Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Phân tích báo cáo tài chính ACB giai đoạn 2008-2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC





QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH ACB
GIAI ĐOẠN 2008-2012


GVHD: PGS.TS: TRƯƠNG QUANG THÔNG
LỚP: NH Đêm 1 – Khóa 22 – Nhóm 7
DSN: Cao Nữ Nguyệt Anh
Hoàng Thị Khánh Hội
Trần Ngọc Uyên Phương
Lê Thị Phương Thảo
Mai Nguyễn Huyền Trang


Tháng 11 năm 2013
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1 –K22




1
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008-2012: 2


1.1 Tình hình kinh tế xã hội: 2
1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. 3
1.2.1 Giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô sau khủng hoảng. 3
1.2.2 Giai đoạn kích cầu 2009. 3
1.2.3 Giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng nhằm ổn định và duy trì mục tiêu
tăng trưởng năm 2010. 4
1.2.4 Giai đoạn ưu tiên vĩ mô, kiềm chế lạm phát 2011-2012 4
1.3 Đặc điểm hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2012: 4
II. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ACB 11
1.2 Hình thành và quá trình phát triển ACB 11
2.1.1 Thông tin chung của Ngân hàng ACB 11
2.1.2 Quá trình phát triển của Ngân hàng ACB 12
2.2 Tầm nhìn và chiến lược hoạt động 14
2.2.1 Tầm nhìn 14
2.2.2 Chiến lược hoạt động 14
2.3 Cơ cấu tổ chức 16
III. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA ACB: 17
3.1 Các chỉ tiêu đo lường quy mô hoạt động của ACB 17
3.1.1 Qui mô tốc độ tăng trưởng: 17
3.1.2 So sánh với các NHTM khác: 21
3.1.3 Cơ cấu cho vay: 22
3.1.4 Tương quan giữa kì hạn tiền gửi và cho vay: 24
3.2 Các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động của ACB: 26
3.2.1 Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản – ROA: 26
3.2.2 Các chỉ tiêu thu nhập cận biên: 28
3.3 Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro: 30
3.3.1 Rủi ro thanh khoản: 30
3.3.2 Rủi ro tín dụng 33
IV. KẾT LUẬN: 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




2

I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH KINH TẾ VÀ HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2012:

1.1 Tình hình kinh tế xã hội:
Sau giai đoạn 2000-2007 đạt mức tăng trưởng cao, những vấn đề bất ổn về kinh tế vĩ
mô giai đoạn 2008-2011 cho thấy mô hình tăng trưởng theo chiều rộng của Việt Nam đã
đi đến giới hạn. Để tránh khỏi vết xe đổ của nhiều nước ASEAN, Việt Nam cần một cuộc
cải cách toàn diện và triệt để về thể chế cũng như chính sách, nhằm nâng cao hiệu quả
phân bố và sử dụng các nguồn lực, tức là phải thực hiện một cuộc đổi mới lần 2.
Giai đoạn 2008-2011: Hồi kết của một kỷ nguyên tăng trưởng cao. Kể từ 2008 đến
nay, Việt Nam đã phải trải qua 3 giai đoạn bất ổn về kinh tế vĩ mô: Lần thứ nhất xảy ra
vào giữa năm 2008; lần thứ hai xảy ra vào cuối năm 2009 và đầu năm 2010 và cả năm
2011
Mặc dù có quy mô khác nhau nhưng các giai doạn bất ổn về kinh tế vĩ mô nói trên
đều có cùng diễn biến, nguyên nhân, cũng như hệ quả: lạm phát cao cùng với quy mô
thâm hụt thương mại lớn đã dẫn đến những lo ngại VND mất giá, từ đó thúc đẩy người
dân và doanh nghiệp chuyển đổi tài sản từ VND sang USD, khiến thanh khoản của hệ
thống ngân hang trở nên căng thẳng. Lãi suất trên thị trường từ đó gia tăng mạnh. Những
điều này lại xảy ra cùng với việc NHNN phải thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát đã
khiến tình hình càng trở nên trầm trọng.
Trong giai đoạn 2008-2010, tính trung bình, Việt Nam đã phải chịu mức lạm phát 2
con số; lãi suất huy động và cho vay kỳ hạn 12 tháng luôn ở mức cao. Tuy nhiên, tăng

trưởng kinh tế trong giai đoạn này lại ở mức dưới 7% so với mức trung bình của những
năm đầu thập kỷ 2000, do nền kinh tế phải chịu nhiều cú sốc về cung.
Các đợt thắt chặt tiền tệ, mặc dù đã khiến cho tổng đầu tư giảm và kéo thâm hụt
thương mại giảm theo nhưng về cơ bản, tổng đầu tư vẫn ở mức cao (khoảng 40% GDP)
do chi tiêu của Chính phủ vẫn còn lớn (khoảng 30% GDP). Ngoài ra, do tỷ lệ tiết kiệm
nội địa không tăng trong khi đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giảm nên trong giai đoạn
lạm phát và thâm hụt thương mại ở mức cao cùng người người dân tích trữ USD, tình
trạng căng thẳng về ngoại tệ vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Bên cạnh đó, hệ thống tài chính của Việt Nam còn phải chịu một số cú sốc về giá
vàng tăng, thúc đẩy người dân rút tiền khỏi hệ thống ngân hang để mua vàng và gây sức
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




3
ép lên tỷ giá hối đoái.

1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Có sự nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm mục tiêu duy trì
đà tăng trưởng. Mặc dù mục tiêu ổn định giá cả được tuyên bố là mục tiêu ưu tiên trong
luật NHNN nhưng lựa chọn cuối cùng luôn là vấn đề tăng trưởng. Có thể nhìn thấy điều
này cả trong giai đoạn kiềm chế lạm phát năm 2008, giai đoạn kích cầu năm 2009-2010
và cả giai đoạn thực hiện nghị quyết 11 tập trung ổn định vĩ mô năm 2011. Các chính
sách thực hiện trong các giai đoạn
1.2.1 Giai đoạn nhằm mục tiêu ổn định vĩ mô sau khủng hoảng.
Từ đầu năm 2008, NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt
để kiềm chế lạm phát
- Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả

các kỳ hạn;
- Phát hành bắt buộc 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN và quy định các tín phiếu
NHNN không được sử dụng để vay tái cấp vốn tại NHNN;
- Lãi suất cơ bản được điều chỉnh lên mức 12 rồi 14%. Hệ thống lãi suất điều hành
gồm cặp lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng lên 15% và 13%
- Khống chế mức tín dụng và yêu cầu kiểm soát chặt những lĩnh vực cho vay có
rủi ro cao, đặc biệt cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản…
- Cùng với CSTT, chính sách cắt giảm chi tiêu công cũng được đặt ra thông qua
chủ trương rà soát, sắp xếp giảm chi đầu tư các dự án chưa thực sự cấp bách, các
dự án có khả năng đưa vào sử dụng trong năm 2008, tiết kiệm thêm 10% chi
thường xuyên.
1.2.2 Giai đoạn kích cầu 2009.
Từ cuối 2008, CSTT lại hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm đối phó
với suy thoái kinh tế trong nước và khủng hoảng kinh tế thế giới thông qua các công cụ:
- Triển khai thực hiện cơ chế hổ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền
- Hạ lãi suất cơ bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn
xuống 7,5% và 9,5%
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền đồng xuống còn 5%
- Thực hiện thanh toán trước hạn 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN. Nghiệp vụ thị
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




4
trường mở chủ yếu là mua giấy tờ có giá để cung ứng thêm tiền;
- Duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong suốt năm 2009, tăng lên 8% vào 11/2009
1.2.3 Giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mô thận trọng nhằm ổn định và duy
trì mục tiêu tăng trưởng năm 2010.

Kiềm chế mức lạm phát khoảng 7% và theo đuổi mục tiêu tăng trưởng khoảng
6,5%.Xem xét và nâng cao tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng theo thông tư
13 và thông tư 19/2010/NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
của các TCTD đã thệ hiện một động thái tích cực của NHNN nhằm hạn chế việc cung
ứng tín dụng quá năng lực dự phòng rủi ro và đảm bảo an toàn của từng ngân hang và hệ
thống.
Tuy nhiên, nửa đầu 2010, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng chỉ có hơn 10% và bị
chỉ trích chính sách tiền tệ quá chặt chẽ, kiềm chế tăng trưởng. Trong giai đoạn 6 tháng
cuối năm đã thực hiện giải pháp nới rộng cung tiền và CSTK cũng theo đuổi mục tiêu
nới rộng tổng cầu trong suốt năm 2010 nhằm kích thích tăng trưởng.
1.2.4 Giai đoạn ưu tiên vĩ mô, kiềm chế lạm phát 2011-2012
-Tuyên bố mục tiêu vĩ mô và cam kết và thục hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát
thể hiện sự nhất quán cao trong tư tưởng chỉ đạo của chính phủ theo nghị quyết
11/NQ-CP/2011 tháng 2/2011. Theo đó, cả CSTT và CSTK đều được yêu cầu sử dụng
triệt để các công cụ chính sách nhằm ưu tiên kiềm chế lạm phát. CSTT một lần nữa quay
lại thực hiện thắt chặt với mục tiêu trung gian gồm dư nợ tín dụng dưới 16%.
-Thực hiện CSTK thắt chặt, giảm chi thiêu công được đưa ra khá quyết liệt.
-Năm 2012 đã chuyển đổi mục tiêu từ kiềm chế lạm phát sang thúc đẩy phục hồi
kinh tế, sử dụng CSTT cho năm 2012. Cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất trần xuống
11%, liên tiếp hạ lãi suất chỉ đạo, áp trần lãi suất 15% rồi giảm xuống 14%. Cơ cấu lại
nợ và các giải pháp khác tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ
sản xuất kinh doanh hoặc quy định nới rộng tín dụng cho khu vực bất động sản với mục
đích thúc đảy sản xuất các ngành vật liệu xây dựng và giải phóng các khoản nợ đọng của
ngân hang trong tài sản đảm bảo là bất động sản.

1.3 Đặc điểm hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2012:
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động rất tiêu
cực đến kinh tế nước ta. Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, Ngân hàng
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





5
Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt, từ ưu tiên kiềm chế lạm
phát cao năm 2008 sang tập trung ngăn chặn suy giảm kinh tế năm 2009, khôi phục đà tăng
trưởng năm 2010 và kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế
năm 2011, 2012.

Mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu
Có thể nói rằng, vốn chủ sở hữu của một NHTM là thước đo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
cũng như tỷ lệ đòn bẩy tài chính. Vốn chủ sở hữu thấp dẫn đến rủi ro tiềm ẩn cho ngân
hàng khi nợ xấu phát sinh tăng vượt quá quy mô vốn chủ sở hữu. Trong trường hợp như
vậy, vốn chủ sở hữu đã bị ăn mòn hết. Hậu quả là ngân hàng rất dễ bị tổn thương và nguy
cơ phá sản rất cao. Để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn theo thông lệ Basel II, NHNN đã
yêu cầu các NHTMCP tăng vốn điều lệ từ 70 tỷ đồng lên 3.000 tỷ đồng bắt đầu thực hiện
từ năm 2007 và hạn chót là hết năm 2011. Chính vì vậy, vốn chủ sở hữu của các nhóm ngân
hàng cũng được mở rộng tương ứng bởi vì vốn điều lệ là thành phần chính của vốn chủ sở
hữu.
Vốn chủ sở hữu của NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh từ năm 2008 đến 2011 (Biểu
đồ 1) là nhờ có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi nhuận tăng trưởng cao trong giai đoạn
này đãkéo theo quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận giữlại tăng lên. Các ngân hàng
liên doanh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài có mức tăng trưởng vốn chủ sở hữu chậm
hơn là do không có phần thặng dư vốn cổ phần. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của 2 nhóm
NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm nhẹ năm 2012 so với năm 2011; trong khi vốn
chủ sở hữu của các NHTMNN vẫn tăng. Sự sụt giảm vốn chủ sở hữu của 2 nhóm ngân
hàng trên trong năm 2012 là do nợ xấu phát sinh tăng, nguồn lợi nhuận chưa phân phối của
năm 2011 sẽ được kết chuyển cho mục đích trích lập dự phòng rủi ro để giảm tỷ lệ nợ xấu
xuống mức an toàn và làm trong sạch bảng tổng kết tài sản hơn.

Nếu tăng vốn chủ sở hữu theo phương pháp cơ học thông qua phát hành cổ phiếu hàng
năm và trích dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5% từ nguồn lợi nhuận để lại, quy mô tăng vốn chủ
sở hữu rất chậm. Cụ thể, tỷ lệ tăng trưởng vốn bình quân của khu vực NHTMCP giai đoạn
2008-2012 là 20%, trong khi khu vực ngân hàng nước ngoài là 46% và khu vực NHTMNN
là 25%. Tăng vốn theo hình thức này sẽ có giới hạn nhất định bởi lợi nhuận không thể tăng
trưởng vô hạn. Giải pháp để tăng trưởng nhanh hơn là lựa chọn hình thức mua, bán, sáp
nhập với các TCTD khác.

GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




6
Sự thay đổi tổng tài sản giữa các khối ngân hàng
Sự thay đổi lớn của nhóm NHTMCP từ năm 2007 đã tạo ra sự chuyển dịch khác nhau
về tổng tài sản giữa các khối. Sự chuyển đổi của một số NHTMCP trước đây chỉ hoạt động
tại một khu vực nông thôn với địa bàn hẹp sang hoạt động trên phạm vi cả nước như
NHTMCP Bưu điện Liên Việt, NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội, NTHMCP Tiên Phong… đã
góp phần làm cho tổng tài sản của các NHTMCP tăng vọt từ năm 2008 đến năm 2011 với
mức tăng trưởng bình quân lên tới 46%, trong khi các NHTMNN chỉ tăng ở mức 29% và
ngân hàng nước ngoài ở mức 30%.


Diễn biến tổng tài sản của 3 khối ngân hàng trong giai đoạn 2008-2012 (Biểu đồ 2) cho
thấy xu hướng cũng tương đồng với xu hướng dịch chuyển của vốn chủ sở hữu. Tổng tài
sản của khối NHTMNN tăng trưởng ổn định trong cả giai đoạn, trong khi khối NHTMCP
sụt giảm tổng tài sản đến cuối năm 2012. Tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài cũng
theo xu hướng của NHTMCP, giảm nhẹ đến cuối năm 2012.

GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




7

Tổng tài sản của 2 khối NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh trong giai đoạn
2008-2011 là do quy mô hoạt động của nhiều ngân hàng được mở rộng, thặng dư cổ phiếu
sau đợt IPO ra công chúng từ 3 NHTMNN hoặc phát hành thêm cổ phiếu hoặc gia tăng
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ từ lợi nhuận của các NHTMCP. Nguyên nhân quan trọng
hơn cả giải thích sự tăng trưởng nhanh tổng tài sản của 2 khối NHTMNN vàNHTMCP là
sự bùng nổ mạng lưới chi nhánh của một số ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV,
ACB, Sacombank, Techcombank đã dẫn đến tốc độ tăng trưởng vượt bậc về huy động
vốn, khai thác hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Quy mô tổng tài sản của các ngân
hàng nước ngoài tăng trưởng chậm một phần do quy mô mạng lưới phát triển chậm so với
NHTMNN và NHTMCP, một phần là do người gửi tiết kiệm chưa tiếp cận với nhóm ngân
hàng này mặc dù họ có rất nhiều chương trình marketing, khuyến mại để thu hút nguồn
tiền gửi từ dân cư.
Năm 2012, tổng tài sản của khu vực NHTMNN vẫn tăng trưởng cao hơn so với năm
2011, trong khi hai khu vực NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm sút. Nguyên nhân
tổng tài sản của khu vực NHTMNN tăng một phần có sự đóng góp không nhỏ của việc
Vietcombank bán 15% vốn cổ phần cho ngân hàng Mizuho của Nhật Bản, tương đương
11.800 tỷ đồng với thặng dư vốn cổ phần lên tới hơn 8.300 tỷ đồng.

Huy động vốn của các khối ngân hàng:
Khoảng cách huy động vốn thu hẹp giữa khối NHTMNN và NHTMCP
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





8
Huy động vốn từ nền kinh tế của 3 khối ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ ràng, đặc biệt là
2 khối NHTMNN và NHTMCP. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của khu vực
NHTMCP tăng 33%/năm trong giai đoạn 2008-2012, trong khi NHTMNN chỉ tăng trung
bình 18% và ngân hàng nước ngoài tăng 20%. Nhờ tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao
nên khoảng cách số dư huy động giữa hai khu vực NHTMNN và ngân hàng nước ngoài
giảm rất nhiều, tiệm cận ngay từ năm 2010.
Huy động vốn của khu vực NHTMCP có bước tăng đột biến trong 3 năm từ
2009-2011 là do giai đoạn này các NHTMCP vẫn được quyền sử dụng công cụ lãi suất để
cạnh tranh huy động vốn. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng huy động vốn năm 2012 của
NHTMCP chững lại trong khi nhóm NHTMNN có tốc độ tăng cao hơn hẳn nhóm
NHTMCP. Điều này một phần do tác động của chính sách trần lãi suất huy động cũng như
giới hạn tín dụng của NHNN. Trần lãi suất huy động khiến nhiều người lựa chọn ngân
hàng có uy tín gửi tiền thay vì lựa chọn ngân hàng có mức lãi suất cao hơn. Hạn mức tín
dụng cũng làm xoa dịu sức ép nhu cầu vốn của nhiều ngân hàng, đặc biệt các ngân hàng sử
dụng tối đa nguồn vốn huy động từ nền kinh tế để cho vay.

Huy động vốn của khu vực NHTMNN tăng nhanh hơn trong năm 2012 so với hai khu
vực kia là do sự cố tại một sốNHTMCP. Thông tin về sự dịch chuyển nhân sự tại các
NHTMCP hàng đầu tại Việt Nam như: ACB, Sacombank và Eximbank đã tạo ra những tin
đồn về mất khả năng thanh khoản tại các ngân hàng này. Hậu quả là một lượng tiền lớn
được rút ra trong một một thời gian ngắn tại các ngân hàng này vàđược chuyển tới các
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





9
NHTMNN. Các ngân hàng nước ngoài có tốc độ tăng trưởng huy động vốn cũng theo xu
hướng chung của nền kinh tế. Khi chính sách tiền tệ được thắt chặt để kiểm soát lạm phát
từ cuối năm 2011, tốc độc tăng trưởng huy động vốn của khối ngân hàng nhà nước đã
chững lại trong năm 2012.
Tuy nhiên, quy mô huy động vốn giữa ba khu vực ngân hàng đã có sự thay đổi lớn từ
năm 2008 đến 2011. Nếu số dư huy động vốn năm 2008 giữa NHTMCP và ngân hàng
nước ngoài chỉ chênh lệch khoảng hơn 300 nghìn tỷ đồng thì sự chênh lệch giữa hai nhóm
đến cuối năm 2012 đã kéo rộng tới hơn 3,5 lần, tương đương với mức chênh lệch hơn 1,1
nghìn tỷ đồng. Như vậy, sự chênh lệch này cho thấy các NHTMCP đã rất nỗ lực trong việc
thực hiện chính sách giá, chăm sóc khách hàng và mở rộng quy mô hoạt động. Điều này
đồng nghĩa với việc các NHTMCP có đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước
ngoài có lợi thế hơn về kinh nghiệm quản lý, công nghệ và sự phát triển đa dạng sản phẩm
dịch vụ.
Ngược lại, khoảng cách huy động vốn giữa nhóm NHTMNN và NHTMCP đã thu
hẹp đáng kểtừnăm 2008 đến 2012. Nếu khoảng cách giữa 2 nhóm ngân hàng này là trên
300 nghìn tỷ năm 2008 thì khoảng cách đó đã thu hẹp xuống dưới 60 nghìn tỷ năm 2012.
Điều này khẳng định sựnỗlực của các NHTMCP trong việc mởrộng thịphần huy động vốn
nhằm tiến tới giảm sự phục thuộc nguồn vốn từ các NHTMNN cũng như tự chủ hơn nữa
trong quản trị thanh khoản.

Hoạt động tín dụng dịch chuyển về tỷ trọng:
Nếu khoảng cách về số dư huy động vốn có sự thay đổi mạnh mẽ trong vòng 4 năm
qua thì dư nợ của các nhóm ngân hàng này cũng có sự dịch chuyển nhưng chưa nhiều.
Biểu đồ 4 mô tả tín dụng của 3 khu vực này với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất trong
2 năm 2009-2010 thuộc về nhóm NHTMCP. Đây cũng chính lànhững năm tăng trưởng tín
dụng nóng dẫn đến lạm phát bùng nổ năm 2011 lên tới hơn 18%.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 và2012 đã chững lại do NHNN thực

hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thông qua kênh lãi suất (trần lãi suất huy động) và thông
qua kênh tín dụng (hạn mức tăng trưởng tín dụng vàhạn mức tín dụng thắt chặt cho một số
ngành không khuyến khích) đã chặn đà tốc độ tăng trưởng tín dụng. Kết quả là tốc độ tăng
trưởng tín dụng năm 2011 và2012 của cả 3 nhóm ngân hàng đều chững lại.
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




10


Các ngân hàng nước ngoài đã được phép huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư nhưng
tốc độ tăng trưởng huy động vốn tương đối thấp hơn so với 2 nhóm ngân hàng nên đã hạn
chế cho vay của các ngân hàng này. Một lý do khác giải thích cho sự chênh lệch giữa 2
nhóm NHTMCP và ngân hàng nước ngoài nới rộng ra làcác NHTMCP có thể đẩy mạnh
cho vay các khu vực tăng trưởng kinh tế nóng như lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn
2007-2010.
Khoảng cách này đã nới rộng đến 4 lần từ năm 2008 đến 2009. Tuy nhiên, lý do cũng
có thể là sự đầu tư an toàn của các ngân hàng nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro tín dụng (vì
kinh nghiệm và bài học của họ trải qua ở các nền kinh tế phát triển như ở Mỹ năm
2007-2008 hay ở Nhật Bản trong những năm đầu 1990).

Xu hướng cạnh tranh mới:
Các chỉ số chính vốn chủ sở hữu, tổng tài sản, huy động vốn và cấp tín dụng cho nền
kinh tế đã thấy rõ sự thay đổi. NHTMCP đã khẳng định vị thế, thị phần khi tăng trưởng
trung bình luôn cao hơn hai khối NHTMNN và ngân hàng nước ngoài. Vị thế cạnh tranh
và quyền lực thị trường của khu vực NHTMCP sẽ tiếp tục được cải thiện trong thời gian tới
vì đã có sự thay đổi lớn trong khối này. NHTMCP Liên Việt hợp nhất với Công ty tiết kiệm

Bưu điện sẽ có lợi thế phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ thông qua việc khai thác gần
10.000 điểm giao dịch tiết kiệm trải rộng trên cả nước. NHTMCP Sài Gòn-Hà Nội hợp
nhất với NHTMCP Nhà Hà Nội tạo ra NHTMCP với quy mô rộng lớn, mở rộng thị phần
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




11
và nâng cao quyền lực thị trường.
Hàng loạt sự sáp nhập hoặc cấu trúc lại của các NHTMCP Phương Tây, Đại Á, Tiên
Phong, Dầu khí toàn cầu cũng củng cố năng lực cạnh tranh của khu vực này. Một điểm nổi
bật là thời gian tới sẽ là sự sáp nhập của 2 ngân hàng lớn của khu vực NHTMCP là
Eximbank và Sacombank. Quy mô hoạt động của hai ngân hàng này sau sáp nhập sẽ tiến
sát quy mô của Vietcombank. Theo báo cáo tài chính riêng lẻ, tổng tài sản của Sacombank
và Eximbank đến hết năm 2012 đạt 321.483 tỷ đồng, trong khi của Vietcombank đạt 414
tỷ đồng (trong đó có 118.000 tỷ từ phát hành cổ phiếu cho Mizuho). Tương tự như vậy, tín
dụng của hai ngân hàng đạt 167.591 tỷ đồng và huy động vốn 177.603 tỷ đồng, trong khi
của Vietcombank lần lượt là 239.773 tỷ đồng và 285.096 tỷ đồng.
Như vậy, xu hướng cạnh tranh đang có sự thay đổi lớn, NHTMCP đã tạo được hình ảnh
và vị thế nhiều hơn, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, sự lớn mạnh
của khu vực NHTMCP sẽ là thách thức khi NHTMNN cũng quyết tâm giữ vững thị phần,
trong khi khối ngân hàng nước ngoài đầy tham vọng mở rộng thị phần để tạo ra nền tảng
phát triển bền vững và nâng cao sức mạnh của các hoạt động liên quan đến đồng nội tệ
thay vì chỉ khai thác lợi thế từ hoạt động liên quan đến ngoại tệ như trước đây.


II. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG ACB


1.2 Hình thành và quá trình phát triển ACB
Ra đời vào năm 1993, đến nay ngân hàng ACB đã có bề dày 20 năm thành lập và
phát triển.Từ những ngày đầu thành lập, ngân hàng đã xác định trở thành NHTMCP bán
lẻ hàng đầu Việt Nam với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ.

2.1.1 Thông tin chung của Ngân hàng ACB
• Ngày thành lập: 13/5/1993 (theo giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân
TP. HCM cấp).
• Ngày chính thức đi vào hoạt động: 04/06/1993.
• Mã chứng khoán: ACB.
• Ngày niêm yết: 31/10/2006 theo Quyết định số 21/QĐ-TTGDHN.
• Vốn điều lệ: 9.376.965.060.000 đồng (31/12/2012).
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




12

2.1.2 Quá trình phát triển của Ngân hàng ACB
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tóm tắt lại một số diễn biến giai đoạn gắn liền
với quá trình phát triển 20 năm qua của Ngân hàng ACB.

• Giai đoạn 1993 - 1995: Đây là giai đoạn hình thành ACB. Những người sáng lập
ACB có năng lực tài chính, học thức và kinh nghiệm thương trường, cùng chia sẻ một
nguyên tắc kinh doanh là “quản lý sự phát triển của doanh nghiệp an toàn, hiệu quả” và
đó là chất kết dính tạo sự đoàn kết. Giai đoạn này, xuất phát từ vị thế cạnh tranh, ACB
hướng về khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân, với
quan điểm thận trọng trong việc cấp tín dụng, đi vào sản phẩm dịch vụ mới mà thị

trường chưa có (cho vay tiêu dùng, dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, thẻ tín
dụng).

• Giai đoạn 1996 - 2000: ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt
Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế MasterCard và Visa. Năm 1997, ACB bắt đầu tiếp
cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại theo một chương trình đào tạo toàn diện kéo dài hai
năm, do các giảng viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua
chương trình này, ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành của một
ngân hàng hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh
vực ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt Nam. Năm 1999,
ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin ngân hàng, xây dựng hệ
thống mạng diện rộng nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa hoạt động giao dịch. Cuối
năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The
Complete Banking Solution: Giải pháp ngân hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh
và phòng giao dịch nối mạng với nhau, giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập
trung. Năm 2000, ACB đã thực hiện tái cấu trúc như là một bộ phận của chiến lược phát
triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh
doanh và hỗ trợ. Việc tái cấu trúc nhằm đảm bảo sự chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống,
sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù hợp với từng
phân đoạn khách hàng, quan tâm đúng mức việc phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro.

• Giai đoạn 2001 - 2005: Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




13


theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực huy
động vốn, cho vay ngắn hạn và trung dài hạn, thanh toán quốc tế và cung ứng nguồn lực
tại Hội sở. Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Charterd (SCB) ký kết thỏa thuận
hỗ trợ kỹ thuật toàn diện và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB triển khai
giai đoạn hai của chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, bao gồm các cấu phần
nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân hàng bằng một phần
mềm mới có khả năng tích hợp với nền công nghệ lõi hiện có, và lắp đặt hệ thống máy
ATM.

• Giai đoạn 2006 - 2010: ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội vào tháng 11/2006. Năm 2007, ACB đẩy nhanh việc mở rộng mạng lưới hoạt động,
thành lập mới 31 chi nhánh và phòng giao dịch, thành lập Công ty Cho thuê tài chính
ACB. ACB cũng hợp tác với các đối tác như Open Solutions (OSI) - Thiên Nam để nâng
cấp hệ ngân hàng cốt lõi, hợp tác với Microsoft về áp dụng công nghệ thông tin vào vận
hành và quản lý, hợp tác với SCB về phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10 triệu cổ
phiếu mệnh giá 100 tỷ đồng, với số tiền thu được là hơn 1.800 tỷ đồng. Năm 2008, ACB
thành lập mới 75 chi nhánh và phòng giao dịch, hợp tác với American Express về séc du
lịch, triển khai dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ JCB. Trong năm này, ACB tăng vốn
điều lệ lên 6.355 tỷ đồng. Năm 2009, ACB hoàn thành cơ bản chương trình tái cấu trúc
nguồn nhân lực, tái cấu trúc hệ thống kênh phân phối, xây dựng mô hình chi nhánh theo
định hướng bán hàng. Tăng thêm 51 chi nhánh và phòng giao dịch. Hệ thống chấm điểm
tín dụng đối với khách hàng cá nhân và doanh nghiệp cũng đã hoàn thành và áp dụng
chính thức. Hệ thống bàn trợ giúp (help desk) bắt đầu được triển khai. Năm 2010, ACB
tập trung vào công tác dự báo tình hình để có các quyết sách phù hợp với từng thời gian
cũng như tìm các giải pháp linh hoạt nhằm thực thi nghiêm túc các quyết định của các
cơ quan nhà nước, đảm bảo an toàn và hiệu quả hoạt động.

• Năm 2011: ACB xây dựng chương trình chuyển đổi hệ thống quản trị điều hành
trong Định hướng chiến lược và tầm nhìn giai đoạn 2011-2020. ACB đã khánh thành
Trung tâm Dữ liệu dạng mô đun tại TPHCM với tổng giá trị đầu tư gần 2 triệu USD.

Đây cũng là trung tâm dữ liệu xây dựng theo chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam. Trong
năm, ACB đưa vào hoạt động thêm 45 chi nhánh và phòng giao dich.
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




14



• Năm 2012: Sự cố tháng 08/2012 đã tác động đáng kể đến nhiều mặt hoạt động
của ACB, đặc biệt là huy động và kinh doanh vàng. ACB đã ứng phó tốt sự cố rút tiền
xảy ra trong tuần cuối tháng 8. Sau đó, nhanh chóng khôi phục số dư huy động tiết kiệm
VND chỉ trong thời gian 2 tháng. Đáng lưu ý là tuy tổng tiền gửi khách hàng có giảm
nhưng huy động tiết kiệm VND của ACB tăng trưởng 16,3% so với đầu năm. ACB cũng
lành mạnh hóa cơ cấu bảng tổng kết tài sàn thông qua việc xử lý các tồn đọng liên quan
đến hoạt động kinh doanh vàng theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước. Trong năm
2012, ACB thành lập mới 16 chi nhánh và phòng giao dịch, nâng tổng số chi nhánh và
phòng giao dịch trên cả nước lên thành 345 đơn vị.

2.2 Tầm nhìn và chiến lược hoạt động
2.2.1 Tầm nhìn
Ngay từ những ngày đầu thành lập, tầm nhìn của Ngân hàng ACB đã xác định là trở
thành một NHTMCP bán lẻ hàng đầu Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam
vào thời điểm đó “Ngân hàng bán lẻ với khách hàng mục tiêu là cá nhân, doanh nghiệp
vừa và nhỏ” là một định hướng rất mới đối với ngân hàng Việt Nam, nhất là một ngân
hàng mới thành lập như ACB.
2.2.2 Chiến lược hoạt động

Cơ sở cho việc xây dựng chiến lược hoạt động qua các năm là:
- Tăng trưởng cao bằng cách tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu khách
hàng và hướng tới khách hàng;
- Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp để đảm bảo
cho sự tăng trưởng được bền vững;
- Duy trì tình trạng tài chính ở mức độ an toàn cao, tối ưu hóa việc sử dụng vốn cổ
đông (ROE mục tiêu là 30%) để xây dựng ACB trở thành một định chế tài chính vững
mạnh có khả năng vượt qua mọi thách thức trong môi trường kinh doanh còn chưa hoàn
hảo của ngành ngân hàng Việt Nam;
- Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên chuyên
nghiệp nhằm đảm bảo quá trình vận hành của hệ thống liên tục, thông suốt và hiệu quả;
Xây dựng “Văn hóa ACB” trở thành yếu tố tinh thần gắn kết toàn hệ thống một cách
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




15

xuyên suốt.
ACB đang từng bước thực hiện chiến lược tăng trưởng ngang và đa dạng hóa.
Chiến lược tăng trưởng ngang: thể hiện qua ba hình thức.
- Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: Trên phạm vi toàn quốc, ACB đang
tích cực phát triển mạng lưới kênh phân phối tại thị trường mục tiêu, khu vực thành thị
Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để
cung cấp cho thị trường đang có và thị trường mới trong tình hình yêu cầu của khách
hàng ngày càng tinh tế và phức tạp. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, ACB sẽ mở văn
phòng đại diện tại Hoa Kỳ.
- Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với các đối tác chiến lược: ACB đã xây

dựng được mối quan hệ với các định chế tài chính khác, thí dụ như các tổ chức thẻ quốc
tế (Visa, MasterCard), các công ty bảo hiểm (Prudential, AIA, Bảo Việt, Bảo Long),
chuyển tiền Western Union, các ngân hàng bạn (Banknet), các đại lý chấp nhận thẻ, đại
lý chi trả kiều hối, v.v Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, ACB đang quan hệ hợp tác
với các định chế tài chính và các doanh nghiệp khác để cùng nghiên cứu phát triển các
sản phẩm tài chính mới và ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng hệ thống kênh
phân phối đa dạng. Đặc biệt, ACB đã có một đối tác chiến lược là SCB, Ngân hàng nổi
tiếng về các sản phẩm của ngân hàng bán lẻ. ACB đang nỗ lực tham khảo kinh nghiệm,
kỹ năng chuyên môn cũng như công nghệ của các đối tác để nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình cho quá trình hội nhập.
- Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: ACB ý thức là cần phải xây dựng
năng lực tiếp nhận đối với loại tăng trưởng không cơ học này và thực hiện chiến lược
hợp nhất và sáp nhập khi điều kiện cho phép.
Đa dạng hóa
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà ACB quan tâm thực hiện, ACB
đã có các công ty: Công ty chứng khoán ACB, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản
(ACBA), Công ty Cho thuê tài chính và Công ty Quản lý quỹ. Với vị thế cạnh tranh đã
được thiết lập khá vững chắc trên thị trường, trong thời gian sắp tới, ACB có thể xem xét
thực hiện chiến lược đa dạng hóa tập trung để từng bước trở thành nhà cung cấp dịch vụ
tài chính toàn diện thông qua các hoạt động sau đây:
- Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp
cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




16


- Nghiên cứu thành lập công ty thẻ (phát triển từ trung tâm thẻ hiện nay), công ty tài
trợ mua xe.
- Nghiên cứu khả năng thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư.
Tuy ACB đã khẳng định được mình nhưng luôn nhận thức rằng thách thức vẫn còn
phía trước và phải nỗ lực rất nhiều, đẩy nhanh hơn nữa việc thực hiện các chương trình
trợ giúp kỹ thuật, các dự án nâng cao năng lực hoạt động, hướng đến áp dụng các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế để có khả năng cạnh tranh và hội nhập khu vực thành công. Do
vậy, từ năm 2005, ACB đã bắt đầu cùng các cổ đông chiến lược xây dựng lại chiến lược
mới.

2.3 Cơ cấu tổ chức
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




17



III. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA ACB:
3.1 Các chỉ tiêu đo lường quy mô hoạt động của ACB
3.1.1 Qui mô tốc độ tăng trưởng:


GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





18



Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng


Tốc độ tăng trưởng quy mô tài sản bình quân 5 năm qua đạt 20.3%. Dư nợ cho vay
và nguồn vốn huy động cũng tăng trưởng tương ứng với tổng tài sản qua các năm nhưng
với tốc độ chậm hơn: tăng trưởng dư nợ bình quân 5 năm đạt 34%, tăng trưởng nguồn
vốn chủ sở hữu bình quân 5 năm đạt 13%. Riêng dư nợ cho vay có tốc độ tăng trưởng
bính quân cao hơn so với tổng tài sản do sự gia tăng đột biến trong dư nợ vào năm 2009
tăng với mức 78,78% khiến tăng trưởng bình quân đạt 29,01% trong 5 năm Chứng
khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ chưa
đến 5% qua các năm. Năm 2010 là năm Ngân hàng đầu tư chứng khoán mạnh nhất với
hơn 49.000 tỷ đồng, chiếm 24% tổng tài sản nhưng đã nhanh chóng giảm hơn 45% vào
năm sau đó.
Năm 2012, tổng tài sản của ACB đạt 176.307 tỷ đồng, giảm 37% so với cuối năm
2011. Nguyên nhân dư nợ cho vay trên thị trường và chứng khoán kinh doanh giảm là do
nền kinh tế gặp khó khăn, lãi suất giảm mạnh, một số ngân hàng nhỏ gặp khó khăn về
thanh khoản khiến cho các ngân hàng thu hẹp hoạt động cho vay trên thị trường liên
ngân hàng. Mặt khác, thị trường chứng khoán ảm đạm, chưa ổn định nên các ngân hàng
có xu hướng thu hẹp hoạt động kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát rủi ro, chuyển
hướng sang các kênh đầu tư khác hiệu quả hơn?
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





19



Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng



Nguồn vốn tự có của ACB được tăng cường qua các năm với tốc độ tăng trưởng
VCSH bình quân 5 năm đạt 13%. Trong đó, vốn điều lệ liên tục được bổ sung, giúp cho
hệ số an toàn vốn tối thiểu CAR của Ngân hàng luôn được đảm bảo trên 9%. Vốn chủ sở
hữu của ACB tăng đều qua từng năm tuy nhiên tăng vượt bậc từ năm 2008 đến 2009 với
tỷ lệ 30,12% do ACB được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép tăng vốn điều lệ
lên 7.814.138 triệu đồng bằng cách chuyển 1.349.931 triệu đồng trái phiếu chuyển đổi
thành cổ phiếu và 108.394 triệu đồng từ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ sang vào ngày
3/9/2009 theo công văn số 1879/NHNN-HCM.02. Tiếp tục mức tăng trưởng mạnh vào
năm 2010, ACB cho tăng vốn chủ sở hữu với tỷ lệ tăng 12,57% so với năm 2009. Trong
Đại hội cổ đông 2010, ACB đã thông qua kế hoạch tăng vốn điểu lệ năm 2010 thông qua
việc phát hành thêm cổ phiếu và đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận
vào ngày 11/11/2010 nhằm nâng cao năng lực cho vay và tăng vốn cho Công ty Cho
thuê tài chính ACB
Đến năm 2012, tổng nguồn vốn huy động từ thị trường 1 đạt 145.616 tỷ đồng, tổng
nguồn vốn huy động từ thị trường 2 đạt 19.922 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu đạt 12.624 tỷ
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





20

đồng, vốn điều lệ đạt 9.377 tỷ đồng. Mặc dù Vốn điều lệ được tăng liên tục để nhằm cải
thiện tình hình tài chính của ACB tuy nhiên vẫn không tăng vượt so với sự tăng trưởng
lớn mạnh của Tổng tài sản trong đó chiếm tỷ lệ tăng cao là Tổng dư nợ qua từng năm
trong giai đoạn 2008-2012.

Nguồn: BCTC qua các năm của ACB, đvt: triệu đồng



Thu nhập lãi thuần và thu nhập hoạt động tăng đều qua các năm trong giai đoạn
2008-2012 tuy nhiên đến năm 2012 do tình hình kinh tế khó khăn kèm theo sự kiện
không tốt ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ACB khiến cho lãi thuần gia tăng chỉ
4% so với năm 2011. Sự sụt giảm từ sự giảm của tổng thu nhập hoạt động 23,69% khiến
cho ACB sụt giảm tăng trưởng lợi nhuận trước thuế 75% so với năm 2011.






GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




21


3.1.2 So sánh với các NHTM khác:


Nguồn: BCTC qua các năm của NH, đvt: nghìn tỷ đồng



Nguồn: BCTC qua các năm của NH, đvt: nghìn tỷ đồng

GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




22


Để so sánh tính cạnh tranh của ACB với các NH khác, chúng tôi chọn tập hợp
nghiên cứu gồm 10 NHTM được NHNN xếp nhóm 1 là ACB, CTG, VCB, EIB, STB,
VIB, MSB, BIDV, SHB và Techcombank (TECH). Chúng tôi không lựa chọn các NH
khác do một trong số các nguyên nhân sau: (1) quy mô tài chính quá chênh lệch với
ACB; (2) không tiếp cận được số liệu thích hợp để so sánh. Trong số các NH so sánh,
STB và EIB là 2 Ngân hàng có quy mô, đặc điểm và mô hình kinh doanh giống với ACB
nhất. Và nhóm xin lấy số liệu năm 2012 để so sánh do năm 2012 là năm nhiều khó khăn
nhất và xảy ra nhiểu biến cố trong ngành ngân hàng.
Tổng tài sản của ACB hiện đang đứng thứ 5, xếp sau 4 NHTM nhà nước là CTG,
BIDV, VCB, TECH. ACB là NHTM ngoài quốc doanh duy nhất huy động và cho vay
trên 100 nghìn tỷ đồng từ khách hàng. Như vậy, ACB là NHTM ngoài quốc doanh có

quy mô tổng tài sản, dư nợ cho vay và số dư tiền gửi khá mạnh tuy nhiên trong năm
2012 thì sụt giảm do tình hình kinh tế khó khăn, sự kiện 7.000 tỷ đồng liên quan đến Bầu
Kiên . Những khoản vay này đều có tài sản thế chấp bao gồm: cổ phiếu của tổ chức tín
dụng khác 3.458 tỷ đồng; cổ phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trị giá 1.989 tỷ đồng;
góp vốn vào doanh nghiệp hơn 925 tỷ đồng và thư bảo lãnh của ngân hàng 750 tỷ đồng.
Kế tiếp là vụ án lừa đảo của Huỳnh Thị Huyền Như với số tiền 718 tỷ đồng gửi tại CTG
và thêm vào đó là 700 tỷ đồng dư nợ với Vinalines được xếp vào nợ nhóm 2 cần phải
trích lập dự phòng 5%. Nói như vậy để thấy rằng, từ vụ “bầu” Kiên đã gây ra rất nhiều
tác động tiêu cực cho ACB.
Về Vốn chủ sở hữu, ACB xếp thứ 7 sau VCB, CTG, BIDV, STB, EIB, TECH. Theo
chúng tôi, nguyên nhân VCSH của ACB thấp là do Ngân hàng thực hiện chi trả cổ tức
bằng tiền mặt đợt 1 năm 2011 ở mức 20%.

3.1.3 Cơ cấu cho vay:
Cơ cấu cho vay theo loại hình tiền tệ:
GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22




23


Nguồn: BCTC qua các năm của ACB

Các khoản tín dụng bằng VND chiếm khoảng từ 70 – 83% qua các năm, cao nhất
đạt 83% trong năm 2009. Tỷ trọng cho vay bằng vàng và ngoại tệ dao động trong
khoảng 25 – 30%, tương đối lớn trong tương quan với các NH khác. Do đó, việc phòng
vệ rủi ro tỷ giá và rủi ro giá vàng có vai trò quan trọng đến khả năng thanh khoản của

ACB.

Cơ cấu cho vay theo ngành qua các năm

Nguồn: BCTC qua các năm của ACB


C
h


t
i
ê
u

N
ăm

2
0
0
8

N
ăm

2
0
0

9

N
ăm

2
0
1
0

N
ăm

2
0
1
1

N
ăm

2
0
1
2

Thương mại

23%


31%

32%

36%

32%

Nông, lâm
nghiệp

1%

0%

0%

0%

1%

Sản xuất và gia công chế
biến

13%

18%

16%


15%

13%

X
â
y

d

n
g

3%

4%

4%

5%

3%

Dịch vụ cá nhân và cộng
đồng

51%

37%


38%

34%

42%

Kho bãi, giao thông vận tải và thông tin liên
lạ
c
2%

3%

3%

3%

2%

Giáo dục và đào
tạo

0%

0%

0%

0%


0%

Tư vấn và kinh doanh bất động
sản

2%

1%

1%

1%

1%

Nhà hàng và khách
sạn

1%

2%

2%

2%

2%

GVHD: PGS.TS. TRƯƠNG QUANG THÔNG Nhóm 7 – Lớp NH Đêm1
–K22





24


Ngành nghề cho vay chính của ACB là Thương mại và Dịch vụ cá nhân với dư nợ
cho vay chiếm khoảng 70% tổng dư nợ của Ngân hàng. Trong khi tỷ trọng các khoản vay
cá nhân và cộng đồng có chiều hướng giảm thì tín dụng thương mại lại có xu hướng tăng
nhẹ. Hai lĩnh vực liên quan đến bất động sản là Xây dựng và Tư vấn kinh doanh BĐS chỉ
chiếm tỷ trọng nhỏ từ 4 – 6%, do đó rủi ro nợ xấu tiềm ẩn từ khu vực BĐS không phải là
mối lo lớn.

Cơ cấu cho vay theo phân bổ địa lý


Khu
vực

Năm
2008

Năm
2009

Năm
2010

Năm

2011

Năm
2012

TP.
HCM

71%

65%

65%

61%

62%

Đồng bằng sông Cửu
Long

4%

4%

4%

5%

5%


M
i

n

T
r
un
g

4%

5%

5%

6%

7%

Miền
Bắc

16%

21%

20%


22%

19%

M
i

n

Đ
ô
n
g

5%

5%

6%

6%

7%

Nguồn: BCTC qua các năm của ACB

Về địa lý, ACB chủ trương phát triển ở khu vực truyền thống là ở TP HCM và Hà
Nội, sau đó từng bước tăng sự hiện diện ra các khu vực đô thị dọc theo trục giao thông
Bắc – Nam và một số đô thị lớn ở khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ. TP Hồ Chí
Minh vẫn là địa bàn cho vay chính của Ngân hàng, song tỷ trọng cho vay đã giảm dần từ

74% năm 2006 xuống còn 61% năm 2011. Cùng với việc gia tăng số lượng chi nhánh tại
Hà Nội, tỷ trọng cho vay ở khu vực miền Bắc tăng đáng kể từ 16% năm 2006 lên 22%
năm 2011. Tỷ trọng cho vay tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung và miền
Đông không có nhiều biến động và chỉ chiếm khoảng 15% tổng dư nợ cho vay của ACB.

3.1.4 Tương quan giữa kì hạn tiền gửi và cho vay:

×