Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tài liệu môn xây dựng đảng - So sánh pháp luật phong kiến với pháp luật chiếm hữu nô lệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.79 KB, 11 trang )

So sánh Pháp luật phong kiến với pháp luật chiếm hữu nô lệ?
phap luat phong kien co 2 loai la
-Hoàng Việt luật lệ được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật
Hồng Đức (là bộ luật của nhà Lê), và bộ luật của nhà Thanh, tuy nhiênđã
được chỉnh sửa và cập nhật cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam
lúc bấy giờ.[6]
Bảng (hay đồ): quy định về phương hướng xử lí đối với những tài sản có
được một cách bất hợp pháp. Thể lệ nộp phạt chuộc tội, chí tiết về ngũ hình,
các dụng cụ dùng trong tù, và trang phục tang chế. Danh lệ quy định về
những nguyên tắc tổng quát về tội phạm và hình thức trừng phạt. Phần dẫn
đều luật dùng để hướng dẫn việc so sánh các hình phạt và vận dụng luật
trong trường hợp vụ việc mà luật không quy định tới. Hộ luật là các luật về
hộ tịch, tài sản, hôn nhân, thuế, nợ nần, tiền chợ búa.[2]
-Trong bộ luật Hồng Đức, các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là
các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất.
[sửa]Sở hữu và hợp đồng
QTHL đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là:
sở hữu nhà nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư).
Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn
diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước
về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi
vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như: không được bán ruộng đất công
(điều 342), không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343),
không được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344),
cấm làm sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347), không để bỏ
hoang ruộng đất công (điều 350), cấm biến ruộng đất công thành tư (điều
353), không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) v.v
Bên cạnh đó việc bảo hộ quyền sở hữu tư nhân/ hợp đồng về ruộng đất tư
cũng được quy định rõ ràng. Chẳng hạn, cấm xâm lấn ruộng đất của người
khác (điều 357), cấm tá điền tranh ruộng đất của chủ (điều 356), cấm ức hiếp
để mua ruộng đất của người khác (điều 355) v.v


Qua một số quy định trên, có thể thấy bộ luật đã điều chỉnh 3 loại hợp đồng
về ruộng đất:
Mua bán ruộng đất
Cầm cố ruộng đất
Thuê mướn ruộng đất
Về hình thức, các hợp đồng thường phải lập thành văn tự giữa các bên tham
gia hợp đồng với sự chứng thực của quan viên có thẩm quyền.
[sửa]Thừa kế
Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi
với các quan điểm hiện đại về thừa kế. Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không
phát sinh các quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của
gia đình, dòng họ. Thứ hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354,
388) và thừa kế không di chúc (thừa kế theo luật) với các điều 374-377, 380,
388. Điểm đáng chú ý trong bộ luật Hồng Đức, người con gái có quyền thừa
kế ngang bằng với người con trai. Đây là một điểm tiến bộ không thể thấy ở
các bộ luật phong kiến khác. Thứ ba, bộ luật đã phân định về nguồn gốc tài
sản của vợ chồng, gồm có: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của
cả hai vợ chồng. Việc phân định này góp phần xác định việc phân chia thừa
kế cho các con khi cha mẹ đã chết hoặc chia tài sản cho bên còn sống nếu
một trong hai vợ hoặc chồng chết trước. Thừa kế chính là điểm nổi bật nhất
của luật pháp triều Lê.
[sửa]Trách nhiệm dân sự
Bài chi tiết: Chế định trách nhiệm dân sự trong Luật Hồng Đức
Luật Hồng Đức cũng quy định trách nhiệm dân sự của các bên tham gia
quan hệ, với những nội dung khá chặt chẽ, cụ thể.
[sửa]Các quy định hình sự
[sửa]Các nguyên tắc chủ đạo
Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ
nội dung của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự chủ yếu của nó là:
Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ

khép tội khi trong bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng
đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự
hiện đại.
Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối
với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v
Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng,
biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập
ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất
răn đe, giáo dục) không cho chuộc.
Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy
định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay
cho người khác.
Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy
định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ
chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh
lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).
Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)
[sửa]Tội phạm
Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)
Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội
Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội
Tính chất đồng phạm
[sửa]Các nhóm tội cụ thể
Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:
Các tội liên quan đến vương quyền: mưu phản, mưu đại nghịch (điều 2,
411), mưu bạn (phản bội tổ quốc-điều 412), đại bất kính (430, 431).
Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân-gia đình: ác nghịch (điều 416), bất
hiếu (nhiều điều, chẳng hạn điều 475), bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
Tội liên quan đến tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo: bất đạo (420 và
421).

Các nhóm tội phạm khác: bao gồm các tội liên quan đến sự an toàn thân thể
của vua, nghi lễ cung đình, xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính,
thể thức nghi lễ triều đình, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm con người, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội,
các tội phạm quân sự, xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất, xâm phạm chế độ
hôn nhân-gia đình, các tội tình dục, các tội xâm phạm chế độ tư pháp v.v
[sửa]Hình phạt
Quan niệm về hình phạt trong bộ luật khá chi tiết nhưng cứng nhắc với
khung hình phạt thường là cố định, tuy rằng có tính đến các tình tiết tăng
nặng hay giảm nhẹ (điều 41).
Các hình phạt cụ thể có ngũ hình và các hình phạt khác.
[sửa]Ngũ hình
Ngũ hình được quy định tại điều 1 và bao gồm: xuy, trượng, đồ, lưu, tử.
Xuy (đánh bằng roi) có 5 bậc: 10, 20, 30, 40, 50 roi, có thể kèm phạt tiền và
biếm chức, áp dụng cả cho nam và nữ.
Trượng (đánh bằng gậy) cũng có 5 bậc: 60, 70, 80, 90 và 100 trượng, chỉ áp
dụng cho nam.
Đồ có 3 bậc là:
Dịch đinh kèm 80 trượng cho nam và dịch phụ kèm 50 roi cho nữ. Dịch
đinh/dịch phụ có nhiều hạng là:
Thuộc đinh: phục dịch ở các viện (dành cho quan chức có tội)
Quân đinh: phục dịch ở các sảnh
Khao đinh: phục dịch ở trong trại lính
Xã đinh: phục dịch ở các xã (dành cho thường dân nam có tội)
Thứ phụ: phục dịch công việc ở làng (dành cho thường dân nữ có tội)
Viên phụ: làm các công việc trong vườn (dành cho vợ các quan chức)
Tang thất phụ: phục dịch ở các nơi nuôi tằm, nếu phạm tội nặng
Tượng phường binh (quét dọn chuồng voi kèm 80 trượng và thích 2 chữ vào
mặt) cho nam và xuy thất tỳ (nấu cơm nuôi quân kèm 50 roi và thích 2 chữ
vào cổ) cho nữ.

Chủng điền binh (lính lao động ở đồn điền của nhà nước kèm 80 trượng và
thích vào cổ 4 chữ, phải đeo xiềng) cho nam và thung thất tỳ (xay thóc giã
gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước kèm 50 roi và thích vào cổ 4 chữ)
cho nữ.
Lưu tức lưu đày đi nơi xa, có 3 bậc là:
Lưu cận châu, đày đi làm việc nặng ở Nghệ An với hình phạt phụ là thích
vào mặt 6 chữ, đánh 90 trượng, đeo xiềng dành cho nam và đánh 50 roi cho
nữ.
Lưu ngoại châu: Lưu đày đến Bố Chánh, Quảng Bình. Phụ hình có 90
trượng, thích 8 chữ vào mặt, đeo xiềng 2 vòng dành cho nam và đánh 50 roi
cho nữ.
Lưu viễn châu: đày đi Cao Bằng. Phụ hình gồm 100 trượng, thích 10 chữ
vào mặt, đeo xiềng 3 vòng cho nam, đánh 50 roi cho nữ.
Tử (giết chết) có 3 bậc là:
Giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu)
Khiêu (chém bêu đầu)
Lăng trì (tùng xẻo) tức xẻo từng miếng thịt rồi mổ bụng, moi ruột cho đến
chết, sau đó còn bị cắt rời chân tay và bẻ gãy hết xương.
[sửa]Các hình phạt khác
Ngoài ngũ hình, luật Hồng Đức còn áp dụng các hình phạt khác như:
Biếm tư (điều 27, 46) bao gồm các bậc từ 1 đến 5 tư nhưng có quy định cho
chuộc tội biếm bằng tiền theo điều 22. Biếm tư có thể được hiểu như một
hình thức làm hạ thấp tư cách của người bị phạt. Ngoài ra người bị phạt
biếm tư còn phải chịu hình phạt đánh roi (xuy hoặc trượng).
Phạt tiền (điều 26) có 3 bậc: 300-500 quan, 60-200 quan và 5-50 quan.
Ngoài ra còn có quy định về tiền bồi thường tang vật (điều 28), tiền đền
mạng (điều 29).
Tịch thu tài sản có 2 bậc là tịch thu toàn bộ gia sản (nặng theo điều 426, 430)
và tịch thu một phần tài sản (nhẹ, các điều 88, 523)
Thích chữ vào cổ hoặc mặt: Được áp dụng như là hình phạt phụ đối với các

tội lưu, đồ, trượng, xuy.
Xung vợ con làm nô tỳ. Chỉ áp dụng đối với các tội mưu phản, mưu đại
nghịch, mưu bạn trong thập ác (điều 411, 412).
[sửa]Các quy định trong hôn nhân-gia đình
Các nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hôn nhân của bộ luật là: hôn nhân
không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Nó thể hiện lễ
nghĩa Nho giáo, trật tự xã hội-gia đình phong kiến, tuy nhiên vẫn có một số
điểm tiến bộ.
[sửa]Hôn nhân
Trong lĩnh vực hôn nhân, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như kết hôn,
chấm dứt hôn nhân (do chết hoặc ly hôn).
[sửa]Kết hôn
Trong quan hệ kết hôn, luật quy định các điều kiện để có thể kết hôn là: có
sự đồng ý của cha mẹ (điều 314), không được kết hôn giữa những người
trong họ hàng thân thích (điều 319), cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ
hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam
cầm, tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em (anh), trò lấy vợ góa
của thày (điều 324), với một số quy định khác trong các điều 316, 323, 334,
338, 339. Tuy nhiên, luật Hồng Đức không quy định tuổi kết hôn, mặc dù
trong Thiên Nam dư hạ tập (phần lệ Hồng Đức hôn giá) có viết: "Con trai 18
tuổi, con gái 16 tuổi mới có thể thành hôn", có lẽ là do đã tồn tại một văn
bản khác cùng thời quy định về điều này. Luật Hồng Đức cũng quy định về
hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và thành hôn (các điều 314, 315,
322). Lưu ý là luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân có giá trị pháp lý từ
sau lễ đính hôn. Ví dụ điều 315 quy định: Gả con gái đã nhận đồ sính lễ mà
lại thôi không gả nữa thì phải phạt 80 trượng Còn người con gái phải gả
cho người hỏi trước. Tuy nhiên, nếu trong thời gian từ lễ đính hôn cho đến
khi thành hôn mà một trong hai bên bị ác tật hay phạm tội thì bên kia có
quyền từ hôn.
[sửa]Chấm dứt hôn nhân

Luật Hồng Đức quy định các trường hợp chấm dứt hôn nhân là: một trong
người đã chết, ly hôn.
Về trường hợp chấm dứt hôn nhân do một trong hai người đã chết cần lưu ý
là quan hệ hôn nhân chỉ thực sự chấm dứt ngay nếu người chết là vợ, còn
nếu là chồng chết thì nó chỉ chấm dứt sau khi mãn tang. Quy định này được
đặt ra một cách gián tiếp trong các điều 2 và 320.
Về trường hợp ly hôn có ba nhóm sau:
Buộc phải ly hôn (các điều 317, 318, 323, 324, 334) do hôn nhân đã vi phạm
các quy định cấm kết hôn.
Ly hôn do lỗi của người vợ: Điều 310 quy định người chồng phải ly hôn khi
người vợ phạm phải điều nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng)
như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm
đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp.
Ly hôn do lỗi của người chồng: Các điều 308 / 333 quy định người vợ có
quyền trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại
(có quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay nếu con rể lấy
điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ.
[sửa]Quan hệ gia đình
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ luật đã điều chỉnh các quan hệ như quan
hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thân thuộc
khác (vợ cả-vợ lẽ, anh-chị-em, cha mẹ-con nuôi, vai trò của người tôn
trưởng tức trưởng họ).
Quan hệ vợ-chồng: Phong tục tập quán và lễ nghĩa Nho giáo đã điều chỉnh
quan hệ vợ-chồng, tuy nhiên luật Hồng Đức cũng có các quy định nhằm điều
chỉnh các quyền và nghĩa vụ nhân thân như: Nghĩa vụ phải chung sống tại
một nơi và phải có trách nhiệm với nhau (các điều 321 và 308, 309), không
được ngược đãi vợ (điều 482), nghĩa vụ chung thủy (điều 401, 405), nghĩa
vụ để tang nhau (các điều 2, 7).
Quan hệ cha mẹ-con cái: Đề cập tới các nghĩa vụ và quyền nhân thân của
con cái, bao gồm: nghĩa vụ phải vâng lời và phụng dưỡng cha mẹ, ông bà

(khoản 7 điều 2), nghĩa vụ chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ (điều
38), nghĩa vụ không được kiện cáo ông bà-cha mẹ (điều 511), nghĩa vụ che
dấu tội cho ông bà, cha mẹ (các điều 9, 504), ngoại trừ trường hợp cha mẹ
hay ông bà phạm các tội mưu phản, mưu đại nghịch, cha mẹ nuôi giết con đẻ
hay mẹ đẻ-mẹ kế giết cha thì được phép tố cáo và nghĩa vụ để tang ông bà-
cha mẹ (điều 2).
Quan hệ nhân thân khác: Đề cập tới quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ (các điều 309,
481, 483, 484) và nhà chồng, anh-chị-em (các điều 487, 512), nuôi con nuôi
(các điều 380, 381, 506) và vai trò của người trưởng họ (điều 35).
Trong quan hệ vợ cả-vợ lẽ thì ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với
chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói
chung được ưu tiên hơn. Về quan hệ anh-chị-em thì người anh trưởng có
quyền và nghĩa vụ đối với các em, nhất là khi cha mẹ đã chết, đồng thời
cũng bảo vệ sự hòa thuận trong gia đình (phạt nặng đánh lộn, kiện cáo
nhau). Việc nhận nuôi con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử
như con đẻ cũng như ngược lại, con nuôi phải có nghĩa vụ như con đẻ đối
với cha mẹ nuôi.
[sửa]Các quy định tố tụng
Mặc dù không được tách bạch ra thành các chương riêng rẽ, nhưng luật
Hồng Đức đã thể hiện một số khái niệm của luật tố tụng hiện đại như:
Thẩm quyền và trình tự tố tụng của các cấp chính quyền (điều 672)
Thủ tục tố tụng (phần lớn của hai chương cuối) như đơn kiện- đơn tố cáo
(các điều 508, 513, 698), thủ tục tra khảo (các điều 546, 660, 665, 667, 668,
714, 716), thủ tục xử án (các điều 671, 709), phương pháp xử án (các điều
670, 683, 686, 708, 714, 720, 722), thủ tục bắt người (các điều 646, 658,
659, 663, 676, 680, 701-704).
[sửa]So sánh
Giống như các bộ luật phong kiến khác, luật Hồng Đức thể hiện rõ bản chất
giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị
và quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia

trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức
Nho giáo. Tuy vậy, không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó.
[sửa]Luật Trung Hoa
Luật Hồng Đức tiếp thụ nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa, chịu ảnh
hưởng của cả luật pháp nhà Đường và nhà Minh. Tuy vậy, nó có những điểm
không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội
dung lẫn bố cục.
Về bố cục, bộ Đường luật có 500 điều chia thành 12 chương (Danh lệ, Vệ
cấm, Chức chế, Hộ hôn, Khai khố, Thiện hưng, Đạo tặc, Đấu tụng, Trá
ngụy, Tạp luật, Bộ vong, Đoán ngục) trong 30 quyển. Có thể thấy, trong luật
Hồng Đức các quy định về các nhóm tội tình dục và các vấn đề ruộng đất
được quy định riêng biệt và cụ thể hơn.
Về nội dung, các quy định về hôn nhân-gia đình, điền sản của luật Hồng
Đức được chú trọng hơn so với Đường luật (quy định cụ thể về văn tự, chúc
thư, chế độ và phương thức chia thừa kế, tài sản của vợ-chồng khi góa bụa
v.v). Chính vì thế, sau này các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm
Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa hay dựa trên các quy định này của luật
Hồng Đức để phân xử các vụ kiện tụng liên quan tới tài sản vợ-chồng.
[sửa]Bộ luật nhà Nguyễn
So với bộ Hoàng Việt luật lệ (HVLL hay luật Gia Long) (năm 1811) ra đời
sau hàng thế kỷ, có thể thấy luật Hồng Đức chưa có tính khái quát hóa cao
và phân ngành rõ như HVLL. Tuy nhiên, sự bảo vệ quyền lợi của người phụ
nữ trong luật Hồng Đức lại tốt hơn so với HVLL. Như giáo sư Vũ Văn Mẫu
đã viết khi nhận xét về HVLL "bao nhiêu những sự tân kỳ mới lạ trong bộ
luật triều Lê đã không còn lưu lại một chút dấu tích nào trong luật nhà
Nguyễn. Không còn những điều khoản liên quan đến hương hỏa, đến chúc
thư, đến các điều kiện về giá thú, đến chế độ tài sản của vợ chồng."[3].
Ngoài ra, Luật Hồng Đức còn được đánh giá là nhẹ hơn các triều đại trước
và nhẹ hơn luật của nhà Nguyễn sau này, có cả sự phân biệt trừng phạt người
phạm tội còn nhỏ hoặc tàn tật[4].

[sửa]Các điểm tiến bộ
Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó có một tiến khá căn bản trong việc
cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vai trò của người
phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu
vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng
chết) và họ có quyền thừa kế như nam giới[5].
Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với
phạm nhân nam.
Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng
phạt rất nặng các tội như phá hoại đê điều (điều 596), chặt phá cây cối và lúa
má của người khác (điều 601), tự tiện giết trâu ngựa (điều 580) v.v
Điểm thứ tư, luật Hồng Đức thể hiện sự quan tâm và bảo vệ dân thường.
Trong bộ luật có nhiều điều trừng phạt nghiêm khắc những người quyền quý
ức hiếp, nhũng nhiễu thường dân (các điều 294, 300, 302, 304, 365).
ban oi ko fai la phap luat chiem huu no le ma la che do chiem huu no le

×