ngữ trợ 虚虚, trong
đó giải thích cách dùng của hàng loạt hư tự thông dụng trong Hán văn cổ, như:
chi 之, giả 虚, dã 虚, chư 虚, v.v. Đến đời Thanh (1636-1912) xuất hiện một trào lưu

nghiên cứu hư từ cùng với tên tuổi các tác giả nổi tiếng như: Viên Nhân Lâm 虚虚虚
với Hư tự thuyết 虚虚虚, Lưu Kì 虚虚 với Trợ tự biện lược 虚虚虚虚, Vương Dẫn Chi 虚
虚虚 với Kinh truyện thích từ 虚虚虚虚, v.v.
12
Từ đời Hán cho đến đời Thanh, hơn 2000 năm, sự phân biệt thực từ - hư từ
mới chỉ dựa trên ý nghĩa từ vựng, vì thế, không thuộc phạm trù từ loại của ngữ pháp
học mà là đối tượng nghiên cứu của tu từ học và huấn hỗ học.
1.1.2.2. Từ “Mã thị văn thông” (1898) đến những năm 1950
Công trình “Mã thị văn thông” 虚虚虚虚 (1898) của Mã Kiến Trung 虚虚虚mở ra
một giai đoạn mới trong nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán. Đây là công trình đầu tiên
vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học hiện đại vào nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán (cổ
đại và hiện đại). Trong cuốn sách, các khái niệm “thực tự” 虚虚, “hư tự” 虚虚 lần đầu
tiên đã trở thành khái niệm ngữ pháp học. Sách chia từ “hư tự” thành 4 loại: giới tự,
liên tự, trợ tự, thán tự [115].
Tiếp theo Mã thị văn thông, một trào lưu nghiên cứu về hư từ tiếng Hán đã
được dấy lên. Những tác giả có ảnh hưởng to lớn đến giới nghiên cứu phải kể đến:
Lê Cẩm Hy 虚虚虚, Vương Lực 虚虚, Lã Thúc Tương 虚虚虚, Trương Thế Lộc 虚虚虚,
Chu Đức Hy 虚虚虚.
Cuốn Tân trước quốc ngữ văn pháp 虚 虚 虚 虚 虚 虚 của Lê Cẩm Hy (1924) là
công trình nghiên cứu đầu tiên về ngữ pháp bạch thoại. Cuốn sách đã có những
đóng góp to lớn với kết quả nghiên cứu về từ loại tiếng Hán. Tác giả đã chia từ
vựng thành 5 nhóm lớn, bao gồm:
- Thực thể từ 虚虚虚, gồm: danh từ, đại từ, phụ lượng từ 虚虚虚;
- Thuật thuyết từ 虚虚虚, gồm: động từ 虚虚;
- Khu biệt từ 虚虚虚, gồm: hình dung từ 虚虚虚 và phó từ 虚虚;
- Quan hệ từ 虚虚虚, gồm: giới từ 虚虚 và liên từ 虚虚
- Tình thái từ 虚虚虚, gồm: trợ từ 虚虚 và thán từ 虚虚
Lê Cẩm Hy 虚虚虚 cho rằng, hư từ bao gồm quan hệ từ và tình thái từ, cụ thể là
các từ loại: giới từ, liên từ, trợ từ, thán từ. [99].
Lã Thúc Tương 虚虚虚 (1940) có cuốn Trung Quốc văn pháp yếu lược 虚虚虚虚虚虚

trong đó phân biệt thực nghĩa từ (thực từ) và phụ trợ từ (hư từ). Trong đó “phụ trợ từ”
bao gồm: hạn chế từ (phó từ), chỉ xưng từ (đại từ), quan hệ từ, ngữ khí từ [116].
Trong cuốn Trung Quốc hiện đại ngữ pháp 虚 虚 虚 虚 虚 虚 (1943), Vương Lực
phân loại từ theo hai nhóm lớn:
13
Thực từ
Hư từ
- từ lí giải (thực từ), bao gồm: danh từ, số từ, hình dung từ, động từ;
- từ ngữ pháp, bao gồm ba nhóm nhỏ:
+ bán thực từ: phó từ 虚虚
+ bán hư từ: đại từ 虚虚 và hệ từ 虚虚
+ hư từ: liên kết từ 虚虚虚 và ngữ khí từ 虚虚虚 [101]
1.1.2.3. Từ sau 1950 đến nay
Từ sau 1950, việc nghiên cứu ngữ pháp tiếng Hán phát triển với quy mô lớn,
cùng với đó là nhiều cuộc tranh luận gay gắt về phạm vi khái niệm hư từ. Mặc dù có
những bất đồng, nhưng những thành tựu nghiên cứu giai đoạn này đã giúp xác lập
một quan niệm mang tính giáo khoa về hư từ. Đó là quan niệm trong cuốn sách:
Tạm nghĩ Hán ngữ giáo học ngữ pháp hệ thống 虚虚虚虚虚虚虚虚虚虚 (Tạm phác thảo
hệ thống ngữ pháp tiếng Hán) [110]. Trong cuốn sách này, hư từ được chia thành 5
loại: phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ, thán từ.
Cuốn Hiện đại Hán ngữ ngữ pháp giảng thoại 虚虚虚虚虚虚虚虚 (1952-1953) đã
khai sáng trường phái cấu trúc luận ở Trung Quốc. Cuốn sách do tập thể tác giả:
Đinh Thanh Thụ 虚虚虚, Lã Thúc Tương 虚虚虚, Lí Vinh 虚虚, Tôn Đức Tuyên 虚虚虚
Quản Tiếp Sơ 虚虚虚, Phó Tinh 虚虚, Hoàng Thịnh Chương 虚虚虚, Trần Trị Văn 虚虚
虚. Các tác giả nhận thấy sự phức tạp trong việc phân chia từ theo ranh giới thực-hư.
Chính vì thế mà các tác giả thuần nhất dựa trên tính chất và cách dùng của từ để
phân chia thành 10 loại: danh từ, đại từ, số từ, lượng từ, hình dung từ, động từ, phó
từ, liên từ, ngữ trợ từ, tượng thanh từ [114].
Lã Thúc Tương 虚虚虚 và Chu Đức Hy 虚虚虚 (1951) trong cuốn Ngữ pháp tu từ
giảng thoại 虚虚虚虚虚虚 phân chia hư từ thành 5 loại: đại từ 虚虚, phó từ 虚虚, liên

tiếp từ 虚虚虚, ngữ khí từ 虚虚虚, tượng thanh từ 虚虚虚.
Ngoài ra, hai tác giả còn đặt thêm hai tên gọi từ loại: phó danh từ và phó động
từ. Hơn nữa các ông đã bổ sung tượng thanh từ vào hư từ vì cho rằng kiểu từ này
không biểu thị một sự vật, sự việc nào.
Trương Thế Lộc 虚虚 虚 (1978) trong bài “Quan vu Hán ngữ ngữ pháp thể hệ
vấn đề” 虚虚虚虚虚虚虚虚虚虚 (Về vấn đề hệ thống ngữ pháp tiếng Hán) cho rằng: hư
từ là những từ biểu thị quan hệ giữa các khái niệm và quan hệ bên trong các khái
14
niệm (cũng có nghĩa là quan hệ giữa các thành phần ngữ pháp và quan hệ bên trong
các kết cấu ngữ pháp) và biểu thị tính chất ngữ khí của toàn bộ câu. Hư từ vì thế
bao gồm: quan hệ từ và ngữ khí từ [100].
Từ thập niên 80 về sau, việc nghiên cứu hư từ tiếng Hán bước vào thời kì thịnh
đạt. Trước tiên phải kể đến hai bộ từ điển: Hiện đại Hán ngữ bát bách từ 虚虚虚虚虚
虚虚 (Tám trăm từ tiếng Hán hiện đại) của Lã Thúc Tương (1980) và Hiện đại Hán
ngữ hư từ biện thích (Giải thích hư từ tiếng Hán hiện đại) của Khoa Trung văn Đại
học Bắc Kinh 虚 虚 虚 虚 虚 (1991). Tiếp theo là công trình nghiên cứu Hiện đại Hán
ngữ hư từ tán luận (Bàn về hư từ tiếng Hán hiện đại) của nhóm tác giả Lục Kiệm
Minh 虚虚虚 và Mã Chân 虚虚. Các nghiên cứu trên đây, không chỉ dừng lại ở chỗ
giải thích ý nghĩa từ vựng của từng hư từ mà còn bắt đầu chú ý đến việc phân tích ý
nghĩa ngữ pháp của chúng; không chỉ phân tích từng hư từ mà còn nhận định tổng
quát kết cấu cú pháp của các nhóm hư từ tương đồng hay tương phản.
15
Bảng 1.1. Các quan điểm phân chia hư từ tiếng Hán
Tác giả tiêu biểu Hư từ
Nhóm từ loại
trung gian
Lê Cẩm Hy giới từ, liên từ, trợ từ, thán từ
Lã Thúc Tương,
Chu Đức Hy
đại từ, phó từ, liên tiếp từ, ngữ khí

từ, tượng thanh từ

Vương Lực liên kết từ, ngữ khí từ phó từ, đại từ, hệ từ
Các tác giả cuốn Tạm
nghĩ Hán ngữ giáo học
ngữ pháp hệ thống
phó từ, giới từ, liên từ, trợ từ, thán
từ.

Trương Thế Lộc
liên từ, giới từ, trợ từ kết cấu, trợ từ
thời thái; thán từ, trợ từ ngữ khí,
phó từ ngữ khí, phó từ phán đoán

1.1.3. Hư từ và phân loại hư từ trong tiếng Việt
Việc phân chia các nhóm thực từ, hư từ thành các tiểu loại là cần thiết. Nhưng
việc phân chia tiểu loại hư từ lại phức tạp hơn nhiều so với việc phân chia các tiểu
loại thực từ. Trong nhóm thực từ, người ta dễ dàng vạch được sự đối lập giữa các
tiểu loại cơ bản bằng ý nghĩa từ vựng: danh từ, động từ, tính từ và chỉ cần áp dụng
tiêu chuẩn chức vụ cú pháp trong trường hợp từ chuyển loại. Đối với hư từ, sự đối
lập giữa các tiểu loại chính là sự đối lập về đặc điểm ngữ pháp. Dưới đây, chúng tôi
điểm lại quan điểm phân chia tiểu loại hư từ của một số học giả tiêu biểu trong
nghiên cứu về từ loại tiếng Việt.
(1) Nguyễn Tài Cẩn (1975) dựa vào đoản ngữ để phân định từ loại, chia từ
tiếng Việt thành 3 nhóm chính: thực từ, hư từ và thán từ. Trong đó thán từ đối lập
với tất cả khối từ còn lại do “không có một mối liên quan nào đối với tổ chức của
đoản ngữ”. Hư từ là những từ loại chỉ có khả năng làm thành tố phụ đoản ngữ: phó
từ hoặc kết hợp với đoản ngữ: quan hệ từ, trợ từ. [5, tr.341]
(2) Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học xã hội đối lập đặc điểm có
“nghĩa thực” - “nghĩa hư” và “có thể dùng làm phần đề và phần thuyết trong một

nòng cốt câu” để chia từ tiếng Việt thành bốn nhóm, trong đó hư từ chỉ bao gồm hai
tiểu loại: phụ từ và kết từ. [86, tr. 68-71]
(3) Đinh Văn Đức (1986) trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại) căn cứ vào
tập hợp các tiêu chuẩn: ý nghĩa, khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp của từ, chia
16
từ tiếng Việt thành “ba tập hợp cơ bản”: thực từ, hư từ, tình thái từ. Trong đó, hư từ
bao gồm hư từ từ pháp (làm thành tố phụ trong đoản ngữ, theo cách gọi của tác giả
là từ phụ, tương đương với phó từ) và hư từ cú pháp (quan hệ từ).
(4) Nguyễn Anh Quế (1988) khẳng định rằng hư từ cũng có ý nghĩa từ vựng.
Tác giả phân tích: đối với tiếng Việt, “tuyệt đại bộ phận hư từ lại vốn bắt nguồn từ
thực từ, vì vậy nếu chỉ nói rằng hư từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân
thực thì sẽ không phản ánh được gì diện mạo chung của hư từ tiếng Việt.” “Nói
chung các hư từ đều có một nghĩa từ vựng nhất định như các thực từ.” [67, tr. 41]
Tác giả đề nghị một cách phân định hư từ gồm hai bước: “bước 1, dựa vào tổ chức
đoản ngữ và bước 2, dựa vào chức năng cú pháp.” [67, tr. 51] Những từ loại không
có khả năng làm trung tâm đoản ngữ được coi là hư từ, nhưng nếu chúng có khả
năng làm thành phần câu (chức năng cú pháp) thì lại có thể coi chúng là thực từ,
như trường hợp số từ, đại từ. Hư từ được tác giả chia thành ba nhóm:
Bảng 1.2. Quan điểm của Nguyễn Anh Quế về phân chia từ loại hư từ
Hư từ từ pháp Hư từ cú pháp
Nhóm hư từ làm thành tố
phụ trong đoản ngữ: phó
từ
Nhóm hư từ nằm trong
đoản ngữ, nhưng không
làm thành tố phụ: giới từ,
liên từ và “các hư từ đặc
biệt” (như: là, thì, kẻo
huống, phương chi, vả).
Nhóm hư từ nằm ngoài

đoản ngữ (hư từ phụ trợ):
trợ từ, phụ từ (gồm: ngữ
khí từ và cảm thán từ)
(5) Hoàng Văn Thung (1991, 1998) kết hợp cả hai hướng phân loại: dựa vào
cấu trúc đoản ngữ và dựa vào chức năng cú pháp của từ, chia từ tiếng Việt thành hai
nhóm: thực từ và hư từ. Trong đó hư từ gồm các tiểu loại: phụ từ (gồm: định từ phụ
cho danh từ và phó từ phụ cho vị từ), kết từ, tiểu từ (gồm: trợ từ và tình thái từ).
(6) Lê Biên (1999) “áp dụng một tập hợp tiêu chí về nghĩa-ngữ pháp để phân chia
từ loại tiếng Việt” [4, tr.12] cũng đã đối lập thực từ với hư từ. Với sự kế thừa sâu sắc
cách phân loại của Đinh Văn Đức, tác giả cũng chia vốn từ tiếng Việt thành ba mảng
lớn: thực từ, hư từ và tình thái từ, điểm khác biệt là tác giả xếp số từ, đại từ vào nhóm
thực từ. Theo tác giả hư từ gồm: phụ từ (phụ cho thể từ và vị từ), quan hệ từ [4, tr.169-
176].
17
(7) Nguyễn Hồng Cổn (2003) căn cứ vào chức vụ cú pháp và khả năng kết hợp
của từ đã phân chia từ tiếng Việt thành ba nhóm [14, tr.43]:
- Nhóm thứ nhất có khả năng làm trung tâm đối tố (danh từ, đại từ) hoặc trung
tâm vị tố (động từ, tính từ);
- Nhóm thứ hai làm thành tố phụ của đối tố (lượng từ, số từ, định từ, chỉ từ)
hoặc thành tố phụ của vị tố (tiền phó từ, hậu phó từ);
- Nhóm thứ ba là các từ liên kết (liên từ, giới từ) và từ tình thái (trợ từ, tiểu từ,
thán từ).
Tuy tác giả không đối lập thực từ với hư từ trong khi phân loại lớp từ, nhưng
có thể thấy, theo quan niệm của ông, hư từ chính là nhóm thứ hai và thứ ba gộp lại.
(8) Diệp Quang Ban (2004) chủ yếu kế thừa kết quả phân loại các lớp từ
truyền thống. Tuy vậy, tác giả có quan điểm xếp đại từ vào nhóm trung gian giữa
thực từ và hư từ; tách định từ thành hai nhóm: mạo từ và chỉ định từ (nằm trong đại
từ). Hư từ bao gồm: mạo từ (tương đương với định từ theo cách gọi thông thường),
phó từ, quan hệ từ, tiểu từ tình thái (gồm: ngữ thái từ và trợ từ), thán từ. [3, tr.473]
(9) Đào Thanh Lan (2007) cho rằng: “Hư từ là từ không biểu hiện ý nghĩa từ

vựng” và phân t hành hai loại: “loại chuyên biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp thường gọi
là hư từ và loại chuyên biểu hiện ý nghĩa tình thái được gọi chung là tình thái từ”.
Hư từ chia thành hai lớp:
- Phụ từ: bổ sung ý nghĩa phụ cho thực từ, gồm: định từ (phụ cho danh từ) và
phó từ (phụ cho vị từ)
- Kết từ/ quan hệ từ: vừa kết nối các thực từ vừa biển hiện quan hệ giữa các
thực từ, gồm: liên từ (biểu hiện quan hệ liên hợp) và giới từ (biểu hiện quan hệ
chính phụ) [47, tr.10]
(10) Hoàng Trọng Phiến (2008) cũng có cùng quan niệm với đa số các nhà ngữ
pháp học về hư từ: “Hư từ lấy việc biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp làm chính, không
độc lập làm thành phần câu, không làm trung tâm cụm từ, ngữ đoạn” [64, tr.5]. Tác
giả chia hư từ thành 10 tiểu loại, bao gồm: đại từ, động từ tình thái, giới từ, liên từ,
ngữ khí từ, phó từ, quán ngữ, thán từ, trợ từ, tiểu từ.
18
Để tiện đối chiếu, so sánh, bảng dưới đây tổng kết các quan điểm phân chia hư
từ tiếng Việt.
Bảng 1.3. Các quan điểm phân chia tiểu loại hư từ tiếng Việt
Tác giả Tiêu chí phân loại
Số
nhóm
Hư từ
Từ loại
trung gian
Nguyễn Tài
Cẩn
- đoản ngữ 3 phó từ, quan hệ từ, trợ từ thán từ
Ủy ban KHXH
- ý nghĩa khái quát
- chức vụ cú pháp
2

phụ từ
kết từ
đại từ
trợ từ, cảm từ
Đinh Văn Đức
- ý nghĩa khái quát
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
2
từ phụ
quan hệ từ
tình thái từ
(tiểu từ, trợ
từ, thán từ)
Nguyễn Anh
Quế
- tổ chức đoản ngữ
- chức năng cú pháp
6
phó từ, giới từ, liên từ,
trợ từ, phụ từ (ngữ khí từ, cảm
thán từ)
Hoàng Văn
Thung
- tổ chức đoản ngữ
- chức năng cú pháp
5
phụ từ (định từ, phó từ)
kết từ, tiểu từ (trợ từ, tình thái
từ)

thán từ
Lê Biên
- ý nghĩa khái quát
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
2
phụ từ
quan hệ từ
tình thái từ
(trợ từ, tiểu
từ, thán từ)
Nguyễn Hồng
Cổn
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
10
lượng từ, số từ, định từ, chỉ từ,
phó từ, liên từ, giới từ, từ tình
thái (trợ từ, tiểu từ, thán từ)
Diệp Quang
Ban
- ý nghĩa khái quát
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
6
mạo từ, phó từ, quan hệ từ, tiểu
từ tình thái (ngữ thái từ, trợ từ),
thán từ
đại từ (trong
đó có chỉ

định từ)
Đào Thanh Lan
- ý nghĩa khái quát
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
4
phụ từ (định từ, phó từ)
kết từ (liên từ, giới từ) tình thái từ
Hoàng Trọng
Phiến
- ý nghĩa khái quát
- khả năng kết hợp
- chức vụ cú pháp
10
đại từ, động từ tình thái, phó
từ, quan hệ từ, tiểu từ, trợ từ,
thán từ, tiểu từ, ngữ khí từ,
quán ngữ
1.1.4. Quan niệm về hư từ và phân loại hư từ của luận án
Nhìn vào bảng (1.3) trên đây, chúng ta thấy sự không nhất quán giữa các nhà
Việt ngữ học trong phân chia tiểu loại hư từ thể hiện ở hai điểm: (1) tiêu chí xác
định từ loại và phân chia tiểu loại và (2) việc xác định tính chất thực từ hay hư từ
của các từ loại: đại từ, số từ, tình thái từ, thán từ.
1.1.4.1. Tiêu chí xác định và phân chia tiểu loại hư từ tiếng Việt
19
a. Ba nhóm tiêu chí truyền thống
Số lượng và tên gọi của các từ loại tiếng Việt sở dĩ có khác nhau trong cách
phân chia của các tác giả là do khác nhau tiêu chí phân định từ loại khác nhau. Tựu
trung, có thể tổng kết ba nhóm tiêu chí sau:
- Dựa vào tiêu chí ý nghĩa là quan điểm của các nhà nghiên cứu theo trường

phái ngữ pháp lô-gic truyền thống như: G. Aubaret, Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng
Kim, Bùi Đức Tịnh, Nguyễn Lân, v.v. Ý nghĩa của từ bao gồm ý nghĩa từ vựng và ý
nghĩa ngữ pháp. Những từ biểu thị nghĩa từ vựng gọi là thực từ, những từ biểu thị
nghĩa ngữ pháp gọi là hư từ. Như Bùi Đức Tịnh đã nhận xét: "mỗi loại trong các từ
ngữ ấy đều có ý nghĩa riêng biệt, không thể lẫn lộn " và "muốn sắp một từ ngữ
thuộc về loại nào cần phải biết rõ ý nghĩa của nó". [76, tr. 274]
Theo đó, tiêu chí duy nhất để quyết định một từ nào đó có phải là hư từ hay
không chính là rỗng nghĩa từ vựng. Đối với những từ nhiều nghĩa, từ mờ nghĩa từ
vựng, hiện tượng từ chuyển loại thì công việc xác định này trở nên khó khăn. Quan
điểm này đến nay đã tỏ ra lạc hậu và từng bị nhiều nhà nghiên cứu phê phán. Ý
nghĩa từ vựng là tiêu chí khu biệt dễ nhận biết nhất và có thể vạch ra sự đối lập rõ
ràng giữa thực từ và hư từ. Nhưng việc đánh giá ý nghĩa của một từ chỉ căn cứ vào
bản thân từ (như tra từ điển) rất dễ mang tính chủ quan, ngộ nhận.
- Dựa vào tiêu chí ngữ pháp (chức vụ cú pháp và khả năng kết hợp). Phan
Khôi sau khi tiếp thu những thành quả của trào lưu nghiên cứu hư từ những năm
1950 ở Trung Quốc đã chủ trương dựa vào chức vụ cú pháp của từ trong câu làm
tiêu chí phân định từ loại. Ông cho rằng phải "tuỳ vào vị trí và chức vụ của từng từ
mà quy nhập nó vào loại nào" [45, tr. 188]. Như vậy, ông coi việc phân định từ loại
như việc “gán nhãn” cho các thành phần của câu nói. Trên thực tế, đó không phải
mục đích của việc xác định từ loại trong ngôn ngữ học. Hơn nữa, một chức vụ cú
pháp có thể do nhiều từ loại đảm nhiệm và ngược lại một từ loại có thể đảm nhiệm
nhiều chức vụ cú pháp khác nhau. Chẳng hạn, chủ từ có thể do đại từ hoặc danh từ
đảm nhiệm, vị từ có thể là động từ hay tính từ thậm chí danh từ. Nếu chỉ dựa vào
chức vụ cú pháp thì không thể xác định được các tiểu loại từ loại và việc xác định
này cũng không có giá trị thực tiễn nào.
20
Không cực đoan chỉ dựa vào chức vụ cú pháp của từ trong câu, Lê Văn Lý
(1968) và sau này là Lưu Vân Lăng (1970), Nguyễn Tài Cẩn (1975) bổ sung tiêu
chuẩn khả năng kết hợp của từ trong đoản ngữ để xác định tính chất từ loại. Các tác
giả Nguyễn Anh Quế (1988) và Nguyễn Hồng Cổn (2003) đã kết hợp cả hai hướng

phân loại: dựa vào cấu trúc đoản ngữ và dựa vào chức năng cú pháp của từ. Cách
làm này cũng bộc lộ nhiều mâu thuẫn và làm cho các nhà ngôn ngữ học bối rối
trong khi phân chia các tiểu loại hư từ về các nhóm. Ví dụ, đại từ cùng nhóm với
danh từ do có cùng khả năng làm chủ từ, nhưng đại từ lại khác danh từ ở chỗ rỗng
nghĩa từ vựng.
- Kết hợp tiêu chí ý nghĩa và tiêu chí ngữ pháp: Sự cực đoan trong việc lựa
chọn tiêu chí: hoặc ý nghĩa hoặc vai trò ngữ pháp của từ trong khi phân loại đều để
lại những nhóm từ trung gian, không có được sự đối lập rõ ràng về tính chất
hư/thực. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu đã kết hợp cả hai tiêu chí trên để phân định
từ loại tiếng Việt. Theo hướng này có các tác giả: Ủy ban Khoa học xã hội (1983),
Đinh Văn Đức (1986), Hoàng Văn Thung (1991, 1998), Lê Biên (1999), Diệp
Quang Ban (2004), Hoàng Trọng Phiến (2008), v.v.
b. Quan điểm của luận án về tiêu chí xác định và phân chia tiểu loại hư từ
Tiêu chí phân loại quyết định kết quả phân loại. Tuy nhiên, như đã thấy, có
một số tác giả có cùng tiêu chí phân loại mà kết quả phân loại vẫn khác nhau. Đó là
do việc vận dụng hệ tiêu chí theo trình tự chưa hợp lí hoặc quá khiên cưỡng.
Trong luận án này, chúng tôi áp dụng một hệ tiêu chí được đa số các nhà
nghiên cứu chấp nhận, bao gồm: (1) ý nghĩa khái quát, (2) tổ chức đoản ngữ (vai trò
của từ trong đoản ngữ), (3) chức vụ cú pháp (vai trò của từ trong câu).
Căn cứ vào tiêu chí có ý nghĩa khái quát để vạch được sự đối lập giữa thực từ
với hư từ. Rỗng nghĩa từ vựng là đặc điểm tiên quyết xếp một từ vào hư từ. Hệ quả
của việc “không có nghĩa từ vựng” chính là việc “có nghĩa ngữ pháp”. Đó là hai đặc
trưng quan hệ mật thiết và biện chứng với nhau trong khái niệm hư từ.
Tiếp đến là sử dụng các tiêu chí ngữ pháp nhằm chia nhỏ hư từ ra các tiểu loại.
Căn cứ vào tổ chức đoản ngữ để có thể vạch ra sự đối lập giữa khả năng làm trung
tâm đoản ngữ (thực từ) và khả năng làm thành phần phụ đoản ngữ: phó từ. Căn cứ
21

×