Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài thu hoạch diễn án hành chính - Hồ sơ 15 - LS.HC-15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.49 KB, 10 trang )

BỘ TƯ PHÁP

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

---o0o---

BẢN THU HOẠCH
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG LS.HC – 12
KỸ NĂNG SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG

Họ và tên
Ngày sinh
Số báo
danh
Lớp Luật sư
Vai diễn:
Hà Nội, ngày 15 tháng 07 năm 2021
1


BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HỊ SƠ SỐ 15
I.

TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tư cách đương sự:
-

Người khởi kiện: Bùi Nguyễn Thị Tuyết. Sinh năm: 1982.

-



Người bị khởi kiện: Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.

2. Đối tượng khởi kiện:
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du
lịch số 23/QĐ-XPHC.
3. Tóm tắt vụ án:
Ngày 23/12/2013 vào lúc 21 giờ 10 phút, Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L đã đến kiểm tra cơ sở kinh doanh của bà Tuyết tại số 241 đường Lê Lai,
thành phố P, tỉnh G.L. Sau thời gian kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm
hành chính trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch số 11/BB-VPHC (tại bút lục
số 7-8) thì cơ sở kinh doanh của bà Tuyết với hành vi vi phạm như sau:
“Tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hồng Lan phịng số 11 có ơng Nguyễn Văn Thường
và bà Nguyễn Thị Lành khơng có Giấy kết hơn, đang quan hệ vợ chồng (quan hệ tình
dục), phịng số 9 có ơng Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy khơng có Giấy kết hơn
đang ở chung phịng xem ti vi. Vào thời điểm kiểm tra tại phòng số 11, chủ cơ sở
kinh doanh phịng trọ Hồng Lan khơng vào sổ bà Nguyễn Thị Lành”.
Trong biên bản Thanh tra Sở văn hóa, Thể thao và du lịch tỉnh G.L đã kết luận chủ cơ
sở kinh doanh nhà trọ Hoàng Lan thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hành vi vi
phạm như trên”.
Bà Nguyễn Thị Tuyết làm các bản tường trình gửi Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
xác định các hành vi vi phạm theo Biên bản vi phạm số 11/BB-VPHC vào các ngày
29/12/2013; 12/02/2014; 09/3/2014 (bút lục số 28-29-30).

2


Ngày 09/03/2014 Chánh Thanh tra Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L lập
biên bản làm việc với đương sự vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá, thể thao
và du lịch BB số 11/BB-LV (bút lục số 27).

Từ cơ sở là Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC, ngày 10/3/2014 ơng Trần
Ngọc Minh (Phó giám đốc kiêm Chánh tranh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh G.L) đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn
hóa, thể thao và du lịch số 23/QĐ-XPHC theo đó, xử phạt bà Tuyết với mức phạt tiền
là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) với lý do đã có hành vi vi phạm hành chính
“thiếu tinh thần trách nhiệm, tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh
có điều kiện về an ninh trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm (áp dụng khoản 1 Điều
25 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ)” (bút lục số 5-6).
Ngày 24/03/2014 Bà Tuyết đã gửi đơn khiếu nại (lần 1) đến người có thẩm quyền
giải quyết theo quy định của Luật khiếu nại.
Ngày 07/04/2014 Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L ra công văn trả lời đơn
khiếu nại (25/5/2014) của bà Tuyết.
Ngày 20/4/2014 Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đã ra
Quyết định số 01/QĐ-TTr về việc giải quyết đơn khiếu nại Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính (lần đầu) vẫn giữ nguyên Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 23/QĐ –XPHC.
Ngày 02/05/2014 bà Tuyết làm đơn khởi kiện này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh
G.L giải quyết nhằm hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo số 23/QĐ -XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh
thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L
Ngày 13/05/2014 Tịa án nhân dân tỉnh G.L ra thơng báo thụ lý vụ án.
Ngày 10/09/2014 Quyết định đưa vụ án ra xét xử.
4. Yêu cầu của người khởi kiện:

3


-

Hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, thể

thao, du lịch và quảng cáo số 23/QĐ -XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh
tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L.

5. Những vấn đề cần chứng minh:
-

Tính hợp pháp, có căn cứ của yêu cầu khởi kiện:
Yêu cầu của người khởi kiện: Căn cứ teo Điều 5 Luật tố tụng hành chính 2015,
thì việc ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức xử phạt nộp
tiền (15.000.000 đồng) thì quyết định hành chính này đã xâm phạm trực tiếp đến
quyền và lợi ích của bà Nguyễn Thị Tuyết, vì vậy việc khởi kiện để đảm bảo
quyền lợi của mình là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật.

-

Quyết định hành chính: Xác định xem quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày
10/03/2014 có đáp ứng u cầu về tính hợp pháp hay không:
+ Về thủ tục ban hành quyết định: Đã đúng với quy trình, thủ tục theo luật quy
định chưa. Đối với Quyết định số 23/QĐ-XPHC nêu trên, thủ tục ban hành phù
hợp về mặt thời gian.
+ Về nội dung: Nội dung quyết định xử phạt có phù hợp hay không và chỉ ra căn
cứ pháp lý. Đối với Quyết định số 23/QĐ-XPHC, điều khoản áp dụng chưa đúng
với thực tế

II.

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA
1. Hỏi người khởi kiện – Đại diện theo ủy quyền ông Mai Anh Tuấn:

a) Bà Tuyết cho biết ngày 23 tháng 12 năm 2013, nhà trọ Hoàng Lan do bà làm chủ

đã xảy ra sự việc gì?
b) Cơ sở kinh doanh của bà có quy định hay bà có nghe ai nói rằng phải kiểm tra
giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của khách khi cho th phịng trọ hay khơng?
c) Bà cho biết Đoàn kiểm ta của Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh
G.L đến cơ sở kinh doanh của bà vào ngày nào? Biên bản vi phạm hành chính
được lập cùng hay khơng?
d) Ngày nào bà nhận được Quyết định số23/QĐ-XP của Chánh Thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch?
2. Hỏi người bị kiện – Đại diện theo ủy quyền là ông Dương Văn Thành:
4


a) Ông cho biết, tại thời điểm kiểm tra nhà trọ Hồng Lan vào ngày 23/12/2013, đồn
kiểm tra có phát hiện ra dấu hiệu của hành vi vi phạm như thế nào?
b) Trong những lần đó, bà Tuyết có cung cấp được những chứng cứ chứng minh
khơng có hành vi vi phạm hay không?
c) Căn cứ vào đâu để Thanh tra Sở VHTT-DL G. ban hành Quyết định xử phạt hành
chính số 23/QĐ-XP ngày 10 tháng 03 năm 2014 đối với bà Nguyễn Thị Tuyết? Đề
nghị làm rõ, đưa ra cơ sở pháp lý?
d) Tại biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC hành vi của bà Tuyết đang vi
phạm trong lĩnh vực nào?
e) Theo Quyết định số 23/QĐ-XP ngày 10/03/2014, ghi nhận bà Tuyết đã có hành vi
vi phạm hành chính: “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi
dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại
dâm”, đề nghi ông đưa ra các căn cứ pháp lý để đưa ra quyết định trên?
III.

LUẬN CỨ BẢO VỆ NGƯỜI KHỞI KIỆN

Kính thưa Hội đồng xét xử!

Thưa vị Đại diện Viện Kiểm Sát!
Thưa tồn thể q vị có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay.
Tơi là Luật sư Hứa Huyền Trang, là luật sư công tác tại Công ty Luật TNHH 23.1
C1 thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Tơi tham dự phiên tịa hơm nay với tư
cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Tuyết – là người
khởi kiện trong vụ án hành chính về trong vụ án hành chính thụ lý số: ……về việc
khởi kiện “Quyết định hành chính trong lĩnh vực hành chính”.
Sau thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án và theo dõi nội dung trình bày từ phía người bị
kiện và người khởi kiện, tơi xin trình bày quan điểm của mình để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp thân chủ chúng tơi là bà Nguyễn Thị Tuyết như sau:
Đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính này là Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 23/QĐ-XPHC 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L đối với bà Nguyễn Thị Tuyết. Theo khoản 1 điều
5


30 và điểm k khoản 4 điều 32 Luật tố tụng hành chính, khiếu kiện này thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh G.L. Căn cứ theo quy định tại điểm a,
khoản 3, điều 116 Luật tố tụng hành chính và điểm a, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
02 thì việc khởi kiện của bà Tuyết được thực hiện trong thời hiệu khởi kiện. Do vậy,
phiên tòa ngày hơm nay diễn ra là có cơ sở pháp lý.
Kính thưa Hội đồng xét xử! Việc bà Nguyễn Thị Tuyết – Thân chủ của tơi đã có u
cầu hủy toàn bộ Quyết định số 23/XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L là hồn tồn có cơ sở. Bởi lẽ:
-

Về trình tự thủ tục:

Thứ nhất, Biên bản 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 ghi không đầy đủ thông tin. Biên
bản 11/BB-VPHC ngày 23/12/2013 ghi không đầy đủ thông tin: Không ghi thông tin

của người chứng kiến, Thông tin về người xử phạt không đầy đủ (khơng có giấy
CMND, thơng có thơng tin giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh), Không ghi cụ thể
căn cứ xử phạt và hành vi vi phạm đối với thân chủ của chúng tôi
Thứ hai, Vi phạm thời hạn ra quyết định xử phạt. Theo Điều 66 Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012. Ngày 23/12/2013 lập biên bản đến ngày 10/3/2014 mới ra quyết
định xử phạt. Theo quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 thì
trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản phải ra quyết định xử phạt, nhưng
trong trường hợp này đã quá thời hạn trên. Trường hợp của thân chủ chúng tơi là
khơng thuộc trường hợp có tình tiết phức tạp hay cần bổ sung chứng cứ hay thuộc
trường hợp phải giải trình như lời khai của bên bị kiện đã cung cấp.
-

Về nội dung:

Thứ nhất, Quyết định số 23/QĐ-XPHC áp dụng Nghị định số 167/2013/NĐ-CP để
xử phạt hành vi vi phạm xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực gây bất lợi cho
người vi phạm là không đúng theo quy định của pháp luật. Tham chiếu quy định tại
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 28/12/2013 (theo
khoản 1 Điều 72 Nghị định này). Tại thời điểm xảy ra sự việc, tức ngày lập Biên bản
6


số 11/BB-VPHC (23/12/2013 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP chưa có hiệu lực thi
hành.
Theo khoản 1 Điều 73 của Nghị định số 167/2013/NĐ-CP, “đối với hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội; phịng, chống tệ nạn xã
hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình xảy ra trước ngày
Nghị định này có hiệu lực mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết,
thì áp dụng các quy định có lợi cho cá nhân, tổ chức vi phạm”.
Như vậy việc áp dụng quy định tại Nghị định 167/2013/NĐ-CP trong trường hợp

này sẽ làm tăng trách nhiệm hành chính và khơng có lợi cho người vi phạm. Điều
này trái với nguyên tắc áp dụng hiệu lực hồi tố nói chung và trái với quy định nêu
trên tại khoản 1 Điều 73 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP nói riêng.
Thứ hai, Quyết định số 23/QĐ-XPHC có nội dung khơng đầy đủ và không phù hợp
với quy định của pháp luật.Quyết định số 23/QĐ-XPHC khơng xác định ngày có
hiệu lực thi hành.
Thứ ba, Quyết định 23/QĐ-XPHC được ban hành không đúng theo thời hạn pháp
luật quy định.Theo quy định tại Điều 66 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012,
“Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành
chính. Đối với vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp mà khơng thuộc trường hợp giải
trình hoặc đối với vụ việc thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều 61 của Luật này thì thời hạn ra quyết định xử phạt tối đa là 30 ngày, kể
từ ngày lập biên bản. Trường hợp vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết
phức tạp và thuộc trường hợp giải trình theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 và khoản 3
Điều 61 của Luật này mà cần có thêm thời gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì
người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc phải báo cáo thủ trưởng trực tiếp của
mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản, thời hạn gia hạn
không được quá 30 ngày”. Trong vụ án này, Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB7


VPHC được lập ngày ngày 23/12/2013 nhưng đến ngày 10/3/2014 (ngày thứ 78 kể
từ ngày lập biên bản) Chánh thanh tra Sở mới ra Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 23/QĐ-XPHC. Như vậy Quyết định này đã được ban hành không đúng theo
thời hạn quy định của pháp luật nêu trên.
Thứ tư, Quyết định số 23/QĐ-XPHC được ban hành không đúng thẩm quyền theo
quy định của pháp luật.
Trong Quyết định số 23/QĐ-XPHC, căn cứ pháp lý để xử phạt hành chính là khoản
1 Điều 25 thuộc Mục 2, Chương II của Nghị định 167 (quy định về Vi phạm hành
chính về phịng, chống tệ nạn xã hội). Như vậy, hành vi vi phạm quy định tại khoản

1 Điều 25 Nghị định 167 không thuộc thẩm quyền xử lý của Thanh tra Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch. Và do đó, việc Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tỉnh G.L ra Quyết định số 23/QĐ-XPHC xử lý hành vi vi phạm quy định tại
khoản 1 Điều 25 Nghị định 167 là không đúng thẩm quyền luật định.
Thứ năm, bà Nguyễn Thị Tuyết khơng có hành vi vi phạm hành chính: “thiếu tinh
thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi dụng cơ sở kinh doanh có điều
kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại dâm” như nêu trong Quyết định số
23/QĐ-XPHC.
Tại Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định:
“1. Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc
lợi ích vật chất khác.
2. Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.
3. Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.”
Qua nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án và các chứng cứ khác thu thập được, khơng có
chứng cứ nào thể hiện rằng tại thời điểm kiểm tra, ở nhà nghỉ Hoàng Lan đã xảy ra
hành vi mua dâm, bán dâm.
8


Biên bản vi phạm hành chính số 11/BB-VPHC khơng thể hiện có xảy ra hành vi mua
dâm giữa các khách th phịng là ơng Nguyễn Văn Thường và bà Nguyễn Thị Lành
ở phịng số 11, ơng Phan Văn và bà Nguyễn Thị Thùy ở phòng số 9. Hơn nữa, các
bản tường trình của các khách th phịng này cũng khơng thể hiện họ đã thực hiện
hành vi mua dâm, bán dâm. Thời điểm ra Quyết định số 23/QĐ-XPHC, các cơ quan
có thẩm quyền cũng khơng thu thập được bất kỳ chứng cứ nào khác chứng minh có
xảy ra hành vi mua dâm, bán dâm ở nhà trọ Hoàng Lan tại thời điểm kiểm tra (bằng
chứng là cho đến phiên tòa ngày hơm nay, phía người bị kiện khơng cung cấp được
thêm bất kỳ chứng cứ nào khác về vấn đề này).
Ngồi ra, bà Tuyết khơng có nghĩa vụ u cầu khách th phịng phải xuất trình

Giấy đăng ký kết hơn. Theo quy định cũ tại Mục 8.5 Phần IV Thông tư 02 (đã hết
hiệu lực vào ngày 20/11/2010) thì tổ chức, cá nhân hoạt động ngành nghề cho thuê
lưu trú (trong trường hợp này là kinh doanh nhà nghỉ) “phải bố trí phịng nghỉ nam
riêng, nữ riêng (trừ trường hợp là gia đình, vợ chồng)”. Tuy nhiên, Thơng tư 33 thay
thế Thông tư 02 đã hủy bỏ quy định này. Do đó, bà Tuyết khơng có trách nhiệm u
cầu các khách thuê phòng nêu trên chứng minh họ là vợ chồng hợp pháp.
Như vậy, Quyết định số 23/QĐ-XPHC nêu rằng bà Nguyễn Thị Tuyết đã có hành vi
vi phạm hành chính: “thiếu tinh thần trách nhiệm tạo điều kiện cho người khác lợi
dụng cơ sở kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự để tổ chức hoạt động mại
dâm” là khơng có cơ sở pháp lý và khơng phản ánh đúng sự thật khách quan.
Tóm lại, Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh G.L là hoàn toàn khơng có căn cứ pháp lý và cơ sở
thực tế.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Từ những trình bày nêu trên, tôi cho rằng yêu cầu của người khởi kiện là hồn tồn
có căn cứ, Do vậy, căn cứ điểm b, điểm g khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính,
kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và tuyên hủy toàn bộ quyết định số 23/QĐ9


XPHC ngày 10/3/2014 của Chánh thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh
G.L và yêu cầu Chánh thanh tra bồi thường thiệt hại cho người khởi kiện theo đúng
quy định của pháp luật.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm lắng nghe của Hội đồng xét xử và
những người tham dự phiên tịa hơm nay.

10




×