MỤC LỤ
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................................2
KẾT LUẬN......................................................................................................3
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................4
i
MỞ ĐẦU
Nhân dân có vai trị cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị - xã hội của
nước ta. Quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực
của đất nước. Trong hệ thống cấu trúc quyền lực nhà nước mới của nước ta từ
tháng 9/1945 đến nay đã được ghi vào 05 bản Hiến pháp là: tất cả mọi quyền
lực đều thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh rằng,
nhân dân lao động làm chủ, cịn Đảng, Chính phủ cũng như cán bộ, đảng
viên, công chức chỉ là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Đây là một vấn đề
trở thành nguyên tắc khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với xây dựng
một xã hội công dân.
Nhận thức được ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ,
nên mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm cho mọi người
dân hiểu bản chất chế độ mới, nhà nước mới khác nhà hoàn toàn về chất so
với chế độ cũ, nhà nước cũ ở giá trị dân chủ. Dân là chủ, chứ không phải là nô
dân, thần dân, thứ dân hay công dân mà các chế độ xã hội cũ gọi là như vậy,
nhưng thực tế xem dân là chủ chỉ là giả hiệu.
Do đó, qua q trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn đề tài “
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Biện
pháp để phát huy quyền là chủ và làm chủ trong thời kỳ hội nhập- liên hệ
trách nhiệm bản thân.” Để hiểu hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1
NỘI DUNG
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
1.1. Nhà nước do nhân dân làm chủ
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất
quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đây cũng là một
kết luận mà Người rút ra khi khảo sát các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nga.
Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đồn kết dân tộc trong đó
cơng, nơng là gốc và trí thức ngày càng có vị trí quan trọng đặc biệt khi đất
nước bước vào thời kỳ xây dựng. Tất cả mọi người dân Việt Nam, không
phân biệt gái trai, giàu nghèo, nịi giống, dân tộc, tơn giáo... đều là người chủ
của Nhà nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu
mới thành lập, Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn
đều của dân”.
Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà
nước kiểu mới. Trong nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn
các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người
được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, trở thành cơng
bộc của nhân dân. Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ
quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao
nhất, nhà nước khơng cịn là cơng cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời
phong kiến, tư bản.
Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng
thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh nhận thức tổng
tuyển cử là một quyền chính trị mà nhân dân giành được qua đấu tranh cách
mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân
2
dân. “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển
cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là
cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử... Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra
Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là chính phủ của
tồn dân” . Thơng qua việc bầu Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện
quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở
quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân
chủ này nhằm làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng
lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không
xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
1.2. Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân
Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động.
Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự
khác nhau căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa với các
loại hình nhà nước trước đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính
phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh
vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những
kiến nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó
đến đâu mặc lịng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn,
3
phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn
nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy
những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được
ta đặc biệt chú ý”.
Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu
khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính
phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải
đồn kết thành một khối”. Chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng
dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng
bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết
hàng ngày. Theo Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ
giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
1.3. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam
Quan niệm Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Việt Nam kiểu mới là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin
về nhà nước và nhà nước chuyên chính vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu
kinh tế - chính trị. Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn
giai cấp khơng thể điều hịa được. Bất kỳ ở đâu, hễ lúc nào xuất hiện những
mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được thì nhà nước xuất hiện. Ngược
lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng, những mâu thuẫn giai cấp là không
thể điều hịa được. Nhà nước ln ln mang bản chất của một giai cấp,
khơng có một nhà nước siêu giai cấp.
Qn triệt học thuyết Mác - Lênin về nhà nước, Hồ Chí Minh thường
nhấn mạnh tới tính chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhưng Hồ Chí Minh cũng
xác định dứt khốt, rõ ràng bản chất giai cấp cơng nhân của nhà nước đó.
4
Chúng ta gọi Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng
Hồ Chí Minh, khơng có nghĩa là “nhà nước tồn dân”, nhà nước phi giai cấp.
Từ nhận thức chung: “ Tính chất của một nhà nước là: trong nhà nước ấy giai
cấp nào thống trị, giai cấp nào bị thống trị. Nhà nước đó bảo vệ lợi ích của
giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào”, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tính chất Nhà
nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của
chính quyền”. Người khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ
nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”. Quan điểm này được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần, cụ thể hóa thành
Hiến pháp, pháp luật và là phương châm chỉ đạo tổ chức, xây dựng chính
quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân quy định bản chất và nội dung giai cấp, đặt ra mục đích, định hướng
hoạt động của Nhà nước ta. Điều này chứng tỏ bản lĩnh và tinh thần mácxít
triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.4. Sự thống nhất giữa quản lý bằng pháp luật với việc nâng cao giáo
dục đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết phải khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước khơng hề có quan điểm “trị nước” hay “trị dân”. Người dùng chữ “trị”
đối với các phần tử tổ chức phản động hại dân, phản nước. Đối với dân, với
nước. Người thường dùng từ lãnh đạo, quản lý, điều hành, phụng sự hay phục
vụ khi dân đã có chính quyền.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, phạm trù “đức trị” dùng chỉ sự quản
lý, cai trị đất nước bằng đạo đức, còn “pháp trị” là chỉ sự quản lý, cai trị đất
nước bằng pháp luật.
Tuy Hồ Chí Minh khơng dùng chữ “đức trị” hay “pháp trị” nhưng trong
thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp
luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh
công dân cho cán bộ và nhân dân. Pháp luật và đạo đức đều dùng để điều
5
chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân,
thiện, mỹ. Nếu các điều luật cho phép con người được hay không được làm
việc này hay việc khác thì đạo đức chỉ khuyên người ta nên hay không nên
làm. Thông thường, một hành động vi phạm pháp luật cũng đồng thời vi
phạm đạo đức. Cũng có trường hợp vi phạm đạo đức nhưng chưa tới mức vi
phạm pháp luật, Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt tới cả hai lĩnh vực pháp luật
và đạo đức. Người kết hợp hài hồ, gắn bó giữa đạo đức và pháp luật trong xử
trí từng trường hợp. Theo Người, pháp luật cũng nhằm mục đích thực hiện
mục tiêu lý tưởng của cách mạng, do đó phải giáo dục cho mọi người có ý
thức tự giác, đạo đức cách mạng mới làm cho luật pháp được thực hiện.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Ngun tắc “có lý, có
tình” chi phối mọi hành vi ứng xử của Người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình,
tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt
này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải nghiêm túc,
nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cái xấu, cái ác, phát
huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người căn dặn:
“Không xử phạt là không đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là khơng
đúng”. Hồ Chí Minh có tấm lịng độ lượng, bao dung nhưng không bao che,
khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng
thắn với những khuyết điểm, sai lầm, với những hành vi phạm pháp.
1.5. Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
1.5.1. Xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm
nhiều bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi
bộ phận lại có một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí
Minh đã đặt vấn đề thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ,
sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của nhân dân.
6
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh bao gồm:
- Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc
hội giải quyết những vấn đề chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp
luật, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngồi, biểu quyết ngân
sách, danh sách Thủ tướng và các Bộ trưởng.
- Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là
cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,
pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ
quan nhà nước.
- Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương
và cơ sở. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh rất chú ý mối quan hệ
giữa chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy thuộc ở
việc xử lý mối quan hệ đó.
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng
linh hoạt, phù hợp điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự
xơ cứng, trì trệ, giáo điều, rập khn. Có thể xem đó là chuẩn mực, kiểu mẫu
để tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, nền hành chính quốc gia giai
đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
1.5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ
Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Theo
Người, “cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc;
công việc thành công hay thất bại do cán bộ quyết định. Vì thế, chất lượng,
năng lực, hiệu lực của Nhà nước phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng đội
7
ngũ cán bộ, công chức. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đề cập đến những
nội dung cốt lõi cơ bản.
- Hồ Chí Minh có một quan niệm nhất quán, chuẩn xác hiện đại về cán
bộ công chức nhà nước. Ngay trong kháng chiến, vào những năm 1948, 1950,
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 188/SL và 76/SL quy định về thang lương và
quy chế cơng chức, trong đó xác định rất rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức
nhà nước. “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong
bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo tối cao của
Chính phủ.
Vậy, người cơng chức phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng
đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc.
Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng
đáng với tài năng của mình”. Quan điểm của Hồ Chí Minh xác định rõ tính
cách chun nghiệp của cơng chức theo chế độ chức nghiệp.
II. THỰC TRẠNG QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ CỦA NHÂN
DÂN
2.1. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”
Quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ” với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã quán triệt,
cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân thành các quy định, chỉ thị,
chương trình hành động, kế hoạch để lãnh đạo hệ thống chính trị trong tỉnh
triển khai thực hiện; chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội tổ chức quán triệt và xây dựng chương trình, kế
8
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ chính trị của địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Chính quyền các cấp tổ chức thực hiện hiệu quả các quy chế, quy định
về thực hiện dân chủ, các quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến
quyền làm chủ của Nhân dân. Trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước,
đã đặc biệt coi trọng việc phát huy quyền làm chủ và những lợi ích, nguyện
vọng chính đáng của Nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nêu cao
tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ, văn hóa ứng xử trong quan hệ, giải
quyết cơng việc với Nhân dân theo hướng “Trọng dân, gần dân, hiểu dân và
có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”; triển khai
thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an sinh xã hội, đến nay, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp
cận đa chiều giảm còn 3,16 % và hộ cận nghèo giảm cịn 5,08%, thu nhập
bình qn đầu người đạt 63,2 triệu đồng/người/năm; đổi mới việc thực hiện
cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính;
thực hiện nghiêm quy định về tiếp dân, đối thoại trực tiếp với Nhân dân; tạo
điều kiện để Nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, góp phần mở rộng dân chủ ở
cơ sở, đảm bảo quyền làm chủ của Nhân dân.
Cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh đã chỉ đạo, thực hiện tốt
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân
thụ hưởng”, thơng qua các hình thức đã công khai, minh bạch những nội dung
theo quy định như: kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; phương án đền bù, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, cơng trình trên địa
bàn; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; các khoản đóng góp của nhân dân; huy
9
động vốn làm đường giao thông nông thôn, hẻm đô thị; quy hoạch, đề án xây
dựng nông thôn mới,... Thực hiện tốt việc lấy ý kiến tham gia của Nhân dân
vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trước
khi quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định như: đề án chia tách
thôn, khu vực; việc dồn điền đổi thửa; mức đóng góp xây dựng các cơng trình
phúc lợi cơng cộng của xã, thôn, tổ dân phố; hương ước, quy ước; bình xét
các đối tượng được hưởng chính sách xã hội; việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
trưởng thôn, khu vực trưởng. Qua đó, Nhân dân đã phát huy quyền làm chủ
của mình, tích cực tham gia đóng góp ý kiến, bàn bạc, giám sát các vấn đề có
liên quan đến quyền lợi của Nhân dân, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, đảm bảo trật tự an tồn xã hội ở địa phương.
2.2. Những kết quả đạt được
2.2.1. Dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng, như công
tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra,
v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm
qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của
Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận
và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của
các nhà khoa học và của nhân dân.
Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng
cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động quần
chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp tục
giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân
cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các
10
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng
hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực: Các
cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn theo
hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định.
Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính
sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
Thứ tư, cơng tác kiểm tra, giám sát phải thực hiện trong cả hệ thống
chính trị, kiểm tra, giám sát từng người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ
chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội ở các cấp
trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kiểm tra, giám sát việc
chấp hành các chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
và Nhà nước. Trong thời gian qua, công tác kiểm tra, giám sát được cấp ủy, tổ
chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều đổi mới và đạt được những
kết quả quan trọng.
Thứ năm, thực hành dân chủ thông qua các quan hệ trong nội bộ Đảng.
Đảng phải gương mẫu thực hành dân chủ không chỉ trong các hoạt động của
Đảng, mà cả trong quan hệ nội bộ đảng mà chủ yếu là quan hệ giữa cấp trên
và cấp dưới. Mặt ưu điểm của thực hành dân chủ trong quan hệ giữa cấp trên
và cấp dưới trong nội bộ đảng thể hiện: (1) Sau khi có nghị quyết Đại hội và
các hội nghị Trung ương, các cấp dưới thực hiện việc cụ thể hóa nhanh, gọn
hơn trước; (2) Nhìn chung các cấp ủy đảng đã thể hiện sự chủ động, năng
động cao hơn trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết và đưa nghị
quyết vào cuộc sống; (3) Các cấp ủy đảng đã coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết để báo cáo lên cấp trên; (4) Cấp
trên đã chịu khó lắng nghe các ý kiến đóng góp của cấp dưới; cấp dưới đã
11
mạnh dạn đóng góp ý kiến phê bình, xây dựng với cấp trên; (5) Cùng với việc
kiểm tra từ trên xuống, đã bắt đầu có sự kiểm tra từ dưới lên; (6) Khắc phục
được một bước tình trạng cấp trên quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, dọa nạt
cấp dưới, đồng thời khắc phục được phần nào tình trạng cấp dưới hối lộ, nịnh
bợ cấp trên.
2.2.2. Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước. Nói về
những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Đảng cũng tức
là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Nhà nước.
Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục hành
chính giải quyết các cơng việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách,
v.v.. Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan
trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới
hành chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, v.v.. Nhà nước đều hỏi ý
kiến nhân dân.
Quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân có nhiều tiến bộ trên một số mặt,
dần dần thể hiện đúng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân. Các cơ quan nhà nước đã từng bước đổi mới tổ chức và hoạt
động, thích ứng và tổ chức tốt hơn yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mở cửa,
hội nhập và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trong những năm qua,
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những tiến bộ
nhất định trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội có
những đổi mới quan trọng trong công tác lập pháp, đã thông qua một số lượng
lớn luật, bộ luật, pháp lệnh mới với chất lượng ngày càng được nâng cao, tạo
12
cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước và thực hành dân chủ. Tăng
cường một bước tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tránh được tình
trạng ơm đồm, cồng kềnh và quan liêu trước đây, thực hiên sự phân cấp, giảm
bớt phiền hà trong bộ máy hành chính. Dần dần thực hiện được tư tưởng quan
trọng là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa để bảo đảm dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương; đồng
thời, chỉ có thực hành dân chủ mới xây dựng được Nhà nước pháp quyền thực
sự của dân, do dân và vì dân.
2.2.3. Dân chủ trong xã hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ trong xã hội
có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết
định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì dân chủ trong Nhà nước và trong
xã hội cũng chưa thể tốt được.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể chế hóa của
Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong xã hội đã có những
bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn
trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực
hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia
cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán
bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở
địa phương.
Hai là, trong 30 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong xã
hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến
văn hóa và xã hội. Quyền cơng dân, quyền con người được khẳng định rõ
13
ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, một trong thành tựu quan trọng
của đổi mới là nền dân chủ đang được hình thành, đang đóng vai trị là động
lực của sự phát triển xã hội.
2.3. Hạn chế
2.3.1. Dân chủ trong Đảng
- Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến
đấu cịn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thối của
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo
dục chính trị và tư tưởng. Các thông tin chưa được cung cấp thường xuyên để
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong
tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói
nhiều, làm ít hoặc nói nhưng khơng làm.
- Cơng tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, cịn một số biểu
hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có quá
nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt
động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ
còn bất hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn,
đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong
công tác tổ chức, cán bộ, chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc
tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ thực sự để
tạo ra môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện cơng khai hóa,
minh bạch hóa các khâu trong công tác cán bộ để nhân dân được biết và có
điều kiện theo dõi, giám sát q trình triển khai thực hiện;
- Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ tham
nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm tra phát
14
hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu. Vì vậy,
phải xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia kiểm
tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên, vì khơng có cơ chế, chính
sách cụ thể, đồng bộ thì nhân dân khơng thể giám sát, kiểm tra được;
- Trong Đảng vẫn còn tệ gia trưởng, độc đốn, dân chủ hình thức, đồng
thời vơ tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp ủy bàn bạc, nhưng
chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Vì người đứng đầu
không thật sự mở rộng dân chủ, không tôn trọng lắng nghe ý kiến trái với
mình, thậm chí thành kiến, trù dập một cách khôn khéo, nên cấp dưới khơng
dám nói thẳng, nói thật. Ngun tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên
thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách
nhiệm, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tập thể và cá nhân, khi sai
sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm.
Tóm lại, vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng đã có nhiều chuyển biến
tích cực so với thời kỳ trước đổi mới, không những thể hiện trong các Nghị
quyết của Đảng, trong pháp luật của Nhà nước mà cả trong thực tế cuộc sống.
Những chuyển biến đó thể hiện trong các hoạt động của Đảng và trong các
quan hệ nội bộ đảng. Nhưng cũng phải thấy rằng, việc thực hành dân chủ
trong Đảng vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Đảng cần phải phát huy ưu
điểm, khắc phục khuyết điểm để thực hành dân chủ trong Đảng ngày càng tốt
hơn, đồng thời nêu tấm gương tốt cho việc thực hành dân chủ trong Nhà nước
và trong xã hội.
2.3.2. Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Trong chế
độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước khơng phải là quyết định tự
có của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao quyền.
Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho
những con người cụ thể, mà ở con người cụ thể khi các dục vọng, thói quen
15
nổi lên thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực càng lớn. Không thể
khẳng định người được ủy quyền ln làm đúng, làm đủ những gì mà nhân
dân ủy quyền. Vì vậy, phải kiểm sốt quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng
quyền, lạm quyền. Muốn kiểm sốt quyền lực nhà nước thì phải thực hành
dân chủ rộng rãi. Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn còn
sự lộng quyền, lạm quyền, vẫn cịn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà
đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ô, lãng phí, v.v..
Nhà nước cịn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ
thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
2.3.3. Dân chủ trong xã hội
Thực hành dân chủ trong xã hội ở nước ta còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được
thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ
trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và
phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một
vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức;
có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây
rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng
nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, phép nước còn nhiều bất cập. Tình trạng tách rời, thậm chí đối
lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn xuất hiện ở khơng ít
16
người. Trong xã hội cịn khơng ít hiện tượng vừa chun quyền, độc đốn,
mất dân chủ hay dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực đoan.
Thứ tư, chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể
của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước.
Việc nhân dân giám sát chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực
tế, việc giám sát này còn rất mờ nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành
chính làm cho u cầu quản lý các q trình kinh tế - xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả cao. Trong
nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
Thứ năm, trong hơn 30 năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có
nhiều đổi mới, Nhà nước đã cố gắng xây dựng, ban hành pháp luật và đưa
pháp luật trở thành công cụ quan trọng trong quản lý đất nước, thực hành dân
chủ trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa
đồng bộ, khơng thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi
hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã
hội.
Tóm lại, so với thời kỳ trước đổi mới thì hiện nay vấn đề dân chủ đã có
nhiều tiến bộ nhưng một số vấn đề vẫn cần tiếp tục nghiên cứu và lý giải một
cách nghiêm túc, khoa học, như: vấn đề nhân dân làm chủ như thế nào? Hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền như thế nào để tạo cơ sở cho dân chủ phát triển?
hay như việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ cịn chậm,
khơng kịp thời, không rõ ràng, không đầy đủ, không nhất quán nên việc thực
hành dân chủ trong xã hội còn nhiều khó khăn, hoặc rơi vào tình trạng dân
chủ hình thức hoặc rơi vào tình trạng dân chủ quá trớn.
2.4. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ ở nước ta
Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về
lý luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều
17
đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa
làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc
dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự
chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có
cơ chế rõ ràng.
Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động
lực, nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân
chủ với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy
được động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa
được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều
vừa thiếu lại vừa yếu.
Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của
chúng ta chưa tốt nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng
chưa nêu được tấm gương về thực hành dân chủ.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên
việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai
trò giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép xây
dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội. Điều
này ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội.
Ngồi ra, cịn có nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng những nguyên
nhân nói trên là những nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế dân chủ ở nước
ta.
18
III. GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY QUYỀN LÀ CHỦ VÀ LÀM CHỦ
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP- LIÊN HỆ TRÁCH NHIỆM BẢN
THÂN
3.1. Giải pháp nâng cao quyền là chủ và làm chủ của nhân dân
3.1.1. Thực hiện dân chủ trong hoạt động của các cơ quan Trung ương phải
chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo quyền lực
nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách,
pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng
quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động
quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình
thực hiện chính sách, pháp luật. Cả hai yếu tố này phải có sự phối hợp một
cách đồng bộ, chặt chẽ trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nhưng
nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà khơng mở rộng quyền dân chủ thì sẽ tạo
điều kiện cho các hành vi lạm quyền, lộng quyền phát triển. Ngược lại, khơng
có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, vơ chính
phủ, cục bộ.
Vấn đề đặt ra là việc thực hiện dân chủ tại các cơ quan, đơn vị hiện nay
phải có giải pháp để tập trung - dân chủ được đảm bảo đúng theo ý nghĩa vốn
có của nó để có thể phát huy cao nhất quyền làm chủ của cán bộ, công chức,
viên chức và người dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một
cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân
chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần
trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Theo đó, trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, phải phân định những vấn đề thuộc thẩm quyền tập thể, những nhiệm
vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Những vấn đề thuộc
thẩm quyền tập thể thì thiểu số phục tùng đa số nhưng thiểu số có quyền bảo
lưu ý kiến, đa số cũng cần xem xét, tham khảo ý kiến của thiểu số để kiểm tra
19