Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Nội dung cơ bản của tư tưởng hồ chí minh về con người và làm rõ vai trờ của giáo dục trong phương pháp xây dựng con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.44 KB, 20 trang )

MỤC LỤ

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
CHƯƠNG : VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH..................................................................................2
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người................2
1.1.1.

Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.................................2

1.1.2. Truyền thống văn hóa Việt Nam.................................................3
1.1.3. Tinh hoa văn hóa nhân loại.........................................................3
1.1.4. Chủ nghĩa Mác – Lênin...............................................................4
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người..........4
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân dân lao động........................................................4
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng........................................................................5
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện..........5
1.2.4. Tổng kết.......................................................................................6
CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG PHÁP
XÂY DỰNG CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM,.........................................8
2.1. Vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con người....8
2.2. Con người Việt Nam và phương hướng xây dựng con người Việt
Nam.........................................................................................................10
2.2.1. Vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam hiện nay.................10


2.2.2. Phương hướng xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu


thời đại mới.........................................................................................11
2.3. Một số giải pháp phát triển bản thân sinh viên dựa trên lý luận
về con người và bản chất con người....................................................14
2.3.1. Phát triển lý tưởng cộng sản cho sinh viên................................14
2.3.2. Phát triển thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt
Nam.....................................................................................................14
2.3.3. Xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên....15
KẾT LUẬN....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô
cùng phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của
mỗi con người. Tất cả đều tốt lên tình u vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao
dung và niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước thắng lợi thì “Đầu tiên là cơng việc đối với con người”, tức là
phải có chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà
nước ta đã và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nayi.Tư tưởng đó
cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về phát triển con người
tồn diệncủa Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: “Con người vừa là mục tiêu,
đồng thờivừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
bản thân con người”.
Tư tưởng phát triển con người của Bác đã đang và sẽ cho chúng ta
những chỉ dẫn sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người toàn
diện trong điều kiện mới ở nước ta. Xuất phát từ những luận điểm trên, Tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh thơng qua thực tiễn cách mạng, đã trở
thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi cho sự
nghiệp cách mạng. Do vậy, sau một thời gian học tập và tìm hiểu, chúng em

đã lựa chọn đề tài “ Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người và làm rõ vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con
người” làm đề tài nghiên cứu để có cái nhìn sâu và rộng hơn về vấn đề này.


NỘI DUNG
CHƯƠNG : VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC HỒ CHÍ MINH
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sự kết tinh của những quan
điểm về con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại (phương Đông, phương
Tây, Mác- Lênin) được thể hiện một cách cụ thể, sinh động ở Việt Nam.
Những tư tưởng ấy, được hình thành, phát triển và quán xuyến suốt cuộc đời
hoạt động của Người. Sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là
một tất yếu lịch sử; là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều kiện lịch sử –
xã hội với phẩm chất, năng lực cá nhân. Những cơ sở cơ bản để hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người, đó là :
1.1.1. Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.
Những năm đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, cùng với mâu thuẫn vốn có trong lịng xã hội tư bản là mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; giờ đây còn xuất hiện mâu thuẫn
mới – mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột với chủ nghĩa
đế quốc, thực dân xâm lược.
Sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga vào năm 1917 đã
mở ra một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Ở trong nước, do bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách đô hộ, thống trị của thực dân Pháp.
Với chính sách thực dân cũ nhằm vơ vét tài ngun khống sản làm giàu cho
chính quốc, thực dân Pháp đã đẩy cuộc sống của người dân Việt Nam vào

hồn cảnh bần hàn, cơ cực, chìm trong đau khổ, tủi nhục vì mất nước. Với
một tinh thần “Nam quốc sơn hà nam đế cư” bất khuất, không cam chịu cúi


đầu làm nô lệ, cha ông ta đã tổ chức rất nhiều phong trào kháng chiến nhằm
đánh đuổi thực dân Pháp giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, nhưng tất cả các
phong trào ấy đều thất bại. Trước tình hình ấy, địi hỏi phải tìm ra con đường
giải phóng để cứu dân, cứu nước, địi hỏi ấy đã trở thành một đòi hỏi khách
quan đối với mỗi người và đối với cả dân tộc. Trong điều kiện như vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói
riêng đã từng bước được hình thành.
1.1.2. Truyền thống văn hóa Việt Nam
“Truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần nhân ái cố kết dân tộc đã được hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh
kiên cường, bất khuất, tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo, chống giặc
ngoại xâm, bảo vệ độc lập của dân tộc và bảo tồn nền văn hiến của đất nước,
chống mọi âm mưu đồng hóa của ngoại bang”. “Truyền thống đó, khơng chỉ
là một tình cảm, một phẩm chất tinh thần, mà đã phát triển thành chủ nghĩa
yêu nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính, thành dịng chủ lưu của tư tưởng
Việt Nam” chính sức mạnh ấy của truyền thống yêu nước đã thúc đẩy Nguyễn
Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước; là cơ sở tư tưởng dẫn Người đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin. Người tiếp thu lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin
bắt đầu từ lý luận về dân tộc và thuộc địa. Vì vậy, có thể nói truyền thống văn
hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân ái cố kết dân tộc
là một trong những nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.3. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Ngồi truyền thống văn hóa dân tộc. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
cịn chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Đơng (Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo). Người còn tiếp thu và kế thừa một cách có phê phán, có chọn lọc các tư
tưởng nhân văn của văn hóa Phục hưng, của thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng

tư sản phương Tây và của cách mạng Trung Quốc. Ngồi ra, trên con đường
bơn ba đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh cịn khơng ngừng tự học tập, học


hỏi để làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng những di sản quý báu của văn hóa
nhân loại.
1.1.4. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác, đây là bước ngoặt, tạo nên sự phát triển mới về chất của tư tưởng
Hồ Chí Minh. “Đây là bước ngọăt cơ bản trong quá trình đi tìm đường cứu
nước và quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh : Chủ nghĩa yêu nước đã
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giác ngộ dân tộc đã phát triển và kết hợp với
giác ngộ giai cấp; cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vơ
sản. Bước ngoặt đó đánh dấu sự định hình và khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản- Chủ nghĩa Mác-Lênin, mang bản
chất cách mạng và khoa học triệt để”
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Mặc dù khơng có một tác phẩm lý luận riêng nào về con người, nhưng
tất cả các bài viết và cả cuộc đời Hồ Chí Minh là vì con người, do con người;
thương u, tơn trọng, tin tưởng con người, bồi dưỡng và phát triển tài năng
con người. Đó chính là chủ nghĩa nhân văn hiện thực, cao cả của Hồ Chí
Minh.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được thể hiện qua
“tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao
động; tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng;
tư tưởng về phát triển con người toàn diện”
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động.
Đây là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người.
Nội dung này thường xuyên được Người đề cập đến trong các bài viết, bài nói

chuyện của mình; qua đó thể hiện một số luận điểm cơ bản, đó là :


-

Độc lập tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

-

Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.

-

Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng

nhân dân lao động.
Như vậy, “tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng kết hợp giữa dân tộc với giai
cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng.
Như trên đã trình bày, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến con người, tất
cả vì con người, do con người thương yêu, tôn trọng, tin tưởng con người, bồi
dưỡng và phát triển tài năng của con người. Phạm Văn Đồng viết : “HCM hết
sức coi trọng chiến lược con người. Đối với Hồ Chí Minh, con người là mục
tiêu đồng thời là nhân tố quyết định thành công của cách mạng” HCM cho
rằng, “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết, cần có những con người
xã hội chủ nghĩa” Người quan niệm, cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của
mọi hoạt động cách mạng; ngay cả”… nước độc lập mà dân khơng hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Như vậy, trong tư

tưởng của Người; Sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng là của dân, do
dân và vì dân.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
Phát triển con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết là quan
niệm giáo dục, đào tạo con người. Về vấn đề này, Người viết : “vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người””Trồng
người” theo Người, trước hết là giáo dục, rèn luyện đạo đức, bồi dưỡng tài
năng cho con người, làm cho con người vừa “hồng” vừa” chuyên” theo
phương châm “lý luận phải gắn liền với thực tiễn”. Tiêu chuẩn cơ bản, hàng


đầu của con người toàn diện là con người phải có đức và có tài, trong đó đức
là gốc. Với đức, yêu cầu cơ bản là : “trung với nước, hiếu với dân; thương yêu
con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư; có tinh thần quốc tế vơ
sản”. Nguyên tắc cơ bản để phát triển con người toàn diện là tu dưỡng, rèn
luyện trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự
giáo dục.
1.2.4. Tổng kết
Trong vấn đề con người, điều mà Hồ Chí Minh quan tâm nhất đó là con
người Việt Nam, những quan hệ xã hội trong xã hội Việt Nam, Người đã nêu
rõ ý kiến riêng, quan điểm của mình khi tiếp thu những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, những ý kiến, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về con
người. Quan điểm của Người về con người và bản chất của con người đều
xuất phát từ thực tiễn, Người đưa ra những quan điểm chủ yếu về con người
rất độc đáo mà rất thiết thực. Người định nghĩa về con người: "Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng nữa là cả loài người". Như vậy, con người không phải là những
cá thể biệt lập. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn xã hội
con người mới có lao động, ngơn ngữ, tư duy, chế tạo công cụ lao động, mới
thật sự trở thành con người đúng nghĩa.

Thứ nữa, theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn,
mặc, ở, đi lại... Nhưng đời sống con người không chỉ dừng lại ở vật chất, mà
còn những nhu cầu tinh thần, văn hóa là những đặc trưng của con người. Tất
cả nhu cầu về vật chất và tinh thần đó được đáp ứng hay khơng, lại hồn tồn
phụ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội mà con người đang
sống. Người nói: "đồng bào ai cũng có ăn, có mặc,..." vì đây là những điều
thiết yếu để tồn tại. Người vẫn nhớ và thường nhắc lại "Dân dĩ thực vi thiên"
(Dân lấy ăn làm trời, nếu khơng có ăn là khơng có trời). Lại có câu "Có thực
mới vực được đạo" (Khơng có ăn thì chẳng làm được việc gì cả). Từ đó ta


thấy việc quan tâm đến cái ăn, cái mặc, cái ở của nhân dân luôn đặt lên hàng
đầu trong mối quan tâm của Hồ Chí Minh.
Đối với Ðảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng duy nhất lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, lãnh đạo nhân dân, lãnh đạo đất nước..., Hồ Chí Minh nhấn
mạnh trách nhiệm đối với đời sống của nhân dân. Ðó là những việc cần phải
làm ngay: "1.Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có
chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều
đó. Ði đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho
tự do độc lập". Người căn dặn: "chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết
sức chăm nom, đến đời sống của nhân dân". Nếu dân đói, dân rét, dân dốt là
Ðảng có lỗi.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, trong các giai cấp bóc lột ở Việt
Nam chỉ có một số ít cam tâm làm tay sai cho thực dân đế quốc, chỉ có một số
ít là phản lại dân tộc và đất nước, còn đại bộ phận vẫn thấy cái nhục mất nước
của con người Việt Nam. Truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc đã hun đúc
nên tinh thần văn hóa tiềm ẩn bên trong mọi người dân Việt Nam, bất kể giai
cấp nào. Cho nên nếu làm thức tỉnh tinh thần dân tộc ở họ, thì họ vẫn đứng về
phía dân tộc đối mặt với bọn đế quốc thực dân. Từ đó, Người đã sớm đưa ra
chủ trương phân hóa giai cấp địa chủ thành thị, trung, tiểu địa chủ; phân hóa

giai cấp tư sản thành tư sản dân tộc, tư sản mại bản, không phân biệt giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo...
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thắng lợi của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi ấy đã chứng minh Hồ Chí Minh đã giải
quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc - giai cấp một cách sáng tạo, không chỉ
trong đường lối cách mạng, mà còn về mặt con người, và con người Việt Nam
với những điều kiện lịch sử cụ thể của nó.


Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trị của con
người, Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người là sự nghiệp của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc, với tinh thần "phải đem sức ta mà giải
phóng cho ta". Hồ Chí Minh nhìn thấy sức mạnh của giai cấp vô sản, của
nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam khơng chỉ với những gì đã được bộc
lộ, mà còn ở những điều tiềm ẩn bên trong những lực lượng to lớn ấy. Người
tin tưởng sâu sắc rằng khi giai cấp vô sản, nhân dân lao động các dân tộc
thuộc địa trên thế giới thức tỉnh, tổ chức và đấu tranh theo đường lối đúng đắn
thì sức mạnh sẽ trở thành vơ địch và nhất định sẽ giành được thắng lợi trong
cuộc cách mạng độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết, một dân tộc dù nhỏ bé sẽ không bị
một dân tộc lớn gấp hàng chục lần thơn tính và đồng hóa nếu dân tộc ấy phát
huy được sức mạnh con người với những phẩm chất tinh thần, tư tưởng và
văn hóa. Ðối với dân tộc Việt Nam, con người làm ra lịch sử, nhân dân là chủ
thể của lịch sử, là chân lý cụ thể, sinh động đã được Hồ Chí Minh củng cố và
nâng cao thành triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh này đã được phát huy và
đã được chứng minh hùng hồn trong lịch sử hiện đại của dân tộc. Phải đương
đầu với hai đế quốc to, trong khi lực lượng ta yếu về nhiều mặt, nhưng Hồ
Chí Minh vững tin ở nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sẽ biến ít thành
nhiều, nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh, tạo được cả thế và lực để giành thắng

lợi.
Lịng tin của Hồ Chí Minh vào nhân dân là do thấm nhuần sâu sắc
truyền thống lịch sử dân tộc về phẩm chất của con người Việt Nam: "Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Ðó là một truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước".


CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG PHƯƠNG
PHÁP XÂY DỰNG CON NGƯỜI VÀ PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI VIỆT NAM,
2.1. Vai trò của giáo dục trong phương pháp xây dựng con người
Việt Nam có những thuận lợi khi hội nhập quốc tế một cách sâu rộng,
đó là có nền chính trị ổn định, con người Việt Nam đang khát khao cống hiến
phát triển đất nước, nhưng cũng đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức,
như ở một số nơi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên
ngày càng cạn kiệt, an sinh xã hội và sức khỏe cộng đồng chưa được cải thiện
như mong muốn, khoảng cách và sự phân hóa giàu nghèo gia tăng, tệ nạn xã
hội, tội phạm xã hội phức tạp hơn.
Bối cảnh thế giới có những bất ổn và sự cạnh tranh giữa các quốc gia,
dân tộc để phát triển ngày càng trở nên gay gắt. Trong khi đó, đạo đức xã hội
ở nhiều nơi đang có xu hướng suy giảm, thể hiện qua hành vi ứng xử thường
ngày. Điều này càng cho thấy để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững
trên con đường xã hội chủ nghĩa thì khơng có gì hơn là xây dựng đất nước
dựa trên phát triển con người. Những con người có đủ phẩm chất và năng lực,
phải là những người bằng bàn tay khối óc của chính mình xây dựng đất nước,
đưa dân tộc ta phát triển trong xu thế hội nhập tồn cầu.
Chính vì vậy, giáo dục khơng chỉ là quốc sách mà cịn là sinh mệnh
chính trị của dân tộc. Chúng ta có thể nhìn thấy tương lai của đất nước qua

việc đánh giá nền giáo dục. Do đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
đã cụ thể hóa quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” với ngân sách mỗi
năm chi cho giáo dục khoảng 20% chưa tính đến những nguồn kinh phí xã hội
chi trả cho các dịch vụ giáo dục. Đảng và Nhà nước cũng đã triển khai nhiều
nghiên cứu để xây dựng bộ tiêu chí con người Việt Nam trong giai đoạn mới
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng:


- Xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân
- thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”,
coi đó là “một mục tiêu của chiến lược phát triển”, “phát triển về nhân cách,
đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội,
nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật”(5).
Bên cạnh những bước phát triển quan trọng, giáo dục ở nước ta vẫn còn
tồn tại nhiều hạn chế, chưa phát triển tồn diện năng lực của người học. Có
thể nói, dẫu có nhiều cố gắng, dường như giáo dục vẫn đang chú trọng mục
tiêu phát triển “trí tuệ” là chính và ít chú trọng đến khả năng, sở thích hay
năng khiếu của học sinh. Nhiều cơ sở giáo dục coi trọng thành tích thi cử nên
chỉ tập trung vào một số môn thi, xem nhẹ công tác giáo dục đạo đức, sức
khỏe, thẩm mỹ - những yếu tố then chốt để hình thành nhân cách cho học
sinh.
Một trong những nguyên nhân chính là do chúng ta tập trung dạy về
kiến thức chuyên môn, chú trọng các môn học “thời thượng”, các môn học
khoa học tự nhiên,... mà chưa coi trọng đúng mức các môn học về xã hội con người, như giáo dục cơng dân, đạo đức... Vì vậy mà ý thức, kỹ năng lao
động của học sinh Việt Nam nói chung còn chưa tốt, nhiều em học rất giỏi ở
trường nhưng không biết tự làm những công việc nhà (như nấu ăn, giặt quần
áo, dọn dẹp nhà cửa...). Ngành giáo dục chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa việc dạy chữ và dạy
người. Nói một cách khác, chúng ta chưa thực sự có một nền giáo dục con
người tồn diện theo đúng nghĩa.

2.2. Con người Việt Nam và phương hướng xây dựng con người Việt
Nam
2.2.1. Vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam hiện nay
Cùng với thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt
được trong hơn 30 năm qua, chúng ta cũng đang và sẽ phải đương đầu, phải


giải quyết những khó khăn, thách thức mới do tác động của mặt trái kinh tế
thị trường và quá trình hội nhập, nhất là những tác động về mặt xã hội, tư
tưởng, tâm lý.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhất là cơng nghệ thơng tin và xu
hướng tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc, tạo ra nhiều cơ hội và cả những
thách thức gay gắt đối với quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”. Bên cạnh việc tiếp thu
những thành tựu khoa học và tinh hoa văn hóa nhân loại thì khơng ít những
yếu tố tiêu cực đã du nhập và đang làm xói mịn phẩm chất cao đẹp của con
người Việt Nam mà đảng đã dày công vun đắp. Trong một bộ phận thế hệ
thanh niên ngày nay, đang xuất hiện những hiện tượng thối hóa về tinh thần,
lối sống và thể lực rất đáng lo ngại.
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng phát triển của các nước trên
thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi lên mục
tiêu “ Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh” cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa khơng chỉ là cơng cuộc xây dựng kinh tế mà chính là q trình
biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới
về chất. Sự thành cơng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phụ thuộc
nhiều vào nguồn lực con người đủ về số lượng mạnh về chất lượng.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định mục tiêu chung của cách mạng Việt Nam là “độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân

chủ, văn minh”, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là : “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Từ những yêu cầu, mục tiêu chung và nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt
Nam trên đây, đòi hỏi người Việt Nam phải phát huy được những ưu điểm và


hạn chế trong truyền thống để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay.
2.2.2. Phương hướng xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời đại
mới
Một vài giải pháp để góp phần phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế
các mặt tiêu cực, để kích thích, mọi tiềm năng ở từng con người phát triển, tạo
ra những con người say sưa, năng đơng, tích cực, lao đơng, học tập, công tác,
..., đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế tốt, làm ra nhiều sản phẩm hàng hóa,
đưa mức thu nhập, mức sống của con người ngày càng cao cùng với lối sống
văn minh, có đạo đức, nhân phẩm ngày càng tốt đẹp.
Thứ nhất: Nâng cao mặt bằng dân trí, phát triển, bồi dưỡng và trọng
dụng nhân tài: phát triển giáo dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho người
lao động. Thơng qua các chính sách các quy định của Nhà nước để điều chỉnh
cơ cấu đào tạo một cách hợp lý nhằm đạt tới sự can đối giữa đào tạo va sử
dụng các trình độ, các ngành nghề khác nhau, đặc biệt đảm bảo được nhân lực
cho các ngành mũi nhọn… Bảo đảm tri thức cần thiết để mọi người gia nhập
cuộc sống xã hội và kinh tế theo kịp tiến trình đổi mới và phát triển của đất
nước. Xây dựng và phát triển lực lượng khoa học và kỹ thuật một cách cân
đối, đồng bộ, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển
chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên trong từng giai
đoạn là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp tục đào tạo
tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu khoa học, cán bộ đầu ngành và
liên ngành ( cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiện và khoa học kỹ thuật); đặc

biệt chú trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết kế, kỹ sư cơng nghệ có
trình độ cũng như các cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý khoa học
và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ nông dân lao động tiên tiến


và có kỹ thuật; có chính sách để sử dụng tốt hơn, chăm lo đầy đủ hơn đến đời
sống vật chất và tinh thần của đội ngũ này.
Thứ hai: nhanh chóng triển khai chương trình quốc gia giải quyết việc
làm, tạo mọi điều kiện cho người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Tổ chức
thực hiện và kiểm tra việc thi hành Luật Lao động, tiếp tục cải tiến chế độ tiền
lương, làm cho tiền lương thực sự gắn liền với năng suất, chất lượng, hiệu
quả, trở thành thu nhập chính và là động lực đối với người lao đơng. Để từ đó
gúp họ nâng cao mức sống, có điều kiện thỏa mãn được những nhu cầu cơ
bản (ăn, mặc, ở, … và các dịch vụ cần thiết). Đó chính là cơ sở vật chất để
phát triển sức mạnh thể chất, tinh thần, năng lực lao động và công tác của
người lao động. C.Mác đã khẳng định rằng:”người ta phải có khả năng sống
đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử””
Thứ ba: Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn
nghệ, thơng tin đại chúng và các phương tiện vui chơi giải trí đáp ứng nhu cầu
đời sống văn hóa - tinh thần của người lao động. Tăng cường các biện pháp
và phối hợp lực lượng của toàn xã hội, xây dựng mội trường văn hóa lành
mạnh, đấu tranh bền bỉ và mạnh mẽ nhằm ngăn chặn, loại trừ các văn hóa
phẩm độc hại và các tệ nạn xã hội. Làm sao nuôi dưỡng được ở mọi người,
nhất là thế hệ trẻ, ý chí cách mạng, tình cảm và hành động cách mạng. Đây
chính là nội dung cốt yếu trong nhân cách văn hóa của con người Việt Nam,
các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đi vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thứ tư: Thực hiện tốt chiến lược sức khỏe cho mọi người, từng bước
nâng cao thể trạng và tầm vóc, trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ, trẻ em.

Phát triển các dịch vụ khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu của hệ
thống y tế nhà nước, y tế dân lập. Tăng chi ngân sách và huy động nguồn vốn
khác để đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở y tế. Tạo bước tiến mới của
phong trào thể dục, thể thao… Đó là sự thể hiện một cách xử lý đúng đắn mối


quan hệ giữa tinh thần và thể xác; là điều kiện quan trọng để con người phát
triển bình thường, góp phần bảo đảm năng suất lao động; là cơ sở để cung cấp
sức lao động dồi dào cho xã hội.
Thứ năm: Tăng tính thích nghi, năng động, có lợi cho sản xuất cơng
nghiệp trên cơ sở có đào tạo nghề và nâng cao tay nghề. Hạn chế tâm lý quá
lo cho cuộc sống trước mắt, có ý chí vươn lên làm ăn lớn. Tăng cường ý thức
pháp luật kỷ cương. Chịu khó học hỏi người khác để vận dụng sáng tạo vào
hịan cảnh của mình, nhưng cần đề phịng tâm lý tự ti, lai căng, sùng ngoại.
Có nếp sống và làm việc văn minh, hợp lí, làm việc có hiệu quả, ích nước, lợi
nhà… tất cả điều đó làm cho tinh thần sảng khối, khống đạt, trí não mở
mang, thể lực và tâm lực cùng phát triển, sức mạnh tiềm tàng được phát huy
tối ưu, tập trung vào năng lực sãn xuất và công tác, nâng cao năng suất, tạo
thêm cơ hội tham gia đóng góp, gia nhập vào cộng đồng, xã hội.
2.3. Một số giải pháp phát triển bản thân sinh viên dựa trên lý luận về
con người và bản chất con người
2.3.1. Phát triển lý tưởng cộng sản cho sinh viên
Lý tưởng giữ vai trò quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách sinh
viên, vì lý tưởng là mục đích cao nhất, đẹp nhất, tạo ra nghị lực giúp con
người vượt qua mọi thách thức đạt đến mục tiêu đề ra. Mục tiêu cao nhất mà
lý tưởng cộng sản hướng tới là xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp: Xã hội xã
hội chủ nghĩa và sau này là xã hội cộng sản chủ nghĩa. ở đó, con người được
tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Sinh viên khi tiếp nhận những tri thức khoa
học Mác - Lênin sẽ tìm kiếm được sức mạnh từ chính bản thân tri thức ấy để
tự mình vươn lên, bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, tin tưởng vào con đường đi

lên chủ nghĩa xã hội. Có niềm tin, có hồi bão, sinh viên tất có ý chí thực hiện
lý tưởng.


2.3.2. Phát triển thế giới quan khoa học trong nhân cách sinh viên Việt Nam
Thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự động, tức cứ trang bị
tri thức là có thế giới quan; trái lại, đó cịn phải là quá trình chuyển tri thức
thành niềm tin khoa học trong mỗi sinh viên. Cơ sở để hình thành và phát
triển thế giới quan là những nhận thức về tự nhiên và xã hội, là kết quả của
quá trình giáo dục và những kinh nghiệm được tích lũy trong thực tiễn của
sinh viên. Đó chính là q trình hình thành và phát triển các quan điểm, quan
niệm, niềm tin về vai trò và khả năng của con người trong q trình nhận thức
và cải tạo thế giới. Nói cách khác, tri thức, niềm tin, lý tưởng và tình cảm là
những yếu tố cơ bản nhất cấu thành nên thế giới quan.
Bởi lẽ, triết học Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, nó cung cấp cho con người một cách nhìn khoa học
đối với hiện thực khách quan và khẳng định vai trị, vị trí của con người trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Từ đó, giúp họ có thái độ đúng đắn,
khoa học đối với hiện thực, có phương hướng chính trị vững vàng, có khả
năng nhận biết, phân tích và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh trong thực
tiễn xã hội trên tinh thần thế giới quan Mác - Lênin.
2.3.3. Xây dựng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên
Xây dựng trong họ những quan niệm đúng đắn về cuộc đời, về ý nghĩa
và mục đích của cuộc sống. Cụ thể là, triết học Mác - Lênin giúp sinh viên
hiểu được mục đích cao nhất của con người là xây dựng một xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh; trong đó, mọi người đều có một cuộc sống đầy đủ
về vật chất và tinh thần. Đó là một xã hội mà "sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người".
Giáo dục triết học Mác - Lênin sẽ góp phần từng bước xây dựng và bồi
dưỡng nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho sinh viên thông qua việc trang

bị cho họ những kiến thức cơ bản về lý luận cách mạng xã hội, về bản chất và


chức năng của nhà nước, về con người và các quan hệ xã hội của con người,
về giai cấp, dân tộc, về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội...


KẾT LUẬN
Dù ở đâu và bất cứ thời điểm nào, quan điểm của Mác – Lê nin cũng
như tư tưởng Hồ Chí Minh đều là kim chỉ nam cho hành động của nước ta.
Con người, hơn hết, chính là chủ thể lịch sử, là yếu tố tạo ra lịch sử. Con
người luôn là yếu tố quan trọng nhất để xây dựng một xã hội, một Nhà nước.
Chính vì vậy, việc xây dựng con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng là
điều quan trọng nhất cần phải quan tâm và thực hiện.
Để việc xây dựng con người được thành công, công tác đầu tiên cần
phải chú trọng là công tác giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo từ những
công dân nhỏ tuổi của đất nước, của những thế hệ sẽ làm chủ đất nước trong
tương lai “ Ươm mầm từ hôm nay, để gặt quả mai này”. Thế hệ trẻ cần nắm
vững những quan điểm, quan niệm về con người về vai trò, trách nhiệm của
mỗi cá nhân trong tập thể, trong cộng đồng, trong xã hội, trong tổng thể lồi
người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản chủ nghĩa với chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc
Việt Nam, với đạo lí làm người của người Việt Nam trong vấn đề xây dựng,
phát triển con người. Tư tưởng ấy của Người là cẩm nang và có ý nghĩa to lớn
trong q trình xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước. Con người Việt Nam là trung tâm trong chiến lược phát triển
tồn diện, là động lực của cơng cuộc xây dựng xã hội mới với mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay, tư tưởng đó của Người tiếp tục được Đảng ta quán triệt, vận dụng,

phát triển và đặc biệt có ý nghĩa thiết thực trong việc tiếp tục đẩy mạnh “Học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2016), Giáo trình Triết học, (Dùng cho NCS và
Cao học khơng chun ngành Triết học) – NXB Lý luận chính trị Hà Nội.
2. Học viện chính trị quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Phân viện báo chí và
Tuyên truyền, Khoa chính trị học (2016), Bài Giảng Triết học Mác - Lênin –
NXB Chính trị quốc gia.
3. Một số nhận thức mới về con đường XHCN của Việt Nam – Tg: PTS. Đào
Duy Quát- Cao Thái- NXB Tư tưởng Văn hố 2012
4. Mơi trường kinh doanh - Đạo đức kinh doanh – NXB-Hà Nội 2017
5. Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI – NXB Chính trị quốc
gia 2010.



×