Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Thực trạng tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng ở việt nam thời kỳ 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.26 KB, 35 trang )

Thực trạng tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng ở Việt Nam thời kỳ 1986
đến nay.
1. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về
tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại,
thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam
giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công
nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương
đối trong xã hội. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp
phần tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt
Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa
đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước
ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng của nền kinh tế thị trường
đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế, Luật phá sản, Luật
môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh, nghị định của
chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt
Nam cũng từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập
trung, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp
quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành
các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng
hóa, thị trường đất đai Cải cách hành chính được thúc đẩy nhằm nâng cao tính
cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động
kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến lược cải cách
hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong
đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh
tế để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong


giai đoạn mới. Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ
đổi mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng
phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các
nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại
đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển
thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du
lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối.
2. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế
Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng cao trong những năm qua nhưng có một số
tồn tại trong nền kinh tế có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng trong dài hạn. Trong giai
đoạn hiện nay tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào sự phục hồi của kinh tế
thế giới và những giải pháp của chính phủ.
Sau khi cải cách kinh tế, Việt Nam đã đạt được những bước tăng trưởng vượt bậc,
kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên một cách nhanh chóng. Việt Nam cũng thu hút
được nhiều quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, được thể hiện qua dòng vốn FDI và
FPI chảy vào ngày càng lớn.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự kiện này đánh dấu một
bước ngoặt lớn trên con đường phát triển kinh tế của Việt Nam. Gia nhập WTO không
chỉ giúp kinh tế Việt Nam có điều kiện hội nhập, được hưởng những chính sách thương
mại có lợi mà đây còn là một động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Tuy vậy, gia nhập WTO cũng là một thách thức thực sự khi những yếu kém kém trong
nền kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Chất lượng tăng trưởng thấp, cơ sở hạ tầng yếu
kém, thể chế pháp luật còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao.
Như vậy, công nghiệp tiếp tục là động lực, là đầu tàu của tăng trưởng của toàn bộ
nền kinh tế, góp phần vào việc ngăn chặn nguy cơ suy giảm sâu hơn của tăng trưởng kinh
tế.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 5,3%, trong đó doanh nghiệp nhà nước địa

phương trong nhiều năm trước thường bị sụt giảm, nhưng nay vẫn tăng 3,5%.
Khu vực ngoài nhà nước tăng trưởng với tốc độ cao nhất (17,1%). Khu vực này đã
khai thác tốt hơn cả 3 yếu tố- ngoài 2 yếu tố giống như đã được đề cập ở trên đối với
doanh nghiệp nhà nước địa phương, còn có sự tăng lên của năng lực sản xuất, với sự ra
đời của các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng
cao thứ hai (17%) nhờ đã tranh thủ đẩy mạnh xuất khẩu khi kinh tế thế giới có sự phục
hồi và tranh thủ khi giá xuất khẩu tăng cao (chỉ số giá xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 so
với cùng kỳ năm trước tăng 13,6%, nếu tính thêm tốc độ tăng tỷ giá bình quân là 10,3%,
thì tăng 25,3%).
Nếu phân chia theo nhóm ngành thì nhóm ngành chế biến tăng trưởng với tốc độ
cao nhất, ở mức hai chữ số. Trong 32 ngành của nhóm ngành chế biến, có 25 ngành tăng
so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 17 ngành tăng cao hơn tốc độ chung (12,7%). Cao
nhất là sản xuất đường (tăng 43,5%), nhờ tốc độ tăng tiêu thụ rất cao (49,8%), góp phần
quan trọng vào việc giảm giá đường.
Sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng cao (38,1%), nhờ có chỉ số tiêu
thụ rất cao (80,8%). Tương tự, sản xuất đồ uống không cồn tăng 35% và tăng 29,9%; sản
xuất đồ gốm, sứ không chịu lửa tăng 35,3% và tăng 27,2%,… Sản xuất xi măng, sản xuất
sắt thép, phân bón, giấy, bia, thức ăn gia súc, bơ sữa,… đều tăng hai chữ số.
Nhóm ngành sản xuất, phân phối điện, ga, nước tăng 10,3%, trong đó sản xuất tập
trung và phân phối điện tăng 10,7%, đã góp phần giảm bớt sự căng thẳng về nguồn phải
cắt điện luân phiên như năm ngoái.
Nhóm ngành công nghiệp khai thác mỏ chỉ tăng 2,8%, thấp nhất trong 3 nhóm
ngành công nghiệp. Điều này là phù hợp với chủ trương tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên
nhiên của đất nước,…
Sản xuất da giày 6 tháng đầu năm ổn định và tăng trưởng. Giày dép xuất khẩu vẫn
vững vàng là TOP đầu trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tiêu thụ sản phẩm đã có sự
chuyển hoá. Sản phẩm giày dép bằng cao su, phẩm cấp thấp, rẻ tiền đã được thay thế dần
bằng dày da thật và giả da, đặc biệt là giày thể thao và giày vải. Tuy vậy ngành da giày
đang phải đối mặt với tình trạng thíếu hụt lao động, nếu không khắc phục trong thời gian

tới sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất và kinh doanh.
Tỷ trọng ngành cho chúng ta thấy rõ tình trạng của một nền kinh tế. Các nước kinh
tế phát triển dịch vụ và công nghiệp chiếm tỷ trọng cao, nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ
trong cơ cấu. Ngược lại, các quốc gia đang phát triển nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá
cao, thường khoảng10% trong cơ cấu GDP.
Tỷ trọng cơ cấu GDP của Việt Nam ta thấy, ngành nông nghiệp tuy có xu hướng
giảm dần nhưng hiện nay vẫn đang đóng góp một tỷ lệ lớn trong cơ cấu của GDP. Năm
2008, đóng góp của nông, lâm nghiệp thủy sản là 21.99%, tỷ lệ này cao hơn nhiều so với
các nước phát triển và đang phát triển. Chẳng hạn, năm 2007, Mỹ ngành nông nghiệp chỉ
chiếm 1.2% GDP, Hàn Quốc 3.3%, Thái Lan khoảng 10% Tỷ lệ đóng góp GDP trong
ngành dịch vụ đang ở mức khá thấp, năm 2008 là 41.8% trong khi đó ở Mỹ là trên 76%,
Hàn Quốc là 56%, còn ở Thái Lan 45%. Điều này cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn ở trong
giai đoạn thấp của chu kỳ phát triển. Cơ cấu như vậy là cơ hội để Việt Nam có thể duy trì
được một tốc độ phát triển kinh tế cao, bằng cách tăng tỷ lệ đóng góp của công nghiệp và
dịch vụ trong GDP.
Mặc dù có tốc tăng trưởng thấp hơn ngành khác nhưng tỷ trọng của nông nghiệp
trong cơ cấu GDP theo giá hiện hành không thay đổi nhiều do tốc độ tăng giá của các sản
phẩm nông nghiệp lớn hơn công nghiệp và dịch v
Về tăng trưởng ta thấy, ngành công nghiệp và dịch vụ luôn duy trì một tốc độ tăng
trưởng cao trong những năm trước đây (bảng 2). Năm 2008, tăng trưởng công nghiệp và
dịch vụ đã chậm lại đáng kể. Công nghiệp và xây dựng từ mức 10.6% năm 2007 giảm
xuống chỉ còn 6.33% năm 2008, và 1.5% trong quý1/2009. Năm 2008 và Q1/2009, ngành
công nghiệp và xây dựng bị ảnh hưởng mạnh do bất ổn vĩ mô trong nước và suy thoái
toàn cầu. Dự báo năm 2009 vẫn là một năm khó khăn với sản xuất công nghiệp do xuất
khẩu và tiêu thụ trong nước sụt giảm, thị trường BĐS chưa thể nhanh chóng “nóng” trở
lại.
Ngược lại, năm 2008 nông lâm nghiệp và thủy sản trong bối cảnh khó khăn của
nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007. Mặc dù giá bán sụt giảm mạnh,
nhưng các sản phẩm nông nghiệp không bị ảnh hưởng nhiều như công nghiệp. Tăng
trưởng của ngành dịch vụ không cao như công nghiệp nhưng lại khá ổn định

Từ năm 2003 đến nay tỷ trọng đầu tư vào ngành kinh tế thay đổi không nhiều. Tỷ
trọng đầu tư vào ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ.
Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp vào 20% GDP nhưng tỷ lệ đầu tư
hàng năm vào ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ chỉ có 6.5% đến 8.5% và đang giảm dần.
Mặc dù, một số mặt hàng nông nghiệp của Việt nam nằm trong nhóm xuất khẩu đứng đầu
thế giới như gạo, cà phê, tiêu, điều, một số mặt hàng thủy hải sản… nhưng sản xuất nông
nghiệp vẫn đang ở trình độ lạc hậu. Ruộng đất manh mún chưa hình thành được vùng
chuyên canh sản xuất theo quy mô lớn phục vụ xuất khẩu. Tăng trưởng trong ngành nông
nghiệp ở mức thấp và khó có những bước tăng đột biến do giới hạn về tài nguyên và kỹ
thuật.
Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp – xây dựng và dịch vụ khá cao. Tăng cường đầu
tư cho công nghiệp – xây dựng và dịch vụ nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy vậy, tốc
độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam tương đối chậm. Tỷ trọng lao động trong hai
khu này hiện nay chưa được 50% số lao động.
Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình
thành 6 vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng
Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho
tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các
khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ
sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát
triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu năm 1990,
ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP, thì đến năm 2006 giảm còn 20,4%.
Trong khi đó, các ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng
tương ứng từ 22,7% lên 41,5%. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở mức khoảng 38%.

Xét trong từng nhóm ngành, cơ cấu ngành kinh tế cũng có sự thay đổi tích cực. Trong
nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã
giảm, nhường chỗ cho ngành thủy sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ
trọng của ngành công nghiệp chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành dịch vụ
cũng thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng cao
như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch,
Đến năm 2020 Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, phát triển
theo hướng hiện đại. Việt Nam là một nước nông nghiệp lấy sản xuất lúa nước làm chính.
Có tới 69,4% cư dân đang sống ở nông thôn (2011). Trong thu nhập quốc nội (GDP
2011) thì nông lâm thủy sản còn tới 22,02%. "Hồn" Việt chính vẫn là nông nghiệp, nông
thôn và nông dân. Tuy nhiên, cái "hồn" đó đang ngày càng mờ nhạt mà tiêu điểm là vấn
đề sử dụng đất đai và thiếu định hướng cho một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp.
Với các làng ven đô, cơ cấu kinh tế được định hình vào việc phát triển theo các
nhu cầu của đô thị. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp đang là bài toán khó để duy trì
được tính ổn định của quá trình chuyển đổi nghề nghiệp. Một mét vuông ở vùng thuần
nông có thể chỉ tạo ra một đồng, nhưng ở vùng ven đô, nhất là ven Hà Nội thì phải tạo ra
gấp nhiều lần mới thu hút được người dân tham gia. Khi việc trồng lúa, trồng màu không
mang lại thu nhập bằng việc vào thành phố làm thêm thì đương nhiên, họ sẽ không ngần
ngại mà bán lại cho các dự án công nghiệp, khu đô thị mới. Những mô hình hoạt động
phi nông nghiệp, dịch vụ mới mang tính tự phát hình thành. Các làng nghề ngổn ngang,
môi trường ô nhiễm, các hàng quán bám theo đường làng đến những tụ điểm mang tính
tiêu cực xã hội. Điều này cho thấy kinh tế phi nông nghiệp mới đang trên con đường hình
thành, chưa ổn định vững chắc và tiềm ẩn nhiều thách thức.
3. Tốc độ tăng trưởng nhìn từ yếu tố đầu vào.
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của
yếu tố số lượng vốn đầu tư, đóng góp của số lượng lao động và đóng góp của yếu tố năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã
đóng góp khoảng 57%, yếu tố số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng
góp 23%. Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố

số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua
mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007
đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung
Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã
nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên
tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy
mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%,
cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào
yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do nguồn
lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Mặt
khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của
yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng
tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ
trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong khu vực hiện nay.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng
về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo
chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao: TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư và năng suất lao động. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ
tiêu. Gần đây, trên các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng,
khi đề cập đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các
chuyên gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số
ICOR càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau: Tính
chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so với 2,7

lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ 1961-
1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc (trong thời
kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6
lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995). Hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp.
Mặc dù về trị số tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thuộc loại khá cao,
nhưng so với các nền kinh tế đang chuyển đổi khác, Việt Nam là nước duy nhất có tốc độ
tăng trưởng 10 năm sau (2001 - 2010) thấp hơn so với 10 năm trước (1991-2000).
Mặt khác, là một trong những nước đang phát triển rất thiếu vốn, nhưng Việt Nam
đã và đang duy trì phương thức tăng trưởng dựa chủ yếu vào thâm dụng vốn – yếu tố vốn
đóng góp trên 50% tăng trưởng GDP. Trong khi lợi thế lao động trẻ, dồi dào, cùng với
nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp cho tăng trưởng vào khoảng 50% còn lại.
Ở các nước phát triển, tỷ lệ đóng góp của riêng TFP vào kết quả tăng trưởng thường
chiếm tỷ trọng cao hơn nhiều, từ 50-60%. .Việt Nam tăng trưởng phụ thuộc nhiều hơn
vào tăng vốn
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế thấp (năm 2007) mới đạt 25.886.000
đồng/người, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có
9.607.000 đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới
đạt 55.072.000 đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159.000
đồng/người. (quy ra USD các số liệu tương ứng: khoảng 1.600 USD, 600 USD, 3.438
USD, và 2.385 USD).
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (trên
14.600 USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6.500
USD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là
hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động thấp,
nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm tăng lạm
phát. Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được
neo giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan
hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.
Tạo công ăn việc làm và đào tạo nghề là một trong những đóng góp quan trọng

của khu vực FDI. Tính đến năm 2007, doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo việc làm cho trên
1,2 triệu lao động trực tiếp, trong đó nhiều lao động đã được đào tạo ở nước ngoài. Năng
suất lao động thấp và tăng chậm
Năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua đã có chiều hướng tăng đáng
kể. Tốc độ tăng năng suất bình quân giai đoạn 2001 - 2010 đạt khoảng 4,8%/năm. Với
mức năng suất lao động hiện nay, Việt Nam còn kém năng suất lao động của Trung Quốc
khoảng 2,6 lần và Thái Lan 4,3 lần.
Sử dụng cách tiếp cận hạch toán tăng trưởng, Hình 1 mô tả đóng góp của vốn, lao
động và TFP vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991-2009. Có thể thấy một số
nhận định sau về xu hướng tăng trưởng của GDP (Y) và các yếu tố vốn (K), lao động (L),
TFP ở nước ta như sau:
Hình 1: Tăng trưởng GDP, vốn, lao động và TFP, 1991-2009
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê
Trước hết, tốc độ tăng trưởng của vốn ngày càng cao, điều này hoàn toàn phù hợp
với số liệu về đầu tư và tích lũy tài sản của nước ta hiện nay và các nhận định về tăng
trưởng dựa nhiều vào vốn của nền kinh tế trong thời gian gần đây. Theo quy luật năng
suất cận biên giảm dần, sự gia tăng của vốn vật chất cuối cùng sẽ làm giảm năng suất cận
biên của vốn. Tuy nhiên, nếu so sánh thêm với các số liệu về năng suất lao động ở Việt
Nam thì tỷ lệ vốn/lao động tăng lên có thể làm tăng năng suất lao động: năng suất lao
động xã hội (theo giá so sánh) đã tăng từ 4,6 triệu năm 1991 lên 10,8 triệu VND/người
năm 2009, với tốc độ tăng trưởng bình quân là 4,9%/năm.
Thứ hai, tăng trưởng TFP tính được có xu thế biến động rất giống GDP (mặc dù
khoảng cách giữa hai đường tăng trưởng này dường như ngày càng xa nhau). Cũng giống
tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng TFP có thể được chia thành bốn thời kỳ 1991-
1995, 1996-2000, 2001-2005, 2006-2009. Điều này chứng tỏ tăng trưởng TFP chịu ảnh
hưởng của chu kỳ kinh doanh. Để đánh giá được chính xác hơn vai trò của TFP đối với
tăng trưởng kinh tế, cần loại bỏ tác động của chu kỳ kinh doanh ra khỏi tăng trưởng TFP
bằng phương pháp Wharton.
Hình 2. Phương pháp Wharton để loại bỏ tác động của chu kỳ kinh doanh khỏi TFPG
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê

Hình 3 cho thấy 1996 là năm mà đường song song với đường xu thế giao với
đường biểu diễn chuỗi K/Y, điều này có nghĩa vào năm 1996 nền kinh tế đạt mức sử
dụng năng lực cao nhất trong toàn giai đoạn 1991-2009, vì vậy 1996 được giả định là
năm nền kinh tế đạt tới mức toàn dụng các nguồn lực. Từ đây, ta tính được sản lượng
tiềm năng Y*, mức độ sử dụng nguồn lực Y/Y* và tác động của chu kỳ kinh doanh (tốc
độ tăng của Y/Y*).
Bảng 1. Tính tốc độ tăng trưởng TFP và TFP đã loại bỏ yếu tố chu kỳ kinh doanh
Đơn vị: %
Ghi chú: TFPG là tốc độ tăng trưởng TFP, TFPG* = TFPG - %∆Y/Y* là tốc độ tăng trưởng TFP sau khi
loại bỏ yếu tố chu kỳ kinh doanh.
Hình 3. Tăng trưởng GDP, vốn, lao động và TFP đã loại bỏ yếu tố chu kỳ kinh doanh, 1991-2009
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả.
Ước lượng TFPG* (TFPG đã loại bỏ yếu tố chu kỳ kinh doanh) được thể hiện ở
Bảng 2 và Hình 4, qua đó cho chúng ta thấy rõ 4 giai đoạn của TFPG* trong thời kỳ
1991-2009 như sau:
Giai đoạn 1991-1996: TFPG* tiến bộ vượt bậc (từ -2,3 lên 3,3), thể hiện sự thành
công bước đầu của quá trình đổi mới, với việc nền kinh tế mở cửa ra thế giới, xuất khẩu
và FDI tăng trưởng nhanh chóng và đất nước bắt đầu được nhận ODA. Điều này góp
phần khẳng định vai trò tích cực của thương mại và đầu tư nước ngoài đối với hiệu quả
kỹ thuật – công nghệ, thành phần quan trọng của TFP.
Giai đoạn 1997-2000: TFPG* vẫn ở mức tương đối cao, nhưng có chiều hướng
giảm (từ 3,27 xuống 2,21). Đây cũng là giai đoạn tăng trưởng kinh tế giảm sút do cuộc
khủng hoảng tài chính – tiền tệ của khu vực.
Giai đoạn 2001-2007: TFPG* có xu hướng tăng nhẹ (từ 2,39 lên 3,69), cho thấy sự
phục hồi của nền kinh tế, cả về tốc độ tăng trưởng cũng như hiệu quả kinh tế.
Giai đoạn 2008-2009: TFPG* của Việt Nam giảm (từ 3,06 xuống 2,57) cùng cuộc
suy thoái kinh tế thế giới trong thời gian gần đây.
Rõ ràng là, các nguồn lực của Việt Nam thời gian qua đã được phân bổ vào một số
lĩnh vực chưa hợp lý, trong đó có sự chưa tương xứng giữa các loại ngành nghề sản xuất
và sử dụng năng lượng. Hệ quả là, tình trạng mất cân đối trong một số lĩnh vực, trong đó

có cung cấp nguyên vật liệu và năng lượng càng trở nên trầm trọng.
4. Tăng trưởng kinh tế nhìn từ yếu tố đầu ra
Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp
của tiêu dùng cuối cùng, của tích lũy tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất khẩu ròng được
tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Có một số nhận xét được rút ra từ đóng góp của
các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng. Điều đó
được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu dùng cuối cùng
hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức tiêu dùng bình quân đầu
người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ tăng thường khá cao (mấy năm
liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng của GDP).
Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường ngày
một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá) gần đây liên
tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng 15,2%, năm 2004 tăng 10,8%,
năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 12,5%, năm 2007 tăng 11,4%). Khi tiêu dùng cuối
cùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở thành động lực của tăng trưởng
kinh tế thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác tạo áp lực tăng cung
tiền tệ, tạo áp lực lạm phát.
Cùng với tăng trưởng tiêu dùng chung thì tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã
tăng rất cao về quy mô, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Cùng với xu hướng
này cũng đã xuất hiện tâm lý ưa chuộng hàng hiệu, hàng ngoại, thậm chí mua bán với bất
kỳ giá nào.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích lũy tài sản chiếm tỷ trọng khá cao.
Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết kiệm để dành cho tích lũy của khu vực
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần không nhỏ đã
được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các kênh gây ra những cơn sốt
nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh.
Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu tư đang được chôn vào bất động sản, vàng.
Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia tăng

mạnh cả về quy mô, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hóa, cả về dịch
vụ. Riêng về hàng hóa, năm 2007 lớn gấp 2,5 lần năm 2006, năm nay mới qua 3 tháng
mà đã gấp 3,8 lần cùng kỳ, khả năng cả năm có thể gấp rưỡi hoặc cao hơn so với năm
trước.
4.1. Tình trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta
đã đạt được những kết quả nổi bật sau đây.
Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của
GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng
trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm
1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng
công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%;
năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ
trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%;
năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch
vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch
ngày càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản
xuất công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007.
Trên cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà
biểu hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày
càng tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông
nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp)
đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế
về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ

những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc
chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả,
tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh
tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở
cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân
17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất
khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu
tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ
USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ
XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã
có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều
tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ
năm 2004 đến nay. Năm 2001, vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm
2002: 3,0 tỉ USD; 2003: 3,2 tỉ USD; 2004: 4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ
USD; và năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các nguồn vốn
đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ USD, tăng gấp đôi so với
năm 2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng
vốn FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua.
Năm 2008, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy thoái, song
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ USD, tăng gấp đôi năm
2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 diễn ra đầu
tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên tới 5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút
so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế
hoạch đề ra và cao hơn mức năm 2007 (2,176 tỉ USD).
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển khai. Các

doanh nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như khai thác dầu ở An-
giê-ri, Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở Lào…
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những
nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh
tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ
mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…,
góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các
chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho
người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã
giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn13,1%. Chỉ số
phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105
trong tổng số 177 nước…
4.2. Hiệu quả kinh tế
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi mới vừa
qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam
đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động. Nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả
trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ
kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển
thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du lịch, xuất
khẩu lao động, kiều hối
Trong hơn 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong
giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân 3,9%/năm, thì trong
5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn
1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng
GDP của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Năm 2003 tăng 7,3% ; 2004 : 7,7% ;
2005 : 8,4% ; 2006 : 8,2% ; 2007 : 8,5% và năm 2008, trong bối cảnh khủng hoảng kinh

tế, tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế là 6,2%.
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế trong nước của Việt
Nam đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2007, tỷ trọng của khu vực nông-lâm
nghiệp thủy sản đã giảm từ 38,7% xuống dưới 20% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về
tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,7%, còn khu vực dịch vụ
được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và 38,3% năm 2007. Trong
từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ
trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng
cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành
dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Luật doanh nghiệp được sửa đổi năm 2000 đã tạo điều kiện cho sự phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá
nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành
chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy
phép, thủ tục, các loại phí… Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho
cả doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh
của các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều chỉnh,
sắp xếp lại các doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của công
ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc chuyển
các công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các
doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu
vực kinh tế quốc doanh. Tính đến 30/6/2008, đã có 3.786 doanh nghiệp Nhà nước được
cổ phẩn hóa.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục tiêu phát
triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích của đổi mới cho đại
đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát
triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ
120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ 109/177 nước trên thế giới năm 2007; tăng tuổi thọ

trung bình của người dân từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên đến 73 tuổi năm 2008,
giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống 14,75% năm 2007
(tương đương 2,7 triệu hộ nghèo), ước tính còn khoảng trên 13% vào cuối năm 2008.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: Với chủ trương tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế
ngày càng được mở rộng. Việt Nam là thành viên quan trọng trong ASEAN, tích cực
thực hiện các cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), là thành viên tích cực
của APEC, ASEM và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khác. Hợp tác kinh tế của Việt Nam
với các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ ngày càng
được củng cố và mở rộng, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ,
đang đàm phán hiệp định đầu tư với Mỹ, Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện
(PCA) với EU, hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản. Tháng 01 năm 2007,
Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có quan hệ với trên
220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ của Việt Nam
vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ sau đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng
20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức khoảng nửa tỷ USD/năm
trong những năm trước đổi mới lên 48,4 tỷ USD năm 2007 và 62,7 tỷ USD năm 2008.
Kim ngạch nhập khẩu năm 2008 của Việt Nam là 80,4 tỉ USD. Cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến
năm 2008, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản
phẩm gỗ, điện tử, máy tính và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng
loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu
thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Dù vậy, các mặt hàng
xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi sự nỗ lực hơn
nữa để tăng nhanh các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành
tháng 12/1987 đã tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trực
tiếp tại Việt Nam. Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi

vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn
hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và
những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào
xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Cùng với Luật Doanh nghiệp, việc ban hành Luật Đầu tư 2005 đã tạo bước tiến dài
trong việc điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam để tạo thêm hấp dẫn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó khăn vướng
mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp
mức thuế, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống
ngang bằng mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng lĩnh
vực đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào một số lĩnh vực trước
đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh doanh siêu thị, ngân hàng… cũng góp
phần tạo nên một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn ở Việt Nam.
FDI vào Việt Nam tăng nhanh còn do các nguyên nhân quan trọng khác như: sự
ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; nền kinh tế Việt Nam liên tục đạt
mức tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường tiếp tục được duy
trì và đẩy mạnh; mức sống của người dân được nâng cao góp phần làm tăng mức cầu nội
địa; tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu của các loại
hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị trường thế giới ngày càng được nâng cao.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được một lượng đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) ngày càng lớn. Từ ở mức gần như con số không vào năm 1986, vốn
đăng ký FDI đã tăng lên 64 tỷ USD năm 2008. Việt Nam hiện có 10.700 dự án đầu tư
trực tiếp của 90 quốc gia và vùng lãnh thổ đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 170
tỉ USD. FDI tăng không chỉ hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước
ngoài, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công
nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất nước, đào tạo
tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội Việt Nam.
4.3. Sức cạnh tranh của nền kinh tế
Trong 5 năm qua, mặc dù tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến phức tạp,

nền kinh tế trong nước phải khắc phục những yếu kém trong nước, mặt khác phải đối phó
với những tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
nhưng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tốc
độ tăng trưởng cao (bình quân 5 năm đạt 7%/năm), GDP năm 2011 đạt xấp xỉ 120 tỉ
USD, gấp gần 2,3 lần năm 2006 (53 tỉ USD); GDP đầu người đạt trên 1.300 USD gấp
hơn 2 lần năm 2006 (640 USD). Nước ta đã thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển,
bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, thị trường được mở rộng tới
149 nền kinh tế thành viên khác của WTO. Nếu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu mới đạt
48,56 tỉ USD, thì đến năm 2011 con số đó đã là 96,3 tỉ USD, tăng hơn 2 lần.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
yếu tố đóng vai trò quyết định. Do đó, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp không
còn là việc của riêng doanh nghiệp, mà đòi hỏi sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự ủng
hộ, nỗ lực của các tổ chức ngành nghề và người lao động. Có nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp mới nâng cao được năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của
sản phẩm, người lao động có việc làm, thu nhập, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất
nước ổn định.
Đánh giá một cách tổng thể, sau 5 năm gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp Việt Nam đã được cải thiện. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số
lượng và chất lượng doanh nghiệp Việt Nam ngày càng được tăng lên. Tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu bình quân 5 năm 2007-2011 là 19,25%/năm, cao hơn mức 18,1%/năm
của thời kỳ 5 năm 2001-2005 trước khi nước ta gia nhập WTO. Kim ngạch xuất khẩu
bình quân theo đầu người năm 2010 đạt 914,4 USD/người so với 559,2 USD/người của
năm 2006, tăng gấp gần 2 lần. Thị trường tiêu thụ hàng hóa của Việt Nam ngày càng
được mở rộng, giá nhiều mặt hàng xuất khẩu cũng tăng hơn trước. Không chỉ tăng về
lượng, mà cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có những thay đổi theo
hướng tích cực. Có thêm nhiều mặt hàng xuất khẩu mới, như trái cây, hoa, rau Quy mô
thị trường cũng được mở rộng, đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt
từ 1 tỉ USD trở lên.
4.4. Đánh giá vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động.
Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp

luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những người ngoài độ
tuổi lao động đang làm việc trong các nghành kinh tế quốc dân . Sự ra đời và phát triển
của kinh tế tri thức gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ cao và sự ứng
dụng rộng rãi với hiệu quả cực kỳ to lớn của những công nghệ ấy vào đời sống kinh tế xã
hội. Trình độ của người lao động làm việc trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội
được nâng cao. Lao động trong các ngành có sự gia tăng, điều kiện lao động được thay
đổi cơ bản, cường độ lao động giảm nhẹ. Nhưng trình độ lao động phát triển nên năng
suất lao động cao dẫn đến sự gia tăng nạn thất nghiệp. Mặt khác sự chênh lệch trình độ
giữa các vùng miền cũng là vấn đề cần giải quyết để kinh tế có thể tăng trưởng ổn định.
Thực trạng nguồn nhân lực Nguồn nhân lực tương đối lớn nhưng chất lượng chưa đáp
Ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Nước ta hiện nay có trên 50 triệu người từ 15 tuổi trở lên, nhưng tỷ lệ qua đào
tạo nghề nghiệp và chuyên môn kỹ thuật rất thấp. Theo kết quả điều tra dân số 1-4-1999
thì tại thời điểm điều tra chỉ có 7,6% dân số từ 13 tuổi trở lên có bằng cấp về một trình độ
chuyên môn kỹ thuật nào đó, tức là đã qua trường lớp đào tạo, trong đó 2,3% là công
nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ có bằng cấp; 2,8% có trình độ trung học chuyên
nghiệp; 0,7% cao đẳng; 1,7% đại học và 0,1% có trình độ trên đại học. Đây là một tỷ lệ
quá thấp. Nếu loại trừ giáo viên trong ngành giáo dục và thầy thuốc trong ngành y là 2
ngành có tỷ lệ qua đào tạo cao thì số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn chiếm tỷ
lệ thấp hơn nữa. Tỷ lệ qua đào tạo đã thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý. Quan hệ tỷ lệ
đào tạo giữa 3 loại trình độ chuyên môn kỹ thuật; Đại học và trên đại học; Trung học
chuyên nghiệp; Công nhân kỹ thuật theo thông lệ quốc tế là: 1 - 4 - 10 hoặc 1 - 3 - 5,
nhưng ở nước ta các tỷ lệ này tại thời điểm tổng điều tra dân số năm 1- 4-1989 là 1 - 1,16
- 0,96 và đến thời điểm tổng điều tra dân số 1-4-1999 còn bất hợp lý hơn với quan hệ tỷ
lệ: 1- 1,13 - 0,92. Cơ cấu đào tạo bất hợp lý nên tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong
nền kinh tế có xu hướng ngày càng trầm trọng. Sinh viên ra trường không có việc làm,
nhưng các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài lại không tìm được
công nhân kỹ thuật và thợ lành nghề. Theo kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp đã nêu ở
trên, đến giữa năm 1998 trong tổng số lao động công nghiệp ngạch 4 bậc chỉ có 17,5% số
người đạt tay nghề bậc 4/4; trong ngạch 5 bậc, tỷ lệ bậc 5/5 chiếm 20,8%; ngạch 6 bậc,

thợ bậc 6/6 chiếm 5,9%; ngạch 7 bậc, thợ bậc 7/7 chỉ có 3,2%.[8, trang22-23] Nền kinh tế
nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhân loại đang
bước vào nền kinh tế tri thức mà bản thân người lao động không biết nghề hoặc biết nghề
không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm việc làm vì ngày nay người ta quan tâm chủ yếu
đến chất lượng lao động chứ không tập trung vào khai thác số lượng lao động như trước
đây
4.5. Đánh giá vấn đề xóa đói giảm nghèo
Việt Nam đã thành công trong nỗ lực giảm tỷ lệ nghèo từ hơn 60% vào năm 1990
xuống còn 18,1% vào năm 2004, phần lớn nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với mức
tăng bình quân 8-9% mỗi năm. Duy trì được đà tăng trưởng kinh tế hiện nay là điều kiện
cần nhưng chưa đủ. Tăng trưởng phải đi liền với bình đẳng và phải mang lại lợi ích cho
tất cả các vùng và các nhóm dân cư trong nước. Phần đông người nghèo ở Việt Nam sống
trong hoàn cảnh bị tách biệt – về mặt địa lý, dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế. Kinh
nghiệm của các nước khác cho thấy rằng lợi ích thực sự của tăng trưởng kinh tế ít đến
được với các nhóm người chịu thiệt thòi này.

×