HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TỔ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
-------------------------
TIỂU LUẬN
HP1 ĐƯỜNG LỐI QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC
Sinh viên: NGUYỄN VĂN A
Mã số sinh viên: ……………....
Lớp 1: TRUYỀN HÌNH K40
Hà nội, tháng 09 năm 2021
MỤC LỤ
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM........................................................2
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh, quân đội
và bảo vệ tổ quốc.....................................................................................2
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh...............2
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quân đội...................3
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ tổ quốc.........4
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ
quốc...........................................................................................................5
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh........................................5
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội............................................6
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc.................................8
CHƯƠNG II:.............................................................................................11
2.1. Lịch sử cách mạng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam..............................11
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc hiện nay.........................................................................................13
2.2.1. Đánh giá chung..........................................................................13
2.2.2. Một số thuận lợi........................................................................14
2.2.3. Một số thách thức......................................................................15
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CHIẾN
LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC, CHIẾN LƯỢC QUỐC PHỊNG, CHIẾN
LƯỢC QN SỰ TRONG TÌNH HÌNH MỚI......................................16
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, tồn dân và
tồn qn và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
.................................................................................................................16
3.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước trong
thực hiện các chiến lược........................................................................17
3.3. Phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, trực tiếp là
Quân đội nhân dân trong tổ chức thực hiện các chiến lược..............18
3.4. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về quân sự, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc..........................................................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................22
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nắm bắt kịp
thời những thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đồn kết, chung
sức, đồng lòng nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá
toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó có cả lĩnh vực quốc phịng, an ninh.
Chúng ta “Tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với
quốc phòng, an ninh và lực lượng vũ trang”.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới” và phương hướng, nhiệm vụ quốc phịng, an ninh, bảo vệ
Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng xác định. Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù
địch; nỗ lực ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa ngun, đa đảng, “phi chính trị
hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch; ứng phó có hiệu quả với các
tình huống, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia tăng tội
phạm..., góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước. Tổ chức triển khai có
hiệu quả các giải pháp thực hiện chủ trương tăng cường tiềm lực quốc phòng,
an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nắm
bắt được điều đó, tác giả đã chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc
” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.
1
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh, quân đội và
bảo vệ tổ quốc
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh
Theo C. Mác, chiến tranh với tư cách là một hiện tượng chính trị - xã hội
xuất hiện khi mà lực lượng sản xuất phát triển đến mức có khả năng tạo ra sản
phẩm thặng dư. Cùng với sự phát triển của năng suất lao động, đã diễn ra sự
phân công lao động xã hội. Sản xuất phát triển, làm cho sức lao động của con
người có khả năng sản xuất ra số lượng sản phẩm nhiều hơn số lượng sản
phẩm cần thiết cho sự duy trì sức lao động. Khả năng chiếm đoạt thành quả
lao động của người khác xuất hiện và cũng xuất hiện sự bất bình đẳng về kinh
tế, tạo ra khả năng người bóc lột người. Do kết quả của việc phân chia xã hội
thành giai cấp mà xuất hiện nhà nước, quân đội, cảnh sát, v.v. Cùng với sự
xuất hiện chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp và nhà nước, đã
xuất hiện những cuộc chiến tranh nhằm chiếm đoạt lãnh thổ, tài sản và nơ
dịch các dân tộc nhỏ yếu. Từ đó, C. Mác cho rằng, chiến tranh là sự kế tục
chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định bằng thủ đoạn bạo lực.
Ông đã chỉ ra chiến tranh và chính trị có liên quan với nhau, cơ sở của mọi
nền chính trị và mọi cuộc chiến tranh nằm ngay trong bản thân tính chất của
chế độ chính trị - xã hội, trong hệ thống các quan hệ sản xuất và quan hệ kinh
tế của con người. Đồng thời nhấn mạnh: chính trị bao giờ cũng biểu thị những
quyền lợi của một giai cấp nhất định, khơng có và khơng thể có chính trị siêu
giai cấp, do dó sẽ khơng có và khơng thể có các cuộc chiến tranh khơng mang
mục đích chính trị và giai cấp. Tổng kết cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 1871), C. Mác kết luận: chính trị sau khi dẫn đến chiến tranh thì nó vẫn tiếp
tục cả trong thời kỳ chiến tranh.
2
C. Mác đã bác bỏ quan điểm của các nhà tư tưởng tư sản, coi chiến
tranh chỉ là sự kế tục của chính trị đối ngoại; chứng minh giữa chính trị đối
nội và chính trị đối ngoại của một nhà nước có mối liên hệ hữu cơ khơng thể
tách rời, đó chỉ là hai mặt của cùng một đường lối chính trị. Chính trị đối nội
biểu hiện bản chất giai cấp của nhà nước và các quyền lợi của giai cấp thống
trị. Vì vậy, tính chất của chính trị đối ngoại, thơng thường do chính trị đối nội
quyết định. Chính trị đối nội của một nhà nước như thế nào thì về cơ bản,
chính trị đối ngoại của nó cũng sẽ như thế ấy.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quân đội
Bản chất giai cấp của quân đội
Chủ nghĩa Mác-lenin khẳng định: bản chất giai cấp của quân đội phụ
thuộc vào bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra quân đội đó.bản chất
giai cấp của quân đội là tương đối ổn định nhưng không phải là bất biến.
Sự vận động và phát triển bản chất giai cấp của quân đội bị chi phối bởi
nhiều yếu tố như: giai cấp,nhà nước,các lực lượng,tổ chức chính trị xã hội và
việc giải quyết các mối quan hệ trong quân đội.
Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất giai cấp của quân đội
có thể được tăng cường hoặc bị phai nhạt,thậm chí bị biến chất và tuột khỏi
tay nhà nước,giai cấp đã tổ chức ra,ni dưỡng qn đội đó.
Sức mạnh chiến đấu của qn đội
Bảo vệ và phát triển tư tưởng của Các Mác – Ph.Angghen,VI.Lenin chỉ
rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: quân
số,tổ chức,cơ cấu biên chế,yếu tố chính trị tinh thần và kỷ luật;số lượng,chất
lượng vũ khí trang bị kĩ thuật;trình độ huấn luyện và thể lực,trình độ khoa học
và nghệ thuật quân sự;bản lĩnh lãnh đạo,trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ
các cấp.
3
Giữa các yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy
nhiên,trong những điều kiện xác định,yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trị
quyết định đến sức mạnh chiến đấu của quân đội.
1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ tổ quốc
Từ thực tiễn tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và công
cuộc đấu tranh chống xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chính quyền
Xơ viết non trẻ - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới; đồng thời,
kế thừa tư tưởng vũ trang quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng xã hội chủ
nghĩa của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã tổng kết, bổ sung, phát triển,
xây dựng nên học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Ơng đã
khái qt và luận giải những vấn đề có tính ngun tắc đối với cơng cuộc bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
như: tính tất yếu khách quan, mục tiêu, nhiệm vụ, phương thức, lực lượng và
sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, sự quản lý của Nhà nước; xây dựng và củng cố khả năng quốc phòng; tổ
chức, xây dựng quân đội kiểu mới; vấn đề vũ trang cho toàn dân; mối quan hệ
giữa xây dựng với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, v.v.
Theo V.I. Lênin, để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, giai
cấp vơ sản tất yếu phải cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Người viết: “Khơng cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hịa xã hội chủ
nghĩa, thì chúng ta khơng thể tồn tại được. Giai cấp thống trị khơng bao giờ
nhường chính quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh
trên thực tế rằng họ khơng những có khả năng lật đổ bóc lột, mà cịn có khả
năng tự tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”1. Đồng thời, bảo
vệ Tổ quốc bao giờ cũng gắn với bảo vệ Đảng Cộng sản, Nhà nước và chế độ
xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Chúng ta tán thành “bảo vệ tổ quốc”, nhưng
cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới, là một cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tính cách là tổ
4
quốc, bảo vệ nước Cộng hịa Xơ viết, với tính cách là một đơn vị trong đạo
quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ tổ quốc
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh: chiến tranh
xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác
định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến
tranh phi nghĩa.
Trên cơ sở lâp trường duy vât biên chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh
giá đúng đắn bản chất, qui luât của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến
đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp
tiến hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh
của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo
vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước.
Xác định tính chất xã hơi của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị –
xã hôi của chiến tranh xâm lươc thuôc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa
đế quốc, chỉ ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tơc. Hồ
Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh: chiến tranh xâm lược
là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái
độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi
nghĩa.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực
cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách
mạng Việt Nam. Người khẳng định: “chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là
một hành đọng bạo lực, độc lập, tự do khơng thể cầu xin mà có được phải
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”.
5
Hồ Chí Minh khắng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tơc của
nhân dân ta là chiến tranh nhân dân đăt dưới sư lãnh đao của Đảng. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh ln coi con người là nhân
tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân,
coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”.
Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh
toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức
mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng
cốt. Kháng chiến tồn dân phải đi đơi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hố…
Sự khái qt trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt
Nam trong thời đại mới và là một sự phát triển cao tư tưởng vũ trang toàn dân
của chủ nghĩa Mác – lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận
mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội
Khẳng định sự ra đời của quân đội là 1 tất yếu,là vấn đề có tính quy luật
trong đấu tranh giai cấp,đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
Theo chỉ thị của chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại một khu
rừng giữa 2 tổng Hoàng hoa Thám và Trần hưng Đạo thuộc châu Nguyên
Bình-tỉnh Cao Bằng.đồng chí Võ Nguyên Giáp được Đảng và lãnh tụ Hồ Chí
Minh ủy nhiệm tổ chức lãnh đạo và tuyên bố thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân-tiền thân của quân đội ta hiện nay.
Để thực hiện được mục tiêu cách mạng chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng CSVN
đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc đấu tranh
giai cấp,dân tộc mà tiền thân là những đội xích vệ đỏ,du kích vũ trang,sau đó
phát triển thành quân đội nhân dân.
6
Quân đội nhân dân Việt Nam(QĐNDVN) là lực lượng vũ trang cách
mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động,đấu tranh với kẻ thù
giai cấp và kẻ thù dân tộc.
Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp cơng nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất của giai cấp công
nhân cho quân đội, coi đó là cơ sở, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh
toàn diện.
Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển ,quân đội ta luôn
thực sự là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp cơng
nhân,đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Bản chất giai cấp của quân đội ta được đúc kết qua lời khen của Bác:”
quân đội ta trung với Đảng,hiếu với dân,sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập
tự do của tổ quốc,vì chủ nghĩa xã hội.nhiệm vụ nào cũng hồn thành,khó khăn
nào cũng vượt qua,kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Quân đội ta từ nhân dân mà ra,vì nhân dân mà chiến đấu.
Người lập luận,bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân
đội ta là một thể thống nhất,xem đó như là biểu hiện tính quy luật của quá
trình hình thành và phát triển quân đội kiểu mới ,quân đội của giai cấp vô sản
Đảng lãnh đạo tuyệt đối,trực tiếp về mọi mặt,đối với quân đội là một
nguyên tắc xd quân đội kiểu mới-quân đội của giai cấp vô sản.
+ ĐCSVN,Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện quân đội là
nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp cơng nhân
của quân đội ta.
+Trong suốt quá trình chiến đấu và trưởng thành của qn đội, Hồ Chí
Minh ln dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội.điều này được thể hiện
rõ nét trong cơ chế lãnh đạo:tuyệt đối,trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội trong thực hiện chế độ cơng tác Đảng,cơng tác chính trị.
7
Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội
Mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lý
tưởng cách mạng của Đảng,của giai cấp cơng nhân và của tồn dân tộc:gắn
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp,độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội.
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi bảo vệ tổ quốc XHCN
Trước tình hình nhiệm vụ mới của cách mạng và của quân đội,quân đội
còn phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước,sản xuất ra của cải vật
chất và tiến hành công tác huấn luyện.
Quân đội ta có 3 chức năng:là quân đội chiến đấu,đội quân công tác và
quân đội sản xuất. Với tư cách là đội quân chiến đấu,quân đội luôn sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược,bảo vệ vững chắc tổ quốc
VNXHCN,góp phần bảo vệ trật tự an tồn XH,tham gia vào cuộc tiến cơng
địch trên mặt trận lý luận,chính trị,tư tưởng văn hóa…
Là đội qn sản xuất,qn đội tích cực tăng gia sản xuất cải thiện đời
sống,xd kinh tế,góp phần xd,phát triển đất nước. Trong điều kiện hiện
nay,quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xd kinh tế quốc
phịng ở các địa bàn chiến lược,nhất là ở biên giới,biển đảo,vùng sâu,vùng xa
còn nhiều khó khăn gian khó và ở những địa bàn có những tình huống phức
tạp nảy sinh.
Là đội qn cơng tác,qn đội tham gia vận động quần chúng nhân dân
xd cơ sở chính trị xã hội vững mạnh,góp phần tăng cường sự đoàn kết giữa
Đảng,quân đội với nhân dân;giúp dân chống thiên tai,giải quyết khó khăn
trong sản xuất và đời sống,tuyên truyền,vận động nhân dân hiểu rõ và chấp
hành đúng đường lối,quan điểm,chính sách của Đảng,pháp luật của nhà nước.
8
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc
Bảo vệ Tổ quốc Viêt Nam XHCN là môt tất yếu khách quan.
Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN được thể hiện rõ qua lời dạy của Người: “Các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữu lấy nước”.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Hồ Chí Minh kêu gọi
tồn dân đứng lên đánh quân Pháp với tinh thần: “Chúng ta thà hi sinh tất cả
chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.. .Giờ cứu nước đã đến, ta
phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để gìn gĩư đất nước. Dù phải gian lao
kháng chiến, nhưng với một long kiên qutết hi sinh, thắng lợi nhất định về
dân tộc ta”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, “Hễ cịn mộy tên xâm lược trên đất
nước ta, thì ta cịn phải chiến đấu qt sạch nó đi”. Trước khi đi xa trong bản
di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể cịn
kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng
ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn”.
Mục tiêu bảo vê Tổ quốc là đôc lâp dân tôc và chủ nghĩa xã hôi, là nghĩa
vụ và trách nhiêm của mọi công dân
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa
vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trong bản tuyên ngơn độc lập, Người khẳng
định: “Tồn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cảtinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp trở
lại xâm lượ nước ta, Người kêu gọi: “Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc”.
9
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Người kêu gọi nhân dân
cả nước quyết tâm chiến đấu đên thăng lợi hồn tồn để giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ
nghĩa.
Sức mạnh bảo vê Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tôc, cả nước,
kết hơp với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm; Phát huy sức mạnh
tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của
tồn dân tộc, của các cấp, các nghành từ trung ương đến cơ sở, là sức mạnh
của nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá- xã hội, sức mạnh truyền
thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
So sánh sức mạnh giữa ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ, Người phân tích: “Chúng ta có chính nghĩa, cáo sức mạnh doàn kết
toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng
tình ủng hộ rất lớn của các nước xã hội chủ nghĩa an hem và nhân dân tiến bộ
trên thế giới, chúng ta nhất định thắng”. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phịng tồn
dân, an ninh nhân dân, xây dựng qn đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ
chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: “Chúng ta phải xây dựng quân đội
ngày càng hung mạnh, sẵn sang chiến đấu để giữ gìn hồ bình, bảo vệ đất
nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Đảng công sản Viêt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã
hôi Chủ nghĩa
Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và chính phủ phải lãnh đạo tồn dân, ra sức
củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời đấu
tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc klập và dân chủ bằng phương
10
pháp hồ bình, góp phần bảo vệ cơng cuộc hồ bình ở Á Đơng và trên thế
giới”
11
CHƯƠNG II:
2.1. Lịch sử cách mạng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (năm 1945), chính quyền
cách mạng mới được thành lập đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc".
Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đương đầu với nhiều kẻ thù, nhiều đội
quân xâm lược có tiềm lực mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Tuy mỗi kẻ thù toan
tính một kế hoạch riêng nhưng chúng đều thống nhất một mục tiêu là tiêu diệt
quân đội và chính quyền cách mạng Việt Nam.
Tồn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là tồn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt giai cấp, dân tộc, tơn giáo, đảng phái, giới tính... Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nên phải dựa
chắc vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh. Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cuộc kháng chiến
của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên tồn dân và vũ trang tồn
dân. Vì thế, "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc"; thực hiện đánh địch bằng mọi thứ vũ khí,
phương tiện với tinh thần "Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,
khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc". Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Bác Hồ kêu gọi: "31 triệu đồng bào ta ở cả hai miền...
phải là 31 triệu chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ".
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn đánh thắng những kẻ địch hung
bạo, mạnh hơn ta gấp bội về kinh tế, quân sự, khoa học và cơng nghệ, chúng
ta phải tiến hành chiến tranh tồn diện, trong đó mỗi người dân Việt Nam, bất
kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều phải trở thành chiến sĩ đấu
tranh trên mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; kết hợp
chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao,
lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, là trực tiếp quyết định. Trong cuộc chiến
12
tranh tồn diện, các mặt trận chính trị, qn sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa...
khơng bao giờ tách rời nhau mà luôn tác động, hỗ trợ lẫn nhau.
Nắm vững quy luật của chiến tranh cách mạng và kinh nghiệm chống
giặc ngoại xâm của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Kháng chiến
phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu
dài". Đánh lâu dài là do tương quan so sánh lực lượng ban đầu giữa ta và địch,
địch dựa vào thế mạnh về quân sự, kinh tế để thực hiện đánh nhanh, thắng
nhanh; ta phải trường kỳ kháng chiến để tránh thế mạnh ban đầu của địch và
có thời gian chuyển hóa lực lượng từ yếu thành mạnh để thắng địch.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nói chung và chỉ đạo chiến tranh
nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nắm chắc tình hình để phân tích cục
diện trong nước và trên thế giới, đánh giá đúng so sánh lực lượng giữa ta và
địch trong từng giai đoạn của cách mạng và chiến tranh, từ đó đề ra chiến
lược, sách lược đúng đắn để chỉ đạo cuộc kháng chiến trường kỳ, tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi cuối cùng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta chủ trương trường kỳ kháng chiến, vừa chiến đấu vừa phát triển
lực lượng, tích lũy kinh nghiệm để đủ sức đánh bại chiến lược đánh nhanh,
thắng nhanh của địch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta
một lần nữa lại đề ra chiến lược đánh lâu dài với lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn
nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá,
song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì quý hơn độc lập, tự
do".
Trong các cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh ln chủ trương xây dựng
lực lượng vũ trang ba thứ qn làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc, đó là:
Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân qn du kích. Đây là hình thức tổ
13
chức sáng tạo, thích hợp với điều kiện, hồn cảnh của Việt Nam, phù hợp với
nghệ thuật quân sự và cách đánh của CTND Việt Nam, nhằm phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc cho chiến tranh.
2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc
hiện nay
2.2.1. Đánh giá chung
Đối với nước ta, những thắng lợi sau gần 35 năm tiến hành công cuộc
đổi mới tiếp tục tạo đà cho kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh
được củng cố, tăng cường. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành sáng suốt, quyết
liệt, hiệu quả của Đảng, Nhà nước, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh, quốc phòng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí,
chủ động ứng phó, phịng, chống đại dịch Covid-19 vừa qua càng khẳng định
bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng thêm niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước, Quân đội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; vị
thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, các
thế lực thù địch ln tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hịa bình”, tăng
cường sử dụng các biện pháp “tấn cơng mềm”, tập trung làm chuyển biến về
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ; kích động, chia rẽ, địi “phi chính trị hóa Qn
đội”; hạ thấp, phủ nhận vai trị, uy tín lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ mục
tiêu con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời điểm hiện nay, chúng ta
đang tổ chức đại hội đảng các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch tập trung chống phá quyết liệt hơn,
với nhiều hình thức mới, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.
Những diễn biến của thế giới, khu vực và trong nước đã và đang đem
lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu
cầu mới đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
14
2.2.2. Một số thuận lợi
Đất nước ta có thêm những thuận lợi, thời cơ trong giữ vững hịa bình,
ổn định, hợp tác, phát triển, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây chính là thời
điểm tốt cho chúng ta phát huy lợi thế, tính ưu việt của chế độ, sự thơng minh,
tính năng động, sáng tạo, khát vọng vươn lên của con người, dân tộc Việt
Nam để đi tắt, đón đầu, huy động cao độ nguồn lực, nâng cao sức mạnh mềm,
phát huy sức mạnh tổng hợp vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta có điều kiện để lựa chọn những sách lược hợp lý, thực hiện “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, không bị chi phối trong quan hệ quốc tế, giảm sức ép của các
nước lớn; đẩy mạnh quan hệ hợp tác trong các vấn đề địa chiến lược để kiềm
chế, đẩy lùi âm mưu, hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ, sự chống phá
của các thế lực thù địch nhằm can thiệp công việc nội bộ, thực hiện “diễn biến
hịa bình” phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta cũng có những điều kiện thuận lợi hơn để tiếp cận nguồn vốn
và công nghệ đa dạng, tranh thủ thị trường, tham gia vào mạng lưới sản xuất
và chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, tạo sức đột phá mới trong phát triển
kinh tế - xã hội gắn với tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phịng, an ninh.
Mặt khác, chúng ta cũng có thêm nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia ngày
càng tích cực, hiệu quả hơn vào việc giải quyết những vấn đề tồn cầu, như:
gìn giữ hịa bình, phịng, chống thiên tai, dịch bệnh, những vấn đề an ninh phi
truyền thống, qua đó, tạo niềm tin, thế và lực mới cho đất nước, tạo sự ủng
hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc. Sự gia tăng sức mạnh tổng hợp của đất nước sau gần 35 năm
đổi mới cũng như vai trò quan trọng của Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN
và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ
2020 - 2021 đã nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
15
2.2.3. Một số thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ
quốc của chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức,
nhất là trong giữ vững an ninh chính trị, xử lý bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, biển
đảo, bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa. Sự gia tăng chủ nghĩa đơn phương và quan hệ “bất thường”
của các nước lớn gây khó khăn trong xử lý mối quan hệ với từng nước, với
các đối tác. Việt Nam cũng như các nước vừa và nhỏ sẽ khó khăn hơn trong
việc thực hiện phương châm “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ quốc tế.
Cùng với việc tiếp tục phải phòng chống, chịu ảnh hưởng tiêu cực từ đại dịch
Covid-19, Việt Nam được dự báo là một trong số các nước sẽ chịu ảnh hưởng
nhiều nhất những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu tồn cầu, nước biển
dâng và nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống khác. Các áp lực về chuyển đổi
phương thức phát triển trong bối cảnh khó khăn, thiếu hụt về tài nguyên, năng
lượng,… rất có thể sẽ đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức, từ đó
dẫn đến nguy cơ mất ổn định. Các thế lực thù địch có thêm những phương
thức, thủ đoạn mới từ ứng dụng công nghệ thông tin, không gian mạng và
thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để chống phá.
Trước những diễn biến phức tạp hiện nay, hơn bao giờ hết, chúng ta
cần luôn đánh giá đúng tình hình, thấy rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, nguy
cơ, thách thức, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách quốc phịng, an ninh,
đối ngoại của Đảng, Nhà nước; mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa, vừa
hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu,
tránh bị lệ thuộc, cơ lập, tập trung xây dựng nền quốc phịng toàn dân và nền
an ninh nhân dân vững mạnh. Bảo đảm cho đất nước thích nghi, ổn định và
phát triển, tạo mơi trường “trong ấm, ngồi êm”, coi trọng giữ vững bên
trong, đây là yếu tố quyết định để giữ vững môi trường ổn định, là điều kiện
để đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và tác
16
động từ bên ngoài; đồng thời, xây dựng, củng cố và phát huy cao nhất sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự
nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN
CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ TỔ QUỐC, CHIẾN LƯỢC QUỐC
PHỊNG, CHIẾN LƯỢC QN SỰ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Ðảng, tồn dân và tồn
qn và cả hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trước hết, chúng ta phải thấy rằng, nhận thức đúng thì hành động sẽ
khoa học, hiệu quả; trách nhiệm tốt thì kết quả bảo vệ Tổ quốc sẽ cao; đồng
thời, tạo sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Ðảng,
toàn dân và toàn quân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Bác Hồ đã
dạy: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm
bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Các cấp, các ngành, các địa phương,
nhất là lực lượng vũ trang, trực tiếp là Quân đội cần làm tốt công tác tuyên
truyền, giáo dục làm cho cả hệ thống chính trị và tồn dân nhận thức sâu sắc
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của toàn
xã hội, của đất nước, trong đó lực lượng vũ trang làm nịng cốt. Nội dung
tuyên truyền, giáo dục phải toàn diện, song cần tập trung cụ thể hóa mục tiêu,
quan điểm, phương châm, phương thức, nguyên tắc, nhiệm vụ, giải pháp của
các chiến lược làm cơ sở để vận dụng phù hợp với đặc điểm, điều kiện, nhiệm
vụ của ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Trên cơ sở nhận thức đúng, làm cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ
trang và toàn dân nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải
bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Ðây chính là thực hiện kế
sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy”. Ðồng thời, nhận
17