Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận học phần kinh tế vĩ mô ngân hàng trung ương (khái niệm, chức năng, công cụ) đối với sự phát triển của nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1022.62 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KHOA KINH TẾ

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN

KINH TẾ VĨ MƠ
Nhóm sinh viên thực hiện:
1. 63132785 - Phan Đình Bách Tùng (NT)
2. 63131649 - Nguyễn Hồng Ánh Tuyết (NP)
3. 63131802 - Trần Vũ Hòa An
4. 63130225 - Hồ Minh Doanh
5. 63132020 - Nguyễn Thị Ánh Hằng
6. 63130654 - Nguyễn Nhật Linh
7. 63134504 - Bùi Tấn Lộc
8. 63132919 - Huỳnh Minh Thiện

Khánh Hòa: 14.11.2022


MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM
1. 63132785 - Phan Đình Bách Tùng (NT)
2. 63131649 - Nguyễn Hồng Ánh Tuyết (NP)
3. 63131802 - Trần Vũ Hòa An
4. 63130225 - Hồ Minh Doanh
5. 63132020 - Nguyễn Thị Ánh Hằng
6. 63130654 - Nguyễn Nhật Linh
7. 63134504 - Bùi Tấn Lộc
8. 63132919 - Huỳnh Minh Thiện
NỘI DUNG THẢO LUẬN


IV. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
1. Ngân hàng trung ương (khái niệm, chức năng, công cụ) đối với sự phát triển của nền kinh
tế.
2. Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế.
3. Phân tích tác động của chính sách mà chính phủ Việt Nam đã làm để tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế (trong trường hợp suy thối).
4. Phân tích tác động của chính sách mà chính phủ Việt Nam đã làm để tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế (trong trường hợp lạm phát).


Nhận xét:
- Chưa canh chỉnh đều, sử dụng quá nhiều size chữ
- Khơng thực hiện việc trích dẫn
- Nội dung trình bày nghèo nàn, ít dựa vào các Giáo trình
- Bài Word trình bày chưa tốt, cịn copy paste, thiếu các hình vẽ minh họa
- Bài Ppt trình bày quá nhiều chữ, thiếu các hình vẽ
Điểm: 7,0

IV. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
1. Ngân hàng trung ương (khái niệm, chức năng, công cụ) đối với sự phát triển của nền kinh
tế.
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG


Khái niệm:
Ngân hàng Trung ương (Central Bank) là một cơ quan trực thuộc Nhà nước. Bên cạnh tên
gọi Ngân hàng Trung ương cịn có thể được gọi là Ngân hàng dự trữ hoặc Cơ quan hữu
trách về tiền tệ. Đây là một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý về hệ thống tiền tệ trong quốc
gia hoặc vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành các chính sách tiền tệ. Nói cách khác,
ngân hàng Trung ương là “ngân hàng của các ngân hàng”. Là ngân hàng độc quyền phát

hành tiền, là cơ quan quản lý của quốc gia về tiền tệ, hoạt động ngân hàng.



Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng Trung ương đầu tiên trên thế giới là Riksbank của Thụy Điển. Năm khởi nguồn
của Ngân Hàng trung ương (NHTW) đầu tiên là Sveriges Riksbank, ngân hàng được thành
lập năm 1668 khi nó thay thế một ngân hàng tư nhân lớn nhất ở Thụy Điển. Ngân hàng tư
nhân đó đã mất khả năng thanh tốn sau một cuộc khủng hoảng tài chính. Cùng với việc là
Ngân hàng Trung ương lâu đời nhất, Riksbank cũng được coi là một trong những ngân
hàng sáng tạo nhất và đóng vai trị như một cơng cụ quản lý tài chính của Chính Phủ Thụy
Điển nhưng Riksbank chỉ thực sự trở thành NHTW vào năm 1897 khi ngân hàng này có


thẩm quyền pháp lý độc lập để phát hành tiền giấy cho cả nước.



Qua đó, ta thấy, Ngân hàng Trung ương có nguồn gốc từ các ngân hàng phát hành.
Giai đoạn đầu tiên được tính đến thế kỷ 17, trong giai đoạn này hoạt động kinh doanh ngân
hàng khơng cịn thực hiện bởi các cá nhân đơn lẻ thay vào đó là việc hình thành các tổ
chức kinh doanh tiền tệ (ngân hàng). Các ngân hàng đều được nhận tiền gửi, cho vay và
phát hành tiền. Điều này tác động xấu đến nền kinh tế và có nguy cơ sụp đổ hệ thống tài
chính.
Bước sang thế kỷ 18 đầu thế kỷ 20, hoạt động lưu thơng hàng hóa được mở rộng và
phát triển cả về quy mô lẫn phạm vi. Mỗi Ngân hàng phát hành một loại tiền giấy
của riêng mình, điều này đã cản trở cho việc lưu thơng tiền tệ lúc bấy giờ. Như một
lẽ tự nhiên, nhu cầu cần có một loại tiền thống nhất của cơng chúng bắt đầu xuất
hiện. Từ đây, bắt đầu có sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các ngân
hàng. Các nước đều chỉ cho phép các ngân hàng hội đủ điều kiện do nhà nước quy

định mới được phát hành tiền. Lúc này hệ thống ngân hàng được chia làm hai nhóm:
o Nhóm thứ nhất gồm các ngân hàng được phép phát hành tiền, gọi là Ngân
hàng phát hành.
o Nhóm thứ hai gồm các ngân hàng khơng được phép phát hành tiền, gọi là
Ngân hàng Trung gian.
 Cho đến đầu thế kỷ 20, các ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Từ sau
Chiến tranh thế giới thứ hai, do ảnh hưởng của những bài học kinh nghiệm từ cuộc
Đại suy thoái năm 1929-1933 cũng như sự phát triển của các học thuyết kinh tế của
Keynes (vào cuối những năm 1930) và Milton Friedman (năm 1960) về sự cần thiết
của vai trị quản lý vĩ mơ của nhà nước đối với nền kinh tế và ảnh hưởng của khối
lượng tiền cung ứng đối với các biến số kinh tế vĩ mô, các nước đã nhận thức được
tầm quan trọng phải thành lập một Ngân hàng Trung ương đóng vai trị quản lý lưu
thơng tiền tệ, tín dụng và hoạt động của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia.
Mục đích, vai trị của Ngân hàng trung ương:




Mục đích chính của ngân hàng Trung ương chính là ổn định giá trị tiền tệ và cung tiến,
kiểm soát được lãi suất và hỗ trợ ngân hàng thương mại khác đang trên đà đổ vỡ. Và hầu
hết với những ngân hàng trực thuộc trung ương quản lý thì mức độ độc lập sẽ nhất định đối
với Chính phủ.


Song song đó ngân hàng nhà nước sẽ hồn tồn kiểm sốt việc sản xuất và lưu thơng cung
tiền trên thị trường ổn định các ngân hàng thương mại để ổn định kinh tế tiền tệ quốc gia.
Ngân hàng Trung ương cũng có thể được giao nhiệm vụ khác tùy thuộc vào mơi trường tài
chính và cơ cấu của đất nước.





Có một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương:
 Ngân hàng trung ương không giao dịch trực tiếp với doanh nghiệp hay cá nhân mà chỉ
giao dịch với Chính Phủ và các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác.
 Ngân hàng trung ương khơng kinh doanh tiền tệ, tín dụng vì lợi nhuận mà vì lợi ích
chung của nền kinh tế. Đơi khi ngân hàng trung ương cũng cho Chính phủ vay tiền
bằng cách mua trái phiếu chính phủ khi chính phủ cần huy động vốn để tăng chi tiêu
hoặc đầu tư cơng góp phần tăng trưởng GDP. Ở một số quốc gia, các ngân hàng trung
ương cũng được pháp luật yêu cầu phải hành động để hỗ trợ thị trường việc làm.
 Ngân hàng trung ương cũng là nơi kiểm soát, quản lý lượng dự trữ ngoại hối và vàng
của một quốc gia. Ngân hàng trung ương chỉ có thể phát hành động nội tệ của quốc gia
mà nó trực thuộc mà khơng có khả năng in tiền ngoại tệ. Vì vậy việc quản lý lượng
ngoại hối trong một quốc gia là một thử thách khó khăn đối với ngân hàng trung ương,
nhằm đề phòng rủi ro vỡ nợ ngoại tệ.
Hình thức sở hữu của Ngân hàng Trung ương
Các Ngân hàng Trung ương được thành lập hoặc bằng cách quốc hữu hố các ngân hàng
phát hành hiện có hoặc thành lập mới thuộc quyền sở hữu nhà nước.
Các nước tư bản phát triển có hệ thống ngân hàng phát triển lâu đời như Pháp, Anh... thì
thành lập Ngân hàng Trung ương bằng cách quốc hữu hóa ngân hàng phát hành thông qua
mua lại cổ phần của các ngân hàng này rồi bổ nhiệm người điều hành. Một số nước tư bản
khác thì Nhà nước chỉ nắm cổ phần khống chế hoặc vẫn để thuộc sở hữu tư nhân nhưng
Nhà nước bổ nhiệm người điều hành.



Ví dụ:
Ngân hàng trung ương ở Nhật Bản (tên chính thức là Ngân hàng Nhật Bản) có 55% cổ
phần thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, 45% còn lại thuộc sở hữu tư nhân nhưng bộ máy
quản lý ngân hàng là Hội đồng chính sách có 7 thành viên lại do Chính phủ bổ

nhiệm.
Ở Mỹ, Ngân hàng trung ương được gọi là Hệ thống dự trữ liên bang (Fed), là ngân hàng cổ
phần tư nhân nhưng cơ quan lãnh đạo cao nhất của Ngân hàng này là Hội đồng Thống
đốc có 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Thượng nghị viện bổ nhiệm. Còn lại hầu hết
các nước khác thì thành lập Ngân hàng Trung ương mới thuộc sở hữu nhà nước.
Ở Việt Nam, Ngân hàng Trung ương được thành lập thuộc sở hữu của nhà nước, gọi
là Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG


Chức năng phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ:
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương.


Thực hiện chức năng này có ảnh hưởng đến tình hình lưu thơng tiền tệ của quốc gia, do đó
có thể ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội.
Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền mặt (gồm tiền giấy và tiền kim
loại). Thông qua chức năng này, ngân hàng trung ương có thể tác động và ảnh hưởng đến
tình hình tiền tệ quốc gia, từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế.
Việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào Ngân hàng Trung ương theo chế độ nhà
nước nắm độc quyền phát hành tiền. Trong luật ngân hàng nhà nước có ghi rõ: “ngân hàng
nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bao gồm tiền giấy và tiền kim loại”.
Ngoài việc phát hành tiền để đảm bảo cho sự vận động của hàng hố thì ngân hàng Trung
ương cịn có thể phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia bình ổn thị trường hối
đối,.... Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn đến lưu thơng tiền tệ của đất nước,
nên địi hỏi cơng việc phát hành phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Đồng thời việc
phát hành tiền phải đi đôi với việc điều tiết lưu thông tiền tệ, nhằm đảm bảo cung ứng một
khối lượng tiền phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế (khối lượng tiền vừa đảm bảo cung

ứng đủ phương tiện lưu thông vừa không gây ra lạm phát).


Ngân hàng trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua bốn kênh:
+Kênh tín dụng đối với Chính phủ
Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với Chính phủ hay cịn gọi là kênh ngân sách nhà
nước. Thông thường, ngân sách nhà nước rơi vào trạng thái sau: ngân sách nhà nước cân
bằng, ngân sách nhà (thặng dư), ngân sách nhà nước bội chi (thâm hụt).
Phát hành tiền qua kênh tín dụng đối với Chính phủ khơng chỉ đáp ứng trong trường hợp để
xử lý bội chi trong ngân sách nhà nước mà còn cung ứng vốn trong ngân sách nhà nước
theo từng đợt phát hành trái phiếu Chính phủ.
+Kênh tín dụng đối với hệ thống ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung ương có thể cho vay đối với các ngân hàng trung gian với tư cách là ngân
hàng của các ngân hàng hoặc với tư cách là ngân hàng điều tiết.
Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới các hình thức: Cho
vay tái cấp vốn và cho vay thanh toán.
+Kênh thị trường mở
Ngân hàng trung ương tổ chức và thực hiện mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá với các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trên thị trường mở.
+Kênh thị trường ngoại hối:
Ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phải can
thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết và khơng vì mục đích lợi nhuận.


Khi cung cầu ngoại hối mất cân đối thì ngân hàng trung ương can thiệp với tư cách là
người mua, người bán trên thị trường.


Ngân hàng trung ương là ngân hàng của ngân hàng
Ngân hàng trung ương được gọi là ngân hàng của các ngân hàng bởi ngân hàng trung

ương không trực tiếp tham gia vào việc kinh doanh tiền tệ và tín dụng cá nhân mà chỉ thực
hiện các nhiệm vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian.
Chức năng này được thể hiện ở chỗ đối tượng giao dịch chủ yếu của Ngân hàng Trung
ương là các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế. Cụ thể:
mở tài khoản, nhận tiền gửi và quản lý các khoản tiền gửi của các ngân hàng trung gian.
Ngân hàng Trung ương nhận tiền gửi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng: các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ khơng sử dụng
hết nguồn vốn của mình để cho vay mà sẽ giữ lại một khoản nhất định để đảm bảo khả
năng thanh toán. Khoản tiền này được gửi cho Ngân hàng Trung ương bảo quản.
Trung gian thanh toán giữa các ngân hàng trung gian: Với việc nhận tiền gửi và cấp tín
dụng cho các ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã trở thành trung tâm tín
dụng của cả nền kinh tế, trung tâm thanh toán giữa các ngân hàng thương mại. Với tư cách
đó, Ngân hàng Trung ương đứng ra tổ chức thanh toán bù trừ hay thanh toán từng lần giữa
các ngân hàng thương mại. Nhờ hoạt động thanh tốn này của Ngân hàng Trung ương mà
q trình chu chuyển thanh toán của nền kinh tế mới phát triển thuận lợi.
Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian: Ngân hàng Trung ương cấp tín dụng cho các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Hoạt động này của Ngân hàng Trung ương
nhằm đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế có đủ phương tiện thanh tốn trên cơ sở thực hiện
các chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là người
chủ nợ và là người cho vay cuối cùng, do đó nghiệp vụ cấp tín dụng của Ngân hàng Trung
ương cho các ngân hàng thương mại có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động tín dụng của
cả nền kinh tế.



Cơ quan xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia
Ngân hàng Trung ương với chức năng phát hành tiền và khả năng tác động mạnh tới hoạt
động của hệ thống ngân hàng được xem là có khả năng lớn trong việc kiểm sốt và điều tiết
khối lượng tiền cung ứng vào lưu thông nên đã được giao trọng trách xây dựng và thực thi
chính sách tiền tệ của quốc gia. Có thể nói, chính sách tiền tệ là trọng tâm hoạt động của

một Ngân hàng Trung ương. Điều này có nghĩa là mọi hoạt động của Ngân hàng Trung
ương (kể cả phát hành tiền) đều nhằm thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ và bị
chi phối bởi các mục tiêu đó.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mơ trong đó Ngân hàng Trung ương sử dụng các
cơng cụ của mình để điều tiết và kiểm sốt khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo
sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo cơng ăn việc
làm.
Chính sách tiền tệ có thể được hoạch định theo một trong hai hướng sau:






Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng để khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Mục đích của chính sách lúc này là
chống suy thối kinh tế và thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm lượng tiền cung ứng để hạn chế đầu tư, kìm
hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Mục đích của chính sách lúc này là chống
lạm phát.

Ngân hàng trung ương thực hiện quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm
đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động của hệ thống ngân hàng và thực hiện quản lý vĩ
mô đối với nền kinh tế trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nhằm các mục tiêu ổn định tiền tệ,
tăng trưởng kinh tế và hạn chế thất nghiệp.


Ngân hàng của Chính Phủ
Độc quyền kiểm sốt lãi suất: Hiện tại Ngân hàng Trung ương đều độc quyền tự do thiết
lập và điều chỉnh lãi suất ( nhiệm vụ quan trọng xác định chi phí vay và cho vay tiền chẳng

hạn ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng tiền tệ giảm lãi suất để thúc đẩy nền kinh tế hoặc sẽ
thắt chặt tiền tệ tăng lãi suất và kìm hãm lạm phát ). Ngân hàng trung ương cịn sử dụng
cơng cụ lãi suất để định hướng tín dụng cho hệ thống ngân hàng ( Khi chính phủ thấy cần
khuyến khích phát triển một khu vực kinh tế chậm tăng trưởng. Ví dụ như: Nơng nghiệp,
một ngành kinh tế chiến lược hay một ngành cơng nghiệp quan trọng ví dụ như năng lượng
ngân hàng trung ương có thể áp dụng một mức lãi suất tái chiết khấu ưu đãi thấp cho các
ngân hàng thương mại từ những khoản tín dụng mà họ đã cấp phát cho những khu vực kinh
tế hay ngành kinh tế được khuyến khích). Ngược lại ngân hàng trung ương có thể áp dụng
một mức lãi suất tái chiết khấu rất cao gọi là lãi suất địa ngục cho các khoản tín dụng ngân
hàng vào những ngành kinh tế khơng khuyến khích ví dụ như cho vay đầu tư chứng khốn
hay bất động sản. Vì thế các ngân hàng thương mại đều biết rằng việc họ đi vay ngân hàng
trung ương là một ân huệ không phải là quyền lợi bắt buộc trong đó ngân hàng trung ương
có thể từ chối cho vay một ngân hàng thương mại mà không cần đưa lý do.
Tại Việt Nam, ngân hàng trung ương chính là ngân hàng đặt dưới sự bảo trợ của Chính
phủ, là ngân hàng của Chính Phủ ngân hàng trung ương có vị trí độc quyền trong việc phát
hành tiền giấy. Các ngân hàng trung ương đều biết rằng mất kiểm soát trong việc in tiền
đồng nghĩa mất kiểm sốt tình trạng lạm phát là một định chế về tài chính cơng cộng, với
chức năng ngân hàng của Chính phủ thì ngân hàng trung ương thực hiện nghĩa vụ của mình
là cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, đại diện tài chính, tư vấn và đại lý tài
chính và tư vấn các chính sách cho chính phủ cụ thể như sau:







Thứ nhất, làm nhiệm vụ thủ quỹ cho kho bạc nhà nước bằng việc thực hiện công tác
quản lý tài khoản và các cơng cụ tài chính khác như trái phiếu, tín phiếu... của kho
bạc nhà nước.

Thứ hai, thực hiện việc quản lý dự trữ quốc gia với các loại tài sản chiến lược như
vàng, ngoại tệ chứng từ có giá của nước ngồi và phải đảm bảo việc quản lý dự trữ
khơng bị xuống dưới mức tối thiểu theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, thực hiện việc cấp tín dụng cho Chính phủ.
Thứ tư, ngân hàng trung ương chính là đại lý, là người đại diện và là người tư vấn
về tài chính tiền tệ cho Chính phủ nhà nước của một quốc gia.


CÁC CƠNG CỤ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG NHẰM KIỂM SỐT CUNG TIỀN:


Nghiệp vụ thị trường mở: (Mua hoặc bán trái phiếu Chính phủ)
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations-OMO): Là hoạt động mua hoặc bán
trái phiếu chính phủ của NHTW trên thị trường mở.
Như đã học ở chương trước, chính phủ có thể vay tiền từ cơng chúng thơng qua việc phát
hành trái phiếu Chính phủ. Người dân, doanh nghiệp và ngân hàng thương mại sẽ là các
đối tượng nắm giữ trái phiếu.
Ngân hàng trung ương có thể sử dụng trái phiếu như một công cụ để điều tiết cung tiền
thông qua việc mua và bán trái phiếu.



NHTW mua trái phiếu→NHTM bơm tiền ra→ MB tăng→MS tăng
NHTW bán trái phiếu→NHTM hút tiền mặt→MB giảm→MS giảm

Ưu điểm: NHTW chủ động, không gây xáo trộn hoạt động NHTM, tác dụng mạnh nhất và
hiệu quả nhất.
Nhược điểm: Không phát huy tác động nền kinh tế thị trường.



Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc(rrr):
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Reserve Requirements ratio-rrr): Là tỷ lệ dự trữ tối thiểu do NHTW
quy định cho hệ thống NHTM


rrr giảm→rr giảm→m tăng→MS tăng và ngược lại.
M

Ưu điểm: Mang tính pháp lý nên có hiệu lực cao.
Nhược điểm: Gây xáo trộn hoạt động của NHTM, có độ trễ lớn.



Thay đổi lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu (Discount rate): Là lãi suất mà NHTW để bổ sung dự trữ, đáp ứng nhu
cầu rút tiền của khách hàng. Ngược lại NHTW cũng sử dụng lãi suất chiết khấu như một
công cụ để quản lý cung tiền.



NHTW giảm lãi suất chiết khấu→m tăng và MB tăng→MS tăng .
NHTW tăng lãi suất chiết khấu→m giảm và MB tăng→MS giảm.
M

M

Như vậy: Ngân hàng trung ương có thể tác động đến cung tiền thông qua 3 công cụ chủ
yếu là nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Trong 3 công
cụ này, nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng rộng rãi nhất. Ở các nước phát triển, hoạt



động thị trường mở diễn ra thường xuyên. Đó là cơng cụ có tác động nhanh và hiệu quả
nhất.
Tuy nhiên, cần lưu ý, ngân hàng trung ương khơng kiểm sốt được lượng tiền cung ứng
một cách hồn hảo, bởi vì ngân hàng trung ương không thể chi phối trực tiếp mọi nhân tố
của số nhân tiền.
Thứ nhất, ngân hàng trung ương khơng kiểm sốt được số lượng tiền mà các hộ gia đình
nắm giữ dưới dạng tiền gửi tại các ngân hàng. Khi các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ ít
tiền mặt hơn và gửi tiền vào các ngân hàng nhiều hơn, thì các ngân hàng sẽ cho vay được
nhiều hơn và do đó càng tạo thêm được nhiều tiền hơn và ngược lại.
Thứ hai, trong việc kiểm soát cung tiền ngân hàng trung ương cũng không thể kiểm soát
được lượng tiền mà các ngân hàng thương mại cho vay. Khi tiền được gửi vào một ngân
hàng, thì cung tiền chỉ tăng thêm một khi ngân hàng này cho vay một phần số tiền đó. Bởi
vì các ngân hàng có thể quyết định nắm giữ những khoản dự trữ dôi ra, nên ngân hàng
trung ương không thể nắm chắc được sẽ có bao nhiêu tiền mà hệ thống ngân hàng này tạo
ra.
Nguồn tham khảo
Ngân hàng trung ương là gì?
Ưu tiên giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng,
bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế
/>Phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa đã linh hoạt
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
2. Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế.
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


Khái niệm:
Xét theo phương diện pháp lý, ngân hàng thương mại (Commercial Bank) là loại hình ngân
hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo
quy định nhằm mục tiêu lợi nhuận ( Theo khoản 3 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2010).

Theo phương diện kinh tế vĩ mô, ngân hàng thương mại (Commercial Bank) là ngân hàng
kinh doanh tiền tệ vì mục đích lợi nhuận. Ngân hàng thương mại hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng để cấp tín dụng và thực hiện nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán. Với tư cách là tổ chức kinh doanh, hoạt động của
ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở chế độ hạch toán kinh tế, nhằm mục tiêu lợi nhuận.


Nói cách khác, ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp và là một đơn vị kinh
tế, có cơ cấu tổ chức bộ máy như một doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại bình đẳng
trong quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp khác.
Về hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại được tổ chức dưới
02 hình thức (theo khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Luật Các tổ chức tín dụng 2010) bao gồm:



Ngân hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức cơng ty
cổ phần.
Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.

PHÂN TÍCH VAI TRỊ
Ngân hàng thương mại có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Là
một trong những nhân tố có sự ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam.



Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại:
1. Tạo ra một tài sản đặt biệt mà mọi người có thể sử dụng như một phương tiện trao đổi.
2. Cung cấp các dịch vụ thanh toán và có vai trị quan trọng trong việc quyết định mức
cung tiền của nền kinh tế.

3. Dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng 1
cách có hiệu quả.
4. Cụ thể hơn thì ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế. Các hoạt động thanh tốn quốc tế, bn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng
với các ngân hàng của ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp
phần thúc đẩy hoạt động thanh tốn xuất nhập khẩu và thơng qua đó Ngân hàng thương
mại đã thực hiện vai trị điều tiết trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính
quốc tế
5. Hệ thống ngân hàng thương mại đóng vai trị huyết mạch tích cực, kịp thời, hiệu quả
của nền kinh tế; là kênh dẫn vốn chủ yếu phục vụ sản xuất kinh doanh, góp phần thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, nâng cao đời sống nhân dân.
6. Vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô; vừa cung cấp vốn tín dụng hỗ trợ nền
kinh tế; ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. So với các nước, tỷ giá và lãi suất của Việt
Nam có biến động ít, cịn lạm phát trong mức Quốc hội cho phép.
7. Góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất
nhập khẩu. Dịch vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp
phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh;
8. Hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện
thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thơng qua nguồn vốn tín dụng cho các chương
trình và dự án phát triển sản xuất kinh doanh, hàng năm hệ thống ngân hàng đã góp
phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, nhất là tại các vùng nông thôn.
9. Bảo đảm đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung cho sản xuất kinh
doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.


Nguồn tham khảo:
GIÁO TRÌNH NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC VĨ MƠ - PGS.TS. Nguyễn Văn Cơng Ngân
hàng thương mại là gì? Quy định về hoạt động của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là gì ? Quy định về ngân hàng thương mại

Chức năng của ngân hàng thương mại đối với kinh tế là gì?
Tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế
Vai trò của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam
Thủ tướng yêu cầu các ngân hàng thương mại tuân thủ pháp luật và tăng cường năng lực
quản trị
Hệ thống ngân hàng đóng vai trị huyết mạch của nền kinh tế
Ngân hàng thương mại và vai trị của nó trong nền kinh tế thị trường - Phạm Thị Thúy

3. Phân tích tác động của chính sách mà chính phủ Việt Nam đã làm để tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế - (trong trường hợp suy thối).
PHÂN TÍCH


Chính sách mà chính phủ Việt Nam đã làm để tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
là: Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính bởi chính phủ Việt Nam.
Chính sách kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu cơng, từ đó làm gia tăng tổng cầu, kích
thích tăng trưởng kinh tế; thường được dùng khi nền kinh tế lâm vào trì trệ hay suy thối
do tác động của các “cú sốc” về kinh tế - xã hội (khủng hoảng tài chính, khủng hoảng tiền
tệ, thiên tai, dịch bệnh…).
Trong lịch sử, các nước đã phải sử dụng nhiều biện pháp kích thích kinh tế khi thế giới nói
chung và các nước nói riêng đối diện với các cuộc khủng hoảng như: : khủng hoảng tín
dụng năm 1972, khủng hoảng do “cú sốc” giá dầu năm 1973, khủng hoảng tài chính châu
Á năm 1997, khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007, khủng hoảng nợ công châu Âu năm
2010 và khủng hoảng do đại dịch Covid-19 gây ra. Nhìn chung, các “cú sốc” đối với các
nước có xu hướng ngày càng tăng với mức độ nghiêm trọng và gây nên nhiều hậu quả nặng
nề cho kinh tế các nước.
Đối với các nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, tác động của những biến động kinh tế
- tài chính thế giới là tất yếu về nhiều mặt, nhất là về kinh tế vĩ mơ, tài chính - ngân sách,
đầu tư, sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, xuất khẩu - nhập khẩu, địi
hỏi phải có giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả. Do đó, việc nghiên cứu “Chính sách kích

cầu và hỗ trợ tài chính: Quan điểm, phương pháp các nước và Việt Nam” là cần thiết, có ý
nghĩa thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.


Trong đó đã làm rõ khái niệm, vai trị, phương pháp thực hiện, các kênh tác động của chính
sách kích cầu và hỗ trợ tài chính Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn sử dụng cơng
cụ chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở một số nước
và Việt Nam, đã rút ra một số bài học và hàm ý chính sách gồm:
1. Ngay khi nhận thấy dấu hiệu suy thối, khủng hoảng, Chính phủ cần nhanh chóng
can thiệp, đưa ra chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính nhằm tác động vào nền kinh
tế. Chính phủ cần thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản
xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có
thể làm cho nền kinh tế trở nên “nóng” và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực
hiện chậm thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm;
2. Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính cần đủ liều lượng để hỗ trợ nền kinh tế vượt
qua giai đoạn khủng hoảng. Nếu gói kích cầu q nhỏ thì khơng đủ lực hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế, gây lãng phí gói kích cầu. Ngược lại gói kích cầu lớn q sẽ tạo ra
tác động kéo dài đối với nền kinh tế, làm cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong
trạng thái tiếp tục được kích thích, sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, gia tăng lạm
phát.
3. Chỉ nên thực hiện chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong ngắn hạn: nguồn lực
của bất kỳ Nhà nước nào cũng có giới hạn, nếu liên tục sử dụng chính sách kích cầu
và hỗ trợ tài chính trong dài hạn sẽ gây ra những hệ lụy đối với ngân sách nhà nước,
dẫn đến bội chi ngân sách lớn, kéo theo suy giảm tiết kiệm và đầu tư trong dài hạn,
giảm động lực tăng trưởng và có thể dẫn đến khủng hoảng nợ cơng. Mặt khác, sử
dụng chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính trong dài hạn sẽ làm tăng lạm phát, do
các vòng quay của tiền tệ, làm giảm hiệu quả của chính sách. Khi nền kinh tế được
cải thiện thì cần chấm dứt việc sử dụng chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính.
4. Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính phải đúng đối tượng, có điều kiện rõ ràng và
khả thi: chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính phải hướng đến nhóm đối tượng thực

sự cần và có khả năng sử dụng ngay số tiền được kích cầu, tạo ra hiệu ứng kích
thích tiêu dùng và đầu tư cao nhất. Đối với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam,
các giải pháp kích cầu cần tập trung vào những ngành có hệ số lan tỏa lớn nhưng tỷ
trọng nhập khẩu thấp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, cần tăng cường
và ưu tiên kích cầu cho nông nghiệp và kinh tế - xã hội, nông thơn. Các cơng trình
cần ưu tiên là xây dựng nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn như đường giao thơng,
điện, các cơng trình thủy lợi lớn, hệ thống kênh mương, cơng trình chống úng, ngập,
hệ thống đê sơng, đê biển, hỗ trợ ngư dân mua sắm tàu thuyền đánh bắt thủy sản xa
bờ, nuôi trồng thủy sản xuất khẩu, hỗ trợ nâng cấp các trạm, trại thực nghiệm, trợ
cấp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, nhập khẩu phân bón vật tư nơng nghiệp,
thức ăn cho chăn ni để tăng nhanh chất lượng và giảm giá thành nông sản hàng
hóa nói chung, nơng sản xuất khẩu nói riêng.
5. Cơng tác tổ chức thực hiện là một yếu tố quan trọng đảm bảo hiệu quả chính sách
kích cầu và hỗ trợ tài chính: Cơng tác tổ chức thực hiện khơng chỉ đảm bảo đưa
chính sách đến đúng đối tượng, kịp thời mà cịn thơng qua đó đánh giá được tác
động của chính sách để có sự điều chỉnh kịp thời, hiệu quả. Trong quá trình triển
khai tổ chức thực hiện, cần tăng cường sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương,
các địa phương trong chỉ đạo, triển khai các biện pháp kích cầu của Chính phủ cho
sản xuất, dịch vụ. Đồng thời, cần thực hiện cơ chế giám sát độc lập, khách quan để
đảm bảo chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính đúng đối tượng, hiệu quả.




Ví dụ:
Một là : mở cửa nền kinh tế gắn với đầu tư nâng cao năng lực y tế, phòng, chống dịch
bệnh.
Hai là : bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm.
Ba là : hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Bốn là : đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.

Năm là : cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Đồng thời, Nghị quyết số 11/NQ-CP cũng quy định rõ về nguồn lực thực hiện Chương
trình, cũng như giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, cơ quan Trung ương, địa phương theo
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền.



Nguồn tham khảo:
Suy thoái kinh tế là gì? Biểu hiện, hậu quả của suy thối kinh tế
Suy thoái kinh tế – Wikipedia tiếng Việt
Suy thoái kinh tế là gì? Ngun nhân và hậu quả của suy thối kinh tế - Finhay
Chính sách kích cầu và hỗ trợ tài chính: Quan điểm, phương pháp ở các nước và Việt
Nam 01/04/2022 17:52:00
Ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế
Việt Nam

4.Phân tích tác động của chính sách mà chính phủ Việt Nam đã làm để tác động đến tổng
cầu của nền kinh tế (trong trường hợp lạm phát).
PHÂN TÍCH


Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong
thời gian qua:
Mặc dù bối cảnh kinh tế quốc tế không mấy sáng sủa, nhưng trong năm 2010, Việt Nam
vẫn đạt được mục tiêu tăng trưởng (6,78%) và là một trong số quốc gia có tốc độ tăng
trưởng tốt nhất trong khu vực. Hệ thống ngân hàng - tài chính giữ được ổn định, các cơng
cụ điều hành mang tính hành chính trong giai đoạn chống suy giảm kinh tế dần dần được
dỡ bỏ, các công cụ thị trường đang dần tái sử dụng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hồi
phục và phát triển sau tác động của khủng hoảng kinh tế và tài chính trên thế giới. Có được
kết quả trên, nhờ vào việc chỉ đạo quyết liệt, cùng với phương pháp điều hành chính sách

vĩ mơ nhanh nhạy, linh hoạt và thận trọng của Chính phủ, trong đó chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa - tài chính đóng vai trị quan trọng có quyết định tới ổn định kinh tế vĩ
mô và thúc đẩy tăng trưởng.


Thế nhưng, trong năm 2010, mặc dù đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP, song, lạm phát đã
vượt mục tiêu gần 2 điểm phần trăm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả khơng mong
muốn này, trong đó sự phối hợp chưa thực sự nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ cũng đã ảnh hưởng tới kết quả kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian
qua. Sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa hai chính sách vĩ mơ quan trọng và có ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất đến kiểm soát lạm phát trong ngắn hạn là do:
Thứ nhất: Chủ trương duy trì tăng trưởng cao trong thời gian dài, đặc biệt ngay cả trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới đã đè nặng lên chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ ở Việt Nam. Với mơ hình tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng lượng đầu tư và
lấy khu vực kinh tế nhà nước hiện tại hoạt động kém hiệu quả làm chủ đạo và nhờ vào việc
bán tài nguyên, gia cơng trình độ thấp... dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Điều này được minh
chứng qua số đơn vị cần thiết để tạo ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (hệ số ICOR)
vào khoảng 6 trong những năm gần đây, dẫn đến quyết định logic về chính sách là để tăng
trưởng cao cần gia tăng đầu tư.
Thứ hai: Kết cục của mơ hình tăng trưởng này dẫn đến Chính phủ phải thực thi chính sách
tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp
cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, cơng
trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là
246.447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt
ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3 - 4 lần, riêng phần vốn trái phiếu
Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng
(tăng 226%). Uỷ ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, tổng mức đầu tư các cơng trình, dự
án sử dụng nguồn vốn này đã “tăng quá cao so với khả năng cân đối của ngân sách, ảnh
hưởng đến khả năng vay và trả nợ”[1]. Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguồn vốn

chưa hợp lý số lượng dự án hồn thành cịn q ít, ảnh hưởng khơng nhỏ đến hiệu quả sử
dụng vốn.
Thứ ba: Chính sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ
lệ đầu tư/GDP ở mức 44,2% năm 2010 - cao nhất châu Á, sau Trung Quốc. Do nền kinh tế
kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân
đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra
là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép
nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm
sốt tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán (25%) khá tốt
năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản của
lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua.
Thứ tư: Một minh chứng khác cho việc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ là trong nhiều thời điểm, trong khi chính sách tiền tệ đang vận hành theo hướng
thắt chặt tiền tệ để ổn định giá cả, Chính phủ lại điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng như xăng
dầu, giá điện. Sự không nhất quán này đã phần nào làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ trong
việc kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngay trong tháng 12 năm 2010, chính
sách tiền tệ đã bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt thơng qua việc tăng lãi suất cơ bản nhưng chính sách
tài khóa dù có dấu hiệu thắt chặt hơn nhưng nhìn chung, vẫn theo hướng nới lỏng.


Năm

2006 2007 2008 2009 2010 ước tính

ICOR

5

4,75


6,95

8,23

6,18

Nợ cơng (5 trên GDP)

42,9

45,6

43,9

52,6

56,7

Nợ nước ngồi (tỷ USD, tính đến cuối năm)

19,1

23,2

29,4

36,6

41,7


40,96 40,4

43,1

42,8

44,2

Đầu tư (%, so với GDP)

Tính tốn dựa trên nguồn từ Tổng cục Thống kê
Thứ năm: Trong khi chính sách tiền tệ đang điều hành theo hướng giảm lãi suất thị trường
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với chi phí thấp thì để huy động vốn cho gia
tăng đầu tư cơng, Chính phủ phải tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất ở
một số thời điểm lên tới 11 - 12%/năm, cao hơn lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín
dụng, sau một thời gian, mức lãi suất huy động trái phiếu đã giảm xuống 9,6% năm, nhưng
vẫn cao hơn so với mức rủi ro của cơng cụ tài chính này. Các ngân hàng thương mại với
động cơ tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, họ đã sử dụng vốn huy động được trên
thị trường mua trái phiếu chính phủ hấp dẫn hơn là cho các doanh nghiệp vay và mức lãi
suất này vơ hình trung đã đẩy mức lãi suất huy động trên thị trường lên cao. Đây là một
biểu hiện của sự chưa ăn khớp giữa vận hành của chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ
trong thời gian qua.
Thứ sáu: Sự thiếu phối hợp, trao đổi thơng tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về ngắn
hạn. Điều hành chính sách tiền tệ địi hỏi có hệ thống thơng tin tài chính đầy đủ, cập nhật
và chính xác, thế nhưng trong một số trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài
chính cơng, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch pha về thời gian với yêu cầu điều hành
chính sách tiền tệ.



Một số đề xuất tăng cường sự phối hợp trong thời gian tới:
Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa là hai bộ phận trọng yếu trong điều tiết vĩ mơ nền
kinh tế và đặc biệt trong kiểm sốt lạm phát. Hai chính sách này trên thực tế được hoạch
định và thực thi khá riêng biệt bởi hai cơ quan khác nhau của Chính phủ, nhưng lại cùng
một mục tiêu vĩ mô là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững, và vì vậy, hoạt
động của hai chính sách này có mối quan hệ đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Để tăng
cường hiệu quả của hai chính sách này cần phải có sự kết hợp nhịp nhàng và đồng bộ theo
hướng sau đây:


Thứ nhất: Chính phủ cần đưa ra một kế hoạch tổng thể chính sách về tài chính - tiền tệ
năm 2011, trong đó các vấn đề về cân đối bội chi ngân sách, cân đối đầu tư cơng cần được
tính toán, nghiên cứu trong mối quan hệ chặt chẽ tới các chỉ tiêu quan trọng của chính sách
tiền tệ: tổng phương tiện thanh tốn và tăng trưởng tín dụng. Tránh hiện tượng trong khi
chính sách tiền tệ đang tìm cách thắt chặt để kiểm sốt lạm phát thì chính sách tài khóa lại
nới lỏng cho đầu tư cơng như thời gian vừa qua.
Thứ hai: Việc phát hành trái phiếu chính phủ với khối lượng lớn trong năm qua cho chi
tiêu công đã dẫn tới hiện tượng khan hiếm vốn cho khu vực sản xuất, các doanh nghiệp vẫn
thiếu vốn và lãi suất cho vay vẫn ở mức cao cho dù chính sách tiền tệ đã kiểm sốt tốt các
chỉ tiêu tổng phương tiện thanh tốn và tăng trưởng tín dụng. Do vậy, để ưu tiên vốn cho
khu vực sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, Chính phủ cần nghiên cứu giảm phát
hành trái phiếu chính phủ cho đầu tư công trong năm 2011 và các năm tiếp theo.
Thứ ba: Lãi suất phát hành trái phiếu cần được nghiên cứu, tính tốn với mặt bằng lãi suất
huy động chung của hệ thống ngân hàng thương mại, hạn chế các ngân hàng thương mại sử
dụng vốn huy động để mua trái phiếu chính phủ và cần tăng cường phối hợp giữa chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc xác định lãi suất đảm bảo ổn định lãi suất thị
trường.
Thứ tư: Từng bước giảm bội chi ngân sách theo hướng Chính phủ chỉ đầu tư các cơng
trình cơ sở hạ tầng trọng điểm liên quan đến quốc kế dân sinh, khuyến khích khu vực kinh
tế tư nhân tham gia đầu tư các cơng trình xây dựng cơ sở hạ tầng thơng qua hình thức đối

tác cơng tư (PPP).
Thứ năm: Nguyên nhân căn bản của lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua là mơ hình
tăng trưởng dựa vào đầu tư nhưng lại kém hiệu quả và thực hiện chính sách tài khóa mở
rộng, và vì vậy, để kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới, Chính phủ cần kiên
định với mục tiêu ưu tiên ổn định vĩ mơ thay vì thúc đẩy tốc độ tăng trưởng GDP, thậm chí
cần đặt mục tiêu tăng trưởng thấp hơn (khoảng 6 - 6,5%) để kiểm soát lạm phát ở mức 5 6% năm 2011 và duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3 - 4% những năm tiếp theo. Làm được như
vậy nền kinh tế sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng vững chắc và lâu dài.
Thứ sáu: Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
ngay từ khâu xây dựng và hoạch định chính sách, trước mắt năm 2011, cả hai chính sách
này phải nên được thắt chặt để giảm tổng cầu và ngăn chặn lạm phát, chính sách tài khóa
cần được xây dựng theo hướng giảm dần thâm hụt tài chính tổng thể và thâm hụt ngân sách
nên được duy trì ở mức 4 - 5%/năm.
Nguồn tham khảo:
Trái phiếu Chính phủ đầu tư cơng và phối hợp chính sách: www.vietbao.vn
Kinh tế Việt Nam đầu năm 2011: Phạm Đỗ Chí


CẢM ƠN CƠ VÌ ĐÃ ĐỌC



×