Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

xác định quan hệ cha, mẹ, con. qua thực tiễn tại địa bàn huyện hương sơn -tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.92 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
KHÓA 2010 - 2014
XÁC ĐỊNH QUAN HỆ CHA, MẸ, CON
QUA THỰC TIỄN TẠI ĐỊA BÀN
HUYỆN HƯƠNG SƠN - TỈNH HÀ TĨNH
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Đào Mai Hường Lê Thị Kim Loan
Lớp: K34A Dân Sự
Huế, 03/2014

GVHD: 

Để hoàn thành khóa luận này,
tôi xin chân thành cảm ơn các thầy
cô giáo trong Khoa Luật-Đại học Huế
đã tận tình dạy dỗ,giúp đỡ va tạo
mọi điều kiện cho tôi trong suốt 4
năm học đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ
quan, đoàn thể ,cá nhân đã cung
cấp tài liệu,tạo mọi điều kiện cho
tôi trong quá trình thu thập tài liệu
để thực hiện đề tài đặc biệt là
Phòng Tư pháp-UBND huyện Hương Sơn-
và TAND huyện Hương Sơn Tỉnh Hà
Tónh.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn


sâu sắc đến Th.s Đào Mai
Hường,người đã tận tình hướng
dẫn,truyền thụ kiến thức và kinh
2
SVTH: 

GVHD: 
nghiệm giúp đỡ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Sinh viên thực
hiện
Lê Thò Kim Loan
3
SVTH: 

GVHD: 
MỤC LỤC
4
SVTH: 

GVHD: 
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
BDLBK : Bộ dân luật Bắc Kỳ
HNVGĐ : Hôn nhân và gia đình
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
UBND : Uỷ ban nhân dân
5
SVTH: 


GVHD: 
6
SVTH: 

GVHD: 
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt
thì xã hội mới tốt”. Nếu quan hệ vợ chồng trong gia đình là quan hệ pháp lý
hôn nhân thì quan hệ cha, mẹ, con là quan hệ tràn đầy tình cảm yêu thương
chăm sóc. Mối quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ thiêng liêng và
cao cả, nó tồn tại trên hai phương diện xã hội và pháp lý. Xét về phương
diện xã hội thì quan hệ cha, mẹ, con tồn tại một cách tự nhiên và được ghi
nhận như là một sự tất yếu, nó là sự ràng buộc về mặt tình cảm giữa các
thành viên trong gia đình, nó được điều chỉnh bằng các quy tắc đạo đức, là
cơ sở để tạo lập gia đình hạnh phúc, bền vững, duy trì nòi giống và tái sản
xuất ra sức lao đông bằng việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe cho các
thành viên đảm bảo sự ổn định cho xã hội, an ninh chính trị. Còn về mặt
pháp lý thì quan hệ cha, mẹ, con được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể
như quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con và của con đối với cha, mẹ.
Việc pháp luật ghi nhận quan hệ này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cha, mẹ, con. Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con là cơ sở làm
phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong quan hệ cha-
con, mẹ-con. Đây là cơ sở pháp lý để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
giải quyết các mâu thuẫn phát sinh khi các quan hệ đó có tranh chấp như
cấp dưỡng, nuôi dưỡng, thừa kế, xác định nhân thân người phạm tội trong
luật hình sự. Như vậy việc xác định quan hệ cha, mẹ, con không chỉ có ý
nghĩa trong phạm vi lĩnh vực Hôn nhân và gia đình mà nó còn có ý nghĩa

đối với các quan hệ pháp luật khác.
Trong giai đoạn hiện nay thì việc xác định quan hệ cha, mẹ, con là
một vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp. Việc tồn tại quan hệ tình cảm ngoài
7
SVTH: 

GVHD: 
quan hệ hôn nhân hoặc ngoài thời kỳ hôn nhân là một thực trạng phổ biến.
Chính vì vậy mà đây là vấn đề đang được sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta và nó được thể chế hóa trong các quy định pháp luật, pháp luật hôn
nhân và gia đình đã dự liệu bằng việc đưa ra khung pháp lý trong việc xác
định cha, mẹ cho con. Tại Điều 37 Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Trẻ em được Nhà nước, gia đình
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục;được tham gia vào các vấn đề trẻ
em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột
sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. Tại điều 11
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định.
“Quyền được khai sinh và có quốc tịch
1. Trẻ em có quyền đăng ký khai sinh và có quốc tịch.
2. Trẻ em có cha mẹ chưa xác định được, nếu có yêu cầu thì được hỗ
trợ bởi các cơ quan có thẩm quyền để xác định cha, mẹ theo quy định
của pháp luật. ”
Luật HNVGĐ năm 2000 từ Điều 63 đến Điều 66 chương VII quy định
về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con đó là : Điều 63 Xác định cha, mẹ ;
Điều 64 Xác định con; Điều 65 Quyền nhận cha, mẹ; Điều 66 Người có
quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng
lực hành vi dân sự.
Tại khoản 4 Điều 27 của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm
2011) cũng có quy định:

Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ thuộc những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án.
Ngoài ra thì vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con còn được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật khác. Điều này thể hiện được sự quan tâm
8
SVTH: 

GVHD: 
của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi của những người làm
cha, làm mẹ và làm con. Qua những luận cứ khoa học trong Luật hôn nhân
và gia đình và các văn bản hướng dẫn thi hành thì thấy các quy định này
khá chặt chẽ và cụ thể về vấn đề xác định cha, mẹ cho con, tuy nhiên trên
thực tế việc nhận thức và áp dụng vẫn chưa thống nhất. Có những văn bản
quy phạm pháp luật vẫn còn khá nhiều thiếu sót, hạn chế, nhiều vấn đề về
xác định quan hệ cha, mẹ, con chưa được điều chỉnh gây khó khăn trong
quá trình giải quyết và áp dụng pháp luật.
Quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình về việc xác định cha, mẹ
cho con vừa là cơ sở pháp lý để thực hiện công tác đăng ký khai sinh, vừa
là căn cứ áp dụng trong công tác xét xử của Tòa án. Thực tế, do các cán bộ
Toà án, cán bộ tư pháp hộ tịch còn có sự nhận thức khác nhau đối với quy
định của pháp luật về việc xác định cha cho con nên đã xảy ra những câu
chuyện trái khoáy xung quanh vấn đề này.
Đó là trong trường hợp con sinh ra sau khi ly hôn mà trong bản án,
quyết định của Tòa án không xác định là con của ai mà đi làm giấy khai
sinh của con thì có những vụ việc thì cơ quan hộ tịch còn dè dặt, không
dám ghi tên cha vào giấy khai sinh của con mà phải chờ sự xác định của
Toà án, trong khi đó thì Toà án lại quả quyết là không cần thiết. Ngược lại,
có những vụ việc thì trong khi cơ quan hộ tịch đã xác định là cha của đứa
trẻ bằng việc đăng ký khai sinh, thì Toà án lại buộc đương sự phải yêu cầu

Toà án thực hiện việc xác định cha cho con mới giải quyết việc yêu cầu cấp
dưỡng nuôi con. Như vậy, với những tình huống giống nhau nhưng đã có
các cách hành xử khác nhau, mà nguyên nhân là do xuất phát từ sự xung
đột về mặt nhận thức pháp lý của những người thực thi pháp luật. Một thực
tế hiện nay, với tình huống nêu trên đã có rất nhiều cán bộ Toà án khẳng
định là nhất thiết phải qua thủ tục toà án xác định cha cho con. Những
người theo quan điểm này cho rằng, do người vợ sinh con sau khi đã ly hôn
9
SVTH: 

GVHD: 
chồng và vì thế trong bản án, quyết định giải quyết việc ly hôn không đề
cập, không xác định là con của ai. Chính vì vậy, để có cơ sở cho việc đăng
ký khai sinh hoặc quyết định việc chăm sóc, cấp dưỡng nuôi con thì người
mẹ phải yêu cầu Toà án xác định cha cho con. Tại Điều 63 của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn
nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng
Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ
và phải được Toà án xác định…”. Để xác định trường hợp nào thì được coi
là người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân, tại Điều 21 của Nghị định số
70/2001/NĐ-CP ngày 03-10-2001 của Chính phủ đã quy định cụ thể là:
“Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người chồng chết hoặc kể từ
ngày bản án, quyết định của Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực
pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người”.
Như vậy, cho dù con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hay sinh ra sau
thời kỳ hôn nhân nhưng mà do người vợ có thai trong thời kỳ đó đều đương
nhiên được xác định là con chung của vợ chồng. Hai trường hợp này hoàn
toàn giống nhau, bình đẳng về mặt pháp lý và đã là điều đương nhiên thì cơ
quan hộ tịch buộc phải thực hiện đăng ký khai sinh mà không cần phải có
sự xác định của Toà án. Do đó, không thể có việc con sinh ra trong thời kỳ

hôn nhân thì đương nhiên được đăng ký hộ tịch xác định con chung của vợ
chồng (không cần Tòa án xác định) mà khi con sinh ra ngoài thời kỳ hôn
nhân nhưng người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân thì phải yêu cầu Tòa
án xác định cha cho con. Đương sự chỉ có quyền và nghĩa vụ yêu cầu Toà
án xác định cha cho con ngoài các trường hợp nêu trên, tức là con sinh ra
ngoài thời kỳ hôn nhân và người vợ có thai ngoài thời kỳ hôn nhân. Còn
khi thuộc những trường hợp đương nhiên được xác định là con chung của
vợ chồng như đã nêu ở khoản 1 của điều luật nêu trên mà cha, mẹ không
10
SVTH: 

GVHD: 
thừa nhận con thì cũng phải yêu cầu Tòa án xác định và phải có chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình.
Và như vậy, trong hai trường hợp nêu trên những người con được
người vợ sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định của
Toà án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật nên đương nhiên là
con của vợ chồng. Trong trường hợp này nếu người chồng không thừa nhận
người con đó là con của mình thì họ phải khởi kiện yêu cầu Toà án xác
định và có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh về vấn đề này mà
người vợ không buộc phải yêu cầu Toà án xác định một vấn đề đã được coi
là đương nhiên.
Như vậy, dựa trên tính chất của quan hệ xác định cha, mẹ, con có
tranh chấp hay không có tranh chấp là cơ sở để xác định cơ quan có thẩm
quyền xác định cha, mẹ, con. Tuy nhiên, việc xác định thẩm quyền giải
quyết loại việc này từ góc độ thực tiễn đã và đang phản ánh những bất cập
và khó khăn liên quan đến cách hiểu và vận dụng điều luật cũng như những
quy định còn “bỏ ngỏ” trong Luật dẫn đến những lúng túng nhất định trong
việc xác định thẩm quyền, thủ tục tố tụng và nghĩa vụ chứng minh…
Trường hợp người chồng của người mẹ đứa trẻ không thừa nhận đứa

trẻ là con của họ thì có quyền yêu cầu Tòa án xác định. Đây thuộc trường
hợp có tranh chấp và được giải quyết theo thủ tục tư pháp. Khi khởi kiện ra
Tòa người chồng phải đưa ra được những chứng cứ để chứng minh rằng họ
là chồng của mẹ đứa trẻ nhưng không phải là cha đứa trẻ. Vấn đề khó khăn
trong việc xác định thẩm quyền thường đặt ra với trường hợp xác nhận cha,
mẹ cho con ngoài hôn nhân. Con ngoài giá thú thường do người mẹ không
có chồng sinh ra hoặc tuy người mẹ đang có chồng nhưng người chồng đã
chứng minh trước Tòa rằng người con đó không phải là con của họ. Ngoài
ra hiện nay trong quá trình thực tiễn thì cho thấy có nhiều trường hợp tranh
chấp về xác định quan hệ cha, mẹ, con mà đương sự không hợp tác với cơ
11
SVTH: 

GVHD: 
quan chức năng. Đó là nhiều trường hợp từ chối cung cấp mẫu giám định
trong khi không còn có chứng cứ nào khác có thể xác định quan hệ cha,
mẹ, con. Hiện nay chưa có chế tài nào đối với những đương sự từ chối
cung cấp mẫu giám định gen. Chính điều này đã ảnh hưởng tới quyền lợi
của các đương sự khác cũng như ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền, làm vụ án bị tồn đọng, bế tắc.
Căn cứ theo các quy định hiện hành, việc xác định thẩm quyền giải
quyết đối với yêu cầu xác nhận cha, mẹ, con phụ thuộc vào việc xác định
tính chất của vụ việc là có tranh chấp hay không có tranh chấp.
- Trường hợp có tranh chấp: Thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân theo quy định tại khoản 4 Điều 27 Bộ Luật tố tụng dân sự năm
2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011).
- Trường hợp không có tranh chấp: Thuộc thẩm quyền giải quyết của
Uỷ ban nhân dân.
Tuy nhiên, hiểu như thế nào là có “tranh chấp” cũng là một khái niệm
có nhiều tranh cãi. Nhiều trường hợp không có tranh chấp trong việc xác

định cha, mẹ, con nhưng cơ quan hộ tịch khi giải quyết bằng một thủ tục
đăng ký thông thường dưới khía cạnh pháp lý lại có những vướng mắc nhất
định. Đây cũng là vấn đề đang có sự mâu thuẫn và gặp ít nhiều lúng túng
khi áp dụng luật trong một số trường hợp yêu cầu xác định cha, mẹ, con khi
người cha, người mẹ bị yêu cầu xác định đã chết.
Thực tiễn xét xử thời gian gần đây khá nhiều vụ án đương sự khởi
kiện ra Tòa yêu cầu xác định cha, mẹ cho con mà người cha hoặc người mẹ
được yêu cầu xác định là cha hoặc mẹ của cháu bé đã chết hoặc trong
trường hợp cả người cha, người mẹ của cháu bé đều đã chết. Điều này
không chỉ liên quan đến thủ tục tố tụng từ việc thụ lý, thông báo thụ lý, hòa
giải, đến việc đưa ra xét xử tại phiên tòa mà còn liên quan đến vấn đề xác
định chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện.
12
SVTH: 

GVHD: 
Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có quy định: “Con có
quyền xin nhận cha mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết’.
Như vậy pháp luật bảo đảm trong mọi trường hợp người con đều có quyền
xin nhận cha, mẹ của mình ngay cả khi người được nhận là cha, mẹ đã
chết. Nguyên tắc chung người đưa ra yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh.
Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh này trong thực tế không
phải là vấn đề đơn giản.
Về việc xác định tư cách tố tụng: Theo quy định tại khoản 3 Điều 56
BLTTDS năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011), về nguyên tắc người bị
người khác khởi kiện khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn bị người đó xâm phạm sẽ được xác định là bị đơn trong vụ kiện, tuy
nhiên trong trường hợp này có thể xác định người đó là bị đơn hay không
khi người đó đã chết. Khá nhiều các bản án hiện hành khi rơi vào trường
hợp này đều không khỏi lúng túng khi xác định tư cách của người đó trong

vụ kiện.
Thực tế nhiều Tòa án, do loại việc “xác định cha, mẹ, con” không nằm
trong loại việc thuộc thủ tục giải quyết việc dân sự hoặc hôn nhân gia
đình nên đối với yêu cầu khởi kiện xác định cha (mẹ) cho con mà người
cha (người mẹ) đã chết vẫn được áp dụng theo quy định tại Điều 56
BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) như với các vụ án thông
thường. Trong đó, người đó được xác định là bị đơn và ghi chú thêm bên
cạnh là: “Bị đơn là người đã chết”.
Việc xác định người đó là bị đơn trong trường hợp này không hợp lý.
Mặc dù người đó là người bị kiện tuy nhiên đối tượng của quyền yêu cầu là
quyền nhân thân. Vì vậy, nếu xác định người đó là bị đơn thì khi bị đơn đã
chết, vụ kiện sẽ bị tạm đình chỉ giải quyết nếu chưa có người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng trong khi đây lại thuộc trường hợp pháp luật nội dung
hạn chế đối với việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng. Bên cạnh đó nếu
13
SVTH: 

GVHD: 
xác định người đó là bị đơn thì Tòa án sẽ phải gửi thông báo thụ lý tới cho
ai theo quy định tại Điều 176 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) trong khi bị đơn đã chết.
Như vậy xuất phát từ những hạn chế trong việc ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật nên tình trạng xuất hiện các quan điểm trái ngược nhau
trong quá trình giải quyết là không thể tránh khỏi. Điều này đã gây ảnh
hưởng đến lợi ích hợp pháp của đương sự, tạo nên hiện tượng thiếu tính
thống nhất trong việc áp dụng pháp luật.
Trong những năm qua tại địa bàn huyện Hương Sơn -Tỉnh Hà Tĩnh
thực trạng về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con cũng tương đối nhiều
và diễn biến khá phức tạ. Quá trình giải quyết của các cơ quan chức năng
còn bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc, lúng túng.

Xuất phát từ những nhận thức về cơ sở lý luận cũng như qua thực
trạng trong vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con ở địa bàn huyện Hương
Sơn-Tỉnh Hà Tĩnh, tôi đã lựa chọn đề tài “ Xác định quan hệ cha, mẹ, con.
Qua thực tiễn tại địa bàn huyện Hương Sơn -Tỉnh Hà Tĩnh”. Với đề tài
này, tôi mong muốn tìm hiểu sâu sắc hơn cả về lý luận và thực tiễn của vấn
đề xác định quan hệ cha, mẹ, con. Từ đó nhận thức một cách đầy đủ hơn
về cơ sở pháp lý của pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ việc về xác
định quan hệ cha, mẹ, con cả nước nói chung và tại địa bàn huyện Hương
Sơn nói riêng. Bên cạnh đó tác giả cũng có một số đề xuất, kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh về
vấn đề này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Quá trình tìm hiểu đề tài sẽ góp phần vào việc hệ thống hóa những
quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con.
14
SVTH: 

GVHD: 
Tìm hiểu thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại địa bàn huyện
Hương Sơn -Tỉnh Hà Tĩnh giúp chúng ta đánh giá phần nào đúng tình hình
thực tế quan hệ Hôn nhân gia đình hiện nay. Qua đó chúng ta có cách đánh
giá khoa học, toàn diện về vấn đề và tìm ra được những nguyên nhân,
vướng mắc của thực trạng và đề ra một số giải pháp khắc phục.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đó là hệ thống và làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành về
xác định quan hệ cha, mẹ, con. Tìm hiểu về thực trạng xác định quan hệ
cha, mẹ, con tại địa bàn huyện Hương Sơn -Tỉnh Hà Tĩnh. Qua đó có thể
thấy được những nguyên nhân, khó khăn vướng mắc trong quá trình giải

quyết của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra các giải pháp khắc
phục và hoàn thiện pháp luật xác định quan hệ cha, mẹ, con.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, thu thập thông tin của mình, tác giả
tập trung vào việc nghiên cứu hai vấn đề chính đó là:
Thứ nhất, khóa luận đề cập một cách có hệ thống tới các cơ sở lý luận
về vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con trên cơ sở các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, khóa luận đề cập đến thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ,
con trên địa bàn huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh cũng như đưa ra một số
kiến nghị giải pháp hoàn thiện việc xác định quan hệ cha, mẹ, con trên địa
bàn huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là xác định quan hệ cha, mẹ, con theo
các quy định của pháp luật Việt Nam đó là Luật hôn nhân và gia đình năm
2000, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), các
nghị quyết, thông tư và nhiều tài liệu khác liên quan đến việc xác định quan
hệ cha, mẹ, con và thực tiễn tại huyện Hương Sơn- Tinh Hà Tĩnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
15
SVTH: 

GVHD: 
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử,
phương pháp so sánh trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin nhằm nghiên cứu vấn đề xác định
quan hệ cha, mẹ, con trên nhiều góc độ. Cụ thể là:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng để phân tích
những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề xác
định quan hệ cha, mẹ, con, phân tích thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ,

con thông qua số liệu thu thập được tại địa bàn.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê: Đây là một phương pháp có ý nghĩa
quan trọng trong việc thu thập số liệu các vụ việc về xác định quan hệ cha,
mẹ, con diễn ra trên thực tế địa bàn huyện Hương Sơn-Tỉnh Hà Tĩnh.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu :Dùng phương pháp này để có thể
thấy được sự đối chiếu tăng giảm của số liệu cũng như là tính chất của vụ
việc xác định quan hệ cha, mẹ, con giữa năm này so với năm khác.
5. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần là mở đầu, nội dung, kết luận. Trong đó phần
nội dung gồm 2 chương:
Chương I : Những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề xác
định quan hệ cha, mẹ, con.
Chương II: Thực trạng xác định quan hệ cha, mẹ, con tại huyện
Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Nguyên nhân và một số giải pháp.
16
SVTH: 

GVHD: 
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH QUAN HỆ CHA, MẸ, CON
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quan hệ cha, mẹ, con
“Quan hệ cha, mẹ, con là mối liên hệ pháp lý giữa một người (gọi là
con) và một người khác (gọi là cha hoặc mẹ), tùy theo người khác đó là
nam hay là nữ quan hệ được thiết lập là quan hệ cha con hoặc quan hệ mẹ
con. Quan hệ cha, mẹ, con có thể được xác lập một cách tự nhiên từ sự kiện
thành thai và sinh nở (gọi là quan hệ cha, mẹ, con ruột) hoặc một cách nhân
tạo từ việc nhận nuôi con nuôi”. Như vậy quan hệ cha, mẹ, con là một quan

hệ pháp lý chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật cũng như là các quy
tắc đạo đức xã hội.
Xét về yếu tố đạo đức thì đây là quan hệ có tính chất tự nhiên, là mối
quan hệ có tính chất thiêng liêng và bền vững. Nó được xây dựng trên nền
tảng quan hệ yêu thương, trách nhiệm đối với nhau giữa cha mẹ và con cái.
Xét về yếu tố pháp lý trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình thì quan hệ
cha, mẹ, con là một loại quan hệ pháp lý có đầy đủ các yếu tố cấu thành
sau:chủ thể, nội dung, khách thể. Về mặt chủ thể nhu cầu của quan hệ cha,
mẹ, con là các quan hệ yêu thương lẫn nhau giữa mọi người trong gia đình.
Về mặt nội dung thì nó bao gồm quyền và nghĩa vụ của quan hệ cha, mẹ,
con. Về mặt khách thể của quan hệ cha, mẹ, con là các hành vi của các chủ
thể nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng được pháp
luật quy định. Các hành vi này nhằm hướng tới những giá trị cụ thể về vật
17
SVTH: 

GVHD: 
chất và tinh thần như quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa cha mẹ và
con cái.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc xác định quan hệ cha,
mẹ, con
Hiện nay chưa có một quan điểm, định nghĩa pháp lý nào là xác định
quan hệ cha, mẹ, con. Đầu tiên chúng ta có thể hiểu xác định theo Từ điển
Tiếng Việt- Nhà xuất bản Khoa học xã hội (Hà Nội ) thì xác định tức là
“nêu lên một cách đúng đắn, rõ ràng hoặc “định ra được một cách chính
xác”. Như vậy chúng ta có thể hiểu xác định quan hệ cha, mẹ, con có nghĩa
là xác định một cách đúng, chính xác, rõ ràng người nào là cha, mẹ hay con
hay người nào không phải là cha, mẹ, con đối với một chủ thể xác định.
Chính vì nó đòi hỏi sự chính xác rõ ràng và chúng ta cũng hiểu được tầm
quan trọng của quan hệ cha, mẹ, con nên nó phải được xác định bằng các

cơ quan có thẩm quyền và có giá trị pháp lý để bảo đảm về quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể tham gia.
Dưới góc độ sinh học -xã hội thì xác định cha, mẹ, con là việc nghiên
cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp
nhau thông qua sự kiện sinh đẻ” [19, 1].
Dưới góc độ luật học thì xác định quan hệ cha, mẹ, con trong từ điển
Luật học lại đưa ra khái niệm “xác định cha, mẹ cho con” là: “ định rõ một
người là cha hoặc một người là mẹ cho con trên cơ sở các quy định của
pháp luật” [19, 1].
Dưới góc độ pháp lý thì xác định quan hệ cha, mẹ, con là một chế định
pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về căn cứ pháp lý, thủ
tục pháp lý xác định cha, mẹ, con, là cơ sở để hình thành ở các chủ thể
quyền và nghĩa vụ theo luật định. [19,1]
Từ sự phân tích trên chúng ta có thể định nghĩa xác định quan hệ cha,
mẹ, con là một hành vi pháp lý do cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định
18
SVTH: 

GVHD: 
của pháp luật có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thừa
nhận hoặc không thừa nhận quan hệ cha - mẹ - con về mặt pháp lý, nhằm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con và
ngược lại.
Như vậy từ khái niệm trên thì chúng ta có thể thấy việc xác định quan
hệ cha, mẹ, con có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, nó là một hành vi pháp lý
Thứ hai, nó phát sinh tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay
theo quy định của pháp luật Việt Nam thì TAND và UBND với tư cách là cơ
quan quyền lực Nhà nước thực hiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình,
đó là xác định và công nhận hay không công nhận quan hệ cha, mẹ, con.

Thứ ba, việc xác định quan hệ cha làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ đó.
Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con có ý nghĩa rất lớn:
Thứ nhất, nó đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân
thân và tài sản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật này. Hay nói cách
khác thì việc bảo vệ quan hệ cha, mẹ, con có ý nghĩa trong việc bảo đảm
các lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thứ hai việc xác định quan hệ cha, mẹ, con còn nhằm giải quyết các
tranh chấp về nuôi dưỡng, cấp dưỡng, thừa kế theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
1.2. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về vấn đề xác định
quan hệ cha, mẹ, con
Trải qua các hình thái nhà nước khác nhau thì các quan hệ xã hội có
những biến đổi theo từng thời kỳ và chính vì thế mà pháp luật cũng phải
thay đổi khác nhau để có thể điều chỉnh các quan hệ xã hội đó. Và quan hệ
Hôn nhân gia đình cũng vậy. Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con được
ghi nhận khá sớm trong pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên ở thời kỳ phong
19
SVTH: 

GVHD: 
kiến các quy định về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con còn có nhiều hạn
chế, mới chỉ là những quy định tạo nên bước đầu cho việc hình thành các
quy định xác định quan hệ cha, mẹ, con. Càng về sau thì chế định xác định
quan hệ cha, mẹ, con ngày càng được hoàn thiện đầy đủ và đáp ứng được
những yêu cầu của các quan hệ xã hội.
1.2.1. Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con trong pháp luật thời kỳ
phong kiến
Pháp luật Hôn nhân và gia đình thời kỳ này không quy định rõ việc
xác định quan hệ cha, mẹ, con. Pháp luật thời kỳ này chủ yếu xác lập các

quy định nhằm bảo đảm trật tự, đẳng cấp các mối quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình. Luật pháp vẫn chịu ảnh hưởng của tư tưởng trọng nam
khinh nữ, xác lập quyền gia trưởng trong gia đình. Dưới thời Lê, với bộ
Quốc triều hình luật không có chế định nào quy định cụ thể về việc xác
định quan hệ cha, mẹ, con mà chỉ thông qua các quy định về quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình cho thấy pháp luật thời kỳ này chỉ thừa nhận
quan hệ cha mẹ đẻ đối với con đẻ và phải là con chính thống, không thừa
nhận quan hệ cha, mẹ, con ngoài giá thú. Pháp luật thời kỳ phong kiến có
cho phép và thừa nhận quan hệ cha, mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện nhận
nuôi con nuôi. Điều 380 Bộ luật Hồng Đức quy định “Việc nuôi con nuôi
phải làm một văn tự giữa cha, mẹ đứng nuôi và cha mẹ sinh ra đứa trẻ”. Con
nuôi có thể là con trai hoặc con gái, con của một người trong họ hoặc khác
họ (Đoạn 257 Hồng Đức thiện chính thư). Nếu con nuôi lập tự phải là con
trai và là con của một người trong họ. Quy định như trên nhằm bảo vệ chế
độ gia trưởng, bảo đảm trong trường hợp gia đình không có con trai thì
người chủ gia đình phải tiến hành lập tự bằng cách nhận con nuôi trong số
các con trai của những người thân thuộc bên nội cùng vai vế với mình.
Đến thời Nguyễn, luật pháp xây dựng khuôn mẫu gia đình theo mô
hình phụ quyền Trung Quốc. Bộ Hoàng Việt luật lệ ra đời nhưng chỉ dành
20
SVTH: 

GVHD: 
cho gia đình sự quan tâm chừng mực và không có bước tiến nào đáng kể.
Bộ luật này chưa có quy định nào về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con và
chỉ dừng lại ở việc quy định các trường hợp nhận nuôi con nuôi làm “nghĩa
dưỡng” hay “lập tự” (Điều 76 Bộ Hoàng Việt luật lệ). Như vậy, pháp luật
thời kỳ phong kiến ít quan tâm tới việc xác định quan hệ cha, mẹ, con mà
quan hệ hôn nhân chủ yếu tồn tại trong những “chuẩn mực”.
Hệ thống pháp luật thời kỳ này đều thấm nhuần tư tưởng Nho giáo,

chế độ gia đình gia trưởng, sự bất bình đẳng giữa người chồng và người vợ
mà người phụ nữa và trẻ em đã phải chịu nhiều thiệt thòi và nguyên tắc xác
định quan hệ cha, mẹ, con đã không được pháp điển hóa trong pháp luật
thời kỳ này.
1.2.2. Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con trong thời kỳ thực dân
phong kiến
Từ năm 1958 đến năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính sách đối với nước ta
như thay đổi về mặt hành chính, tiến hành ban hành các văn bản pháp luật
mới trong đó có quan hệ Hôn nhân và gia đình dựa vào Bộ luật Dân sự
Napoleon 1804, tiến hành ban hành ba bộ luật ở ba miền Trung Kỳ, Bắc
Kỳ, Nam Kỳ và có điều chỉnh về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con. Năm
1883 Bộ Dân luật giản yếu được ra đời. Đây là văn bản pháp luật được ban
hành sớm nhất dưới chế độ thuộc địa. Tuy nhiên Bộ Dân luật này còn đơn
giản, chưa có quy định về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con mà chỉ mới
dừng lại ở việc thừa nhận quan hệ cha, mẹ, con phát sinh trên sự kiện sinh
đẻ và nhận nuôi con nuôi và việc xác định quan hệ cha, mẹ, con chỉ được
tiến hành khi cha, mẹ có quan hệ hôn nhân.
Bộ Dân luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ Dân luật Trung Kỳ (1939)
Trong hai Bộ Dân luật này có những chế định cụ thể về việc xác định
quan hệ cha, mẹ, con, có sự phân biệt về cách đối xử giữa con trai và con
21
SVTH: 

GVHD: 
gái, con trong giá thú và con ngoài giá thú. Pháp luật thời kỳ này thừa nhận
chế độ đa thê, cho phép người chồng có quyền được lấy nhiều vợ. Đặc biệt
là đã có sự phân biệt đối xử giữa “con chính thức” và “con hoang” (Theo
BDLBK) hoặc phân biệt giữa “con chính thức”.
- “Con chính thức” là con do người mẹ có giá thú chính thức mà sinh ra.

- “Con hoang” hay “con ngoại tình” là con không có giá thú chính
thức mà sinh ra.
Tại Điều 174 BDLBK quy định: “phàm con hoang vô thừa nhận thì
không được phép thưa trước Tòa án để truy nguồn gốc tích cha, mẹ là ai”.
Đứa con chỉ được thừa nhận là “con chính thức” khi được người mẹ
thu thau trong thồ kỳ giá thú, đó là khoảng thời gian mang thai tối thiểu và
tối đa của người phụ nữa kể từ thời điểm thụ thai đến thời điểm sinh con,
các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm tại Điều 151 BDLBK “Thụ thai trong
thời kỳ giá thú, tức là kể từ sau khi đã làm lễ cưới cách ngoại một trăm tám
mươi ngày sinh con, hay kể từ sau khi đã tiêu hôn mà trong khoảng ba trăm
ngày sinh con”. Người chồng có quyền thừa nhận con ngoại tình trong khi
đó việc thừa nhận con ngoại tình của người vợ thì bị cấm. Nếu là con loạn
luân hay con ngoại tình của người mẹ thì họ lại không được đăng ký sự
khai nhận đứa con hoang ấy và con ngoài giá thú không được hưởng các
quyền lợi như con giá thú cả về quyền nhân thân và quyền tài sản, chúng
không có quyền mang họ của cha đẻ và đương nhiên không có quyền thừa
kế tài sản của người cha đó và quyền xin xác nhận một người là cha đẻ của
mình cũng không có.
Quy định này thật bất công với con ngoài giá thú, quyền lợi của người
mẹ và con không được tôn trọng, thể hiện rõ nét vấn đề trọng nam khinh nữ
dưới chế độ phong kiến và thực dân.
22
SVTH: 

GVHD: 
Tuy nhiên thì pháp luật thời kỳ này cũng có một số điểm tiến bộ như
là quy định các trường hợp thừa nhận “con hoang” thành “con chính thức”
tại các Điều 169, Điều 170 BDLBK:
Điều 169 BDLBK quy định “Phàm con hoang mà cha mẹ nó trước đã
khai nhận, đến sau lại có giá thú hợp phép, thì có thể công nhận làm con

chính thức, sự công nhận ấy là tự nhiện chiểu luật”.
Có thể thấy đây là điểm tiến bộ của luật và có thể làm căn cứ để quy
định việc xác định quan hệ cha, mẹ, con cho pháp luật thời kỳ sau này.
1.2.3. Vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con từ cách mạng tháng
Tám năm 1945 đến nay
Cách mạng tháng tám thành công đã mở ra một trang sử mới cho nước
nhà, trong đó có sự đổi mới của hệ thống pháp luật. Các chế định pháp lý đã
dần xóa bỏ các hủ tục phong kiến lạc hậu trong đời sống hôn nhân gia đình
nói chung và đối với việc xác định quan hệ cha, mẹ, con nói riêng. Năm
1950, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm
1950, đây là sắc lệnh đầu tiên điều chỉnh quan hệ Hôn nhân và gia đình. Tại
Điều 9 của sắc lệnh thì cho phép người con hoang vô thừa nhận được thưa
trước Tòa án để truy nhận cha hoặc mẹ của mình, điều này thể hiện được sự
phát triển của pháp luật thời kỳ này, đảm bảo quyền được nhận cha, mẹ, con,
không phân biệt con nuôi, con đẻ, con ngoài giá thú hay trong giá thú.
Năm 1959 Luật HNVGĐ đã được Quốc hội thông qua ngày 29/12/1959
và công bố ngày 13 tháng 1 năm 1960 đã tiếp tục hoàn thiện các chế định
về việc xác định quan hệ cha, mẹ, con. Tại Điều 22, Điều 23 Luật HNVGĐ
năm 1959 quy định : Điều 22 “Người con ngoài giá thú được xin nhận cha
hoặc mẹ trước Toà án nhân dân. Người mẹ cũng có quyền xin nhận cha
thay cho đứa trẻ chưa thành niên. Người thay mặt cũng có quyền xin nhận
cha hoặc mẹ thay cho đưa trẻ chưa thành niên”. Điều 23 “Con ngoài giá thú
23
SVTH: 

GVHD: 
được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ, có quyền
lợi và nghĩa vụ như con chính thức”.
Như vậy LHNVGĐ năm 1959 đã mở rộng hơn về người có quyền yêu
cầu xác định quan hệ cha, mẹ, con so với các chế định luật trước đây. Tuy

nhiên nó chưa dự liệu về nội dung nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định
cha, mẹ, con trong giá thú giá thú cũng như con ngoài giá thú mà chỉ quy
định quyền được xác nhận cha mẹ của con ngoài giá thú.
Trên cơ sở kế thừa Luật HNVGĐ năm 1959, Luật HNVGĐ năm 1986
đã có những bước phát triển mới. Quan hệ cha, mẹ, con được xây dựng
thành một chương độc lập -Chương V. Theo đó, các vấn đề về xác định
quan hệ cha, mẹ, con được quy định như nguyên tắc suy đoán pháp lý để
xác định cha, mẹ, con trong thời kỳ hôn nhân, quyền nhận cha, mẹ, xác
định cha, xác định con, các chủ thể có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
và các cơ quan có thẩm quyền công nhận việc xác định cha, mẹ, con. Đối
với việc xác định cha cho con ngoài giá thú thì Điều 29, Điều 31 Luật
HNVGĐ năm 1986 mới chỉ quy định phạm vi chủ thể có quyền yêu cầu
xác định mối quan hệ cha mẹ và con mà chưa quy định cụ hể những bằng
chứng để xác định quan hệ đó.
Luật HNVGĐ năm 2000 ra đời đã đáp ứng được những yêu cầu trong
giai đoạn mới, những sự thay đổi cần thiết, hủy bỏ những quy định không
còn phù hợp nữa. LHNVGĐ năm 2000 đã bổ sung một số quy định mới
nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của cha, mẹ, con trong mối quan hệ
này đồng thời quy định việc xác định quan hệ cha, mẹ, con cho con được
sinh ra theo phương pháp khoa học. Đây là quy định mới dựa trên sự phát
triển của khoa học công nghệ ngày nay. Mặt khác luật cũng quy định cụ thể
chi tiết hơn về các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án hoặc
đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án xác định quan hệ cha, mẹ, con trong
một số trường hợp đặc biệt.
24
SVTH: 

GVHD: 
Như vậy qua đây chúng ta thấy vấn đề xác định quan hệ cha, mẹ, con
đã được pháp luật quy định rất sớm mặc dù những quy định đó còn có

nhiều bất cập. Tuy nhiên nhờ những quy phạm pháp luật đó mà cũng đã
góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và tạo nền tảng
để hệ thống pháp luật sau quy định vấn đề đó được hoàn thiện hơn.
25
SVTH: 

×