Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.69 MB, 80 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
QUẢN
TRỊ
KINH
DOANH
CHUYÊN NGÀNH
LUẬT
KINH
DOANH
QUỐC
TẾ
KHOA
LUẬN
TÓT
NGHIỆP
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG
HOẠT
ĐỘNG
BẢO Hộ NHÃN HIỆU
TẠI
VIỆT
NAM:
THỰC
TRẠNG


GIẢI
PHÁP
THU- VIỄN]
u/
Nguyễn Thị Huyền Trang
Anh Ì
K44
Th.s
Hồ
Thúy Ngọc
Sinh
viên
thực
hiện
Lớp
Khoa
Giáo
viên
hướng dẫn

Nội,
05
-
2009
MỤC LỤC
LỜI
MỞ ĐẦU Ì
Chương
1:
Một số vấn đề cơ bản về

cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
4
ì.
Cạnh
tranh

cạnh
tranh
không lành
mạnh
4
1.
Khái
niệm
về
cạnh
tranh
4
ĩ.
Khái
niệm
về
cạnh

tranh
không lành
mạnh
7
3.
Các
biểu hiện
của
cạnh
tranh
không lành
mạnh
9
4.
Tác động của
cạnh
tranh
không lành
mạnh
14
4.1. Tác động đến nền
kinh tê
14
4.2. Tác động đến bản thân doanh
nghiệp
lổ
li.
Nhân
hiệu


hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
19
1.
Khái
niệm
về nhãn
hiệu
19
2.
Khái
niệm
về
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
23
3.

nghĩa
của
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
29
HI.
Cạnh
tranh
không lành

mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
30
1.
Đặc diêm
nhận dạng
30
2.
Ánh
huống
của
cạnh
tranh
không lành
mạnh
đến nhãn
hiệu
được
bảo
hộ 33
Chương
2:
Thồc
trạng
cạnh
tranh
không lành

mạnh
trong
hoạt
động bảo
hộ
nhãn
hiệu ỏ'
Việt
Nam 36
ì.
Quy định của pháp
luật
Việt
Nam về các hành
vi
cạnh
tranh
không
lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
36
1.
Nguồn
luật
điều chỉnh
hành

vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
36
2.
Các
nội
dung
cụ
thể
41
li.
Thồc
trạng
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu

Việt
Nam 48
1.
Thồc
trạng
đăng ký bảo hộ nhãn

hiệu
của các
doanh
nghiệp
48
2.
Thực
trạng
tự
bảo vệ nhãn
hiệu
của
các
doanh
nghiệp
52
HI.
Các
biếu hiện
của
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động
bảo
hộ
nhãn

hiệu

Việt
Nam 54
1.
Các
hành
vi
phổ
biến
54
2.
Ánh
hưởng của
các
hành
vi
đó
đến nhãn
hiệu
được
bảo hộ
57
Chương 3:
Giải
pháp
chống
hành
vi
cạnh

tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động
bảo hộ
nhãn
hiệu
60
ì.
Giải
pháp
từ
phía
nhà
nước
60
li.
Giải
pháp
từ
phía
các
doanh
nghiệp

nhãn
hiệu
được

bảo hộ
67
KẾT
LUẬN
71
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 73
DANH MỤC BẢNG
BIÊU
Bảng
1:
Tình hình nộp đơn đăng ký Nhãn
hiệu
hàng hóa
trực
tiêp
tại
Việt
Nam 49
Bảng
2: Tình hình
giấy
chứng nhận
đăng
ký NHHH
được cấp
tại
Việt
Nam 51

LỜI
MỞ ĐÀU
1.
Tính cấp
thiết
của đề tài
Cùng
với
sự phát
triển
của nền
kinh
tế
thị
trường và sự
gia
tăng, đa
dạng
hóa các
loại
hình
sản
phẩm,
người
ta
không
chỉ quan
tâm đến các
tài
sản

hữu
hình mà ngày càng chú
trọng
đến một
loại
tài sản
vô hình có giá
trị
to
lớn
đó chính là nhãn
hiệu
- một
đối
tượng
của sờ hữu công
nghiệp.
Đối
với
các
doanh
nghiệp,
cạnh
tranh
ngày nay không chì dựa vào
chồt
lượng,
giá cả mà
còn dựa vào giá
trị

vô hình đi kèm
với
sản phàm đó chính là nhãn
hiệu bời
lẽ
nó là một
trong
những
yếu
tố quan
trọng
mang
lại
"sức hút" cho sản phàm.
Khi đối
tượng
sờ hữu công
nghiệp
mà ở đây chính

nhãn
hiệu trờ
thành yếu
tố
thể hiện
lợi
thế
cạnh
tranh trong
thương

mại thì
đồng
thời
bắt
đầu
xuồt hiện
những
hành
vi
cạnh
tranh
không lành mạnh. Đó là hành
vi
chiêm
đoạt,
sử
dụng
trái
phép nhãn
hiệu
đã được đăng ký bảo hộ
bời
các
doanh
nghiệp
đã có
chỗ
đứng trên
thị
trường nhăm mục đích tiêu

thụ
sản phàm mà không
phải
mồt
công
tạo dựng
hình ảnh và uy
tín.
Thực
tiễn
thị
trường
Việt
Nam
trong
những
năm gần đây đã cho
thồy
hàng
loạt
"tên
tuổi"
nổi tiếng
bị
cạnh
tranh
không lành
mạnh
như May
Việt Tiến,

đồ
uống
Nesle's,
bột
giặt
Omo

đặc
biệt
trên
thị
trường
thuốc,
tình
trạng
cạnh
tranh
không lành
mạnh
thực
sự

một
vồn
nạn.
Các
sản
phẩm như:
hoạt
huyết

dưỡng
não
của
công
ty
cố
phần
Traphaco,
thuốc
điều
trị viêm loét dạ dày
Gastropulgite
của công ty
S.C.R.A.S
bị một số
doanh
nghiệp
khác
bắt
chước nhãn
hiệu
gây
thiệt
hại
đến
kinh tế,
uy tín của
doanh
nghiệp


nguy
hiểm
hơn là đe dọa đến sức
khỏe,
tính
mạng
của
người
tiêu dùng.
Do
đó,
để đâm bảo môi trường
cạnh
tranh
lành mạnh, phát
triển
kinh tế
bền
vững thì
việc
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bào hộ
nhãn
hiệu


yêu câu cân
thiết
đôi
với Việt
Nam
trong
giai
đoạn
hiện nay.
Mặc
dù đã có
nhiều
cố
gang
trong
công tác xây
dựng
pháp
luật
về
chống cạnh
Ì
tranh
không lành
mạnh
liên
quan
tới
sờ hữu công
nghiệp

nói
chung

trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
thời
gian
qua nhưng hệ
thống
này vẫn
tỏ ra nhiều
bất
cập.
Các quy định về
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh
nằm
tản
mạn ờ
các văn bản pháp
luật
khác
nhau,
do đó gây khó khăn cho công tác
thực
thi


bảo hộ.
Chính vì
vậy,
nhu cầu cấp bách
hiện
nay là đễy
mạnh
hoạt
động
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu,
đặc
biệt
phải
xây
dựng
hệ
thống
pháp
luật
phù hợp
với
thực

tiễn
Việt
Nam và
tương thích
với
các quy định
quốc
tế,
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho
việc
bảo hộ
một
cách đầy đủ và
hiệu
quả.
Trong
khuôn khổ khóa
luận tốt
nghiệp,
em đã
chọn
đề tài "Cạnh
tranh
không lành
mạnh

trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu tại Việt
Nam" nham
nghiên cứu một số vấn đề lý
luận

thực
trạng
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu

Việt
Nam,
từ
đó đưa
ra
một số
giải
pháp
hoàn
thiện
hệ

thống
pháp
luật
liên
quan
và nâng cao
hiệu
quả
hoạt
động bảo
hộ
nhãn
hiệu
trước
hành
vi
cạnh
tranh
không lành mạnh.
2.
Mục đích và
nhiệm
vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên
cứu:
Qua
việc
nghiên cứu một số vấn đề lý
luận


thực
tiễn

cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu,
khóa
luận
đề
xuất
một số
giải
pháp nhằm nâng cao
hiệu
quả
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
của các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
khi xuất
hiện

hành
vi
cạnh
tranh
không lành mạnh.
Nhiệm
vụ nghiên
cứu:
- Hệ
thống
hóa và làm rõ
những
vấn đề lý
luận
cơ bản liên
quan
tới
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
- Phân tích quy định
của
pháp
luật
Việt

Nam về
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
- Phân tích
thực
trạng
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu

Việt
Nam
2
- Đe
xuất
một số giãi pháp nhằm nâng cao
hiệu
quả
hoạt
động bảo hộ
nhãn
hiệu khi
xuất
hiện

hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

Việt
Nam
3.
Đối
tượng
nghiên cứu của đề tài
Đe
tài
nghiên cứu về vấn đề
cạnh
tranh
không lành
mạnh
đối
với
nhãn
hiệu
được bảo hộ
tại
Việt
Nam
4.
Phương pháp nghiên cứu

Khóa
luận
sử
dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
phương
pháp tông
họp,
phân
tích,
kết
hợp nghiên cứu lý
luận

tờng
hợp
thực
tiễn.
Các phương pháp này được sử
dụng
trong
sự
kết
hợp
chật
chẽ
với
nhau.
5.

Bố cục
kết luận
Ngoài
lời
mờ đầu và
kết luận,
khóa
luận
có bố
cục
gồm 3 chương:
Chương
Ì:
Một số vấn đề cơ bản về
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
Chương 2:
Thực
trạng
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong

hoạt
động
bảo
hộ nhãn
hiệu

Việt
Nam
Chương
3:
Giải
pháp
chống
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
Đe hoàn thành được khóa
luận,
em đã cố
gang
tìm
tòi,
tông hợp và

phân tích các thông
tin,
tài
liệu
thu
thập
được.
Tuy
nhiên,
do hạn chế về mặt
thời
gian

vốn
kiến
thức
còn
ít
ỏi,
kinh
nghiệm
chưa
nhiều,
khóa
luận
không
thể
tránh
khỏi
những

thiếu
sót.

vậy,
em
rất
mong
nhận
được sự
chỉ
bảo
tận
tình
của
các
thầy

trong
trường và sự góp ý
của
bạn
đọc.
Em
xin
chân thành cảm ơn các cán bộ và lãnh đạo Cục Quản lý
cạnh
tranh,
Cục Sờ hữu
tri
tuệ,

và đặc
biệt
là ThS. Hồ Thúy
Ngọc,
đã
nhiệt
tình
hướng
dẫn,
giúp
đỡ, cung
cấp
tài
liệu
quý báu để em có
thể
hoàn thành khóa
luận
này.
3
Chương
1:
Một
số
vấn đề cơ bản về
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong

hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
ì. Cạnh
tranh

cạnh
tranh
không lành
mạnh
/.
Khái niệm
về
cạnh tranh
Kinh
tế thị
trường được xem là một
trong
những
phát
minh vĩ
đại
nhất
trong lịch
sử phát
triến
của
văn
minh
nhân

loại
khi
con
người
đã
phải
trải
qua
sự
thống
trị
của
kinh tế
tự
nhiên luôn làm cho xã
hội
vận động chậm
chạp

sự
thống
trị
của
kinh tế
chỉ
huy làm mất động
lực kinh
tế,
triệt
tiêu tính năng

động
và sáng
tạo
của
con
người.
Cho đến
nay,
chúng
ta
không
thể
tìm
ra
được
một
kiểu
tọ chức
kinh
tế
nào có
hiệu
quả hơn
kinh
tế
thị
trường vì nó luôn
hàm
chứa
trong

mình
những
thách
thức
đối
với
sự
nhạy
bén và sáng
tạo
của
con
người
thông qua môi trường
cạnh
tranh.
Các học
thuyết
về
kinh tế thị
trường
hiện đại

thuộc
trường phái chủ
nghĩa
tự do hay trường phái chủ
nghĩa
can
thiệp

đều đi đến
kết
luận
rằng:
Cạnh
tranh với
đặc trưng là động
lực
phát
triển
nội
tại
của
mỗi nền
kinh tế
chỉ
xuất hiện

tồn
tại
trong
điêu
kiện
của
kinh tế thị
trường.
Điều
cần
nhấn
mạnh

là, cạnh
tranh
chỉ
xuất hiện với
đặc trưng là động
lực
phát
triển
nội
tại
của
nền
kinh tế
trước áp
lực
liên
tục
của người
tiêu dùng
đối
với
giá cả
buộc
các chủ
thể kinh
doanh
phải
phản
ứng
tự

phát,
phù hợp
với
các
mong
muốn
thay
đọi
của
người
tiêu dùng. Cạnh
tranh
cũng
chỉ
hiện
thân
với
đặc trưng là động
lực
thúc đẩy
lực
lượng
sản
xuất

hội
phát
triển
nhằm nâng cao năng
suất

lao
động,
đẩy
nhanh
quá trình tích
tụ

tập trang
sản xuất trong
điều
kiện
các
yếu
tố
của sản
xuất
như
tài
nguyên,
chất
xám, sức
lao
động
đều là hàng
hóa.
Hơn
nữa, cạnh
tranh
cũng chỉ
xuất hiện

thực
sự
với
đặc trưng là một
cuộc
đua
tranh trong
một ngành, một
lĩnh
vực
kinh
tế
nào đó
khi
có sự
tham
gia
của
các
chủ
thế kinh
doanh

lợi
ích cơ bản

mâu
thuẫn
nhau.
Những phân tích trên đây đã cho phép

kết luận
rằng,
cạnh
tranh
4
chỉ xuất hiện
trong
điều
kiện
của
kinh
tế thị
trường,
nơi mà
cung cầu là
cốt vật
chất,
giá cả

diện
mạo và
cạnh
tranh

linh
hồn
sống của
thị
trường.
Thông qua sự phân tích cơ sở

kinh
tế
và pháp lý của
hiện
tượng
cạnh
tranh
đã
chứng tặ
rằng:
Cạnh
tranh
là một
hiện
tượng xã
hội
rất
phức tạp

đòi
hặi
cần
phải
được làm sáng
tặ

nhiều tầng
tiếp
cận khác
nhau

và chính
điều
này
cũng

giải
tính không
thống nhất
trong
các định
nghĩa
về
cạnh
tranh
đặc
biệt

về phạm
vi
của
thuật
ngữ này.
Với
cách
tiếp
cận
cạnh
tranh

thủ

pháp của các nhà
kinh
doanh,
theo
từ
điển
Kinh
doanh
của Vương
quốc
Anh,
xuất
bản năm
1992, cạnh
tranh
được
định
nghĩa
như
sau:
"Cạnh
tranh
là sự
ganh đua,
sự kình địch
giữa
các
nhà
kinh
doanh

trên
thị
trường nhằm
tranh
giành cùng một
loại
tài
nguyên sản
xuất
hoặc
cùng một
loại
khách hàng về phía mình".
Cục
chống
Tờ-rớt thuộc
Bộ Tư pháp Mỹ dùng định
nghĩa cạnh
tranh
đối
với
một
quốc
gia
như
sau:
"Cạnh
tranh
đối với
một

quốc
gia

mức độ mà

đó,
dưới
các
điều
kiện
thị
trường
tự
do và công
bằng,

thể
sản
xuất
các
hàng hóa và
dịch
vụ đáp ứng được các đòi
hặi
của các
thị
trường
quốc
tế,
đồng

thời
duy
trì
và mờ
rộng thu
nhập
thực tế
của
nhân dân nước đó".
Báo cáo về
cạnh
tranh
toàn câu định
nghĩa cạnh
tranh
đối với
một
quốc
gia
là:
"Khả năng của nước đó
đạt
được
những
thành quả
nhanh
và bền
vững
về
mức

sống, nghĩa

đạt
được các tỷ
lệ
tăng trường
kinh
tế
cao được xác
định
bằng
thay
đổi
của
tổng
sản phẩm
quốc
nội
(GDP) trên đầu
người
theo
thời
gian".
Diễn
đàn cấp cao về
cạnh
tranh
công
nghiệp
của Tổ

chức
họp tác và
phát
triển
kinh
tế
(OECD)
đã
chọn
định
nghĩa
về
canh
tranh
kết
hợp cả các
doanh
nghiệp,
ngành,
quốc gia
như
sau:
"Khả năng của các
doanh
nghiệp,
ngành,
quốc
gia
và vùng
trong việc

tạo ra
việc
làm và
thu
nhập
cao hơn
trong
điều
kiện
cạnh
tranh
quốc
tế".
5
Còn
trong
từ
điển
Tiếng
Việt
thì
cạnh
tranh
được
hiểu
là "cố
gắng
giành
phần
hơn,

phần
thắng
về mình
giữa
những
người,
những
tố
chức
nhăm
những
lợi
ích như
nhau".
1
Qua các khái
niệm
trên có
thể
nhận
thấy
một
điểm
chung

cạnh
tranh

sự
chạy

đua
giữa
ít
nhất

hai đối thủ vằi
nhau
trờ lên.
Cạnh
tranh trong kinh
tế,
về bản
chất,
được
hiểu
là sự
chạy
đua
giữa
các
doanh
nghiệp
trên
thị
trường
liên
quan
nhằm không
ngừng
tung

ra thị
trường
những
sản phàm có giá
trị tốt
nhát
vằi
giá cả
rẻ
nhất
nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Nêu nhìn từ
phía các chủ
thể kinh
doanh,
cạnh
tranh
là phương
thức
giải
quyết
mâu
thuẫn

lợi
ích tiêm năng
giữa
các nhà
kinh
doanh
vằi vai

trò
quyết
định của
người
tiêu đùng. Nêu nhìn khái quát trên quy mô toàn xã
hội,
cạnh
tranh
là phương
thức
phân bổ các
nguồn
lực
một cách
tối
ưu,
do đó

động
lực
bên
trong
thúc
đấy
nền
kinh tế
phát
triển.
Điều
cần

nhấn
mạnh
là,
cùng
vằi
mục đích tôi đa
hóa
lợi
nhuận
của
các
doanh
nghiệp,
cạnh
tranh
đã thúc đây quá
trình
tích
tụ

tập trung
tư bản
diễn ra
không đồng đều ờ các ngành,
lĩnh
vực
kinh tế
khác
nhau.
Đây


tiền
đề
vật
chất
cho sự hình thành các hình thái
cạnh
tranh
không
hoàn hảo
trong
đó có độc
quyền.
Cạnh
tranh
còn

mòi trường đào
thải
các nhà
kinh
doanh
không thích
nghi
được
vằi
các
điều
kiện của thị
trường.

Cho đến
những
năm
của cuối thế
kỷ
này,
hầu
hết
các nưằc có nền
kinh
tế
thị
trường đều đã có pháp
Luật
Cạnh
tranh
và sử
dụng
chúng như một công
cụ
khuyến
khích và đảm bảo
"linh
hồn
sống"
của cơ chế
thị
trường
vằi
hy

vọng
rằng
cạnh
tranh

thể
đem
lại
một số
lợi
ích
sau
đây:
Thứ
nhất,
đảm bảo đáp ứng
thị hiếu
và nhu cầu của
người
tiêu dùng.
Người
tiêu dùng
nhận
được cái mà họ
muốn
vì nếu một
người
bán không
cung
cấp cho họ cái họ muôn thì sẽ luôn luôn có

người
khác sẵn sàng làm
điều
đó.
':
Từ
điển
Tiếng
Việt
-
Trung
tâm Từ
điền
tiếng Việt
xuất
bàn năm 1998
6
Thứ
hai,
người
tiêu dùng
nhận
được cái họ
muốn
với
giá
thấp
nhất

thể.

Trong
môi trường
cạnh
tranh,
không
ai

thế
bóc
lột
người
tiêu dùng vì
luôn có một số
đối thủ
mời chào sản phẩm
với
giá
thấp
hơn. Giá cả
trong

chế thị
trường nhìn
chung bằng
chi
phí
sản
xuất
cộng
lợi

nhuận
vệa đủ đế cho
phép
người
sản
xuất
tồn
tại
kinh
doanh.
Thứ ba, khuyến
khích áp
dụng
công
nghệ mới.
Công
nghệ
mới có ý
nghĩa

giảm
chi
phí
sản
xuất
và các hãng áp
dụng
công
nghệ
mới sẽ có khả

năng
chiếm
được
phần
lớn thị
trường do bán
rẻ
hơn so
với
các
đối thủ cạnh
tranh
của
họ
Thứ
tư, tạo
sức ép, buộc
các
doanh
nghiệp
phải
sử
dụng

hiệu
quả các
nguồn
lực (lao
động,
vốn, kinh

nghiệm quản
lý)
để tăng
hiệu
quả
kinh tế.
Thứ
năm,
tạo
sự đôi mới nói
chung,
thường xuyên và liên
tục
vì vậy
mang
lại
tăng trường
kinh tế
cao.
2.
Khái niệm
về
cạnh tranh không tành
mạnh
Theo
quy định
tại
khoản
4
Điều

3
Luật
Cạnh
tranh
2004:
"Hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

hành
vi
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
trong
quá trình
kinh
doanh
trái
với
các
chuẩn
mực thông thường về đạo đức
kinh
doanh,
gây

thiệt
hại
hoặc
có thê gây
thiệt
hại
đèn
lợi
ích
của
Nhà
nước,
quyền

lợi
ích
hợp
pháp
của
các
doanh
nghiệp
khác,
người
tiêu dùng".
Tệ quy định trên
ta thấy,
cạnh
tranh
không lành

mạnh,
trước
hết,

một
khái
niệm
bắt
nguồn
tệ
những
quy định
mang
tính nguyên
tắc trong
pháp
luật
dân
sự,
theo
đó, các chủ
thể
trong
giao
dịch
(dân sự hay thương
mại)
phải
đảm bảo tuân
thủ

thuần
phong,
mỹ
tục
và đạo đức xã
hội

mỗi quốc
gia.
Với
những
quy định như
vậy,
giao
dịch
thương mại
cũng
phải
đảm bảo tôn
trọng
những
quy
tắc trong

hội
về đạo đức
kinh
doanh.
Sự phát
triển

đa
dạng
của
các
quan
hệ thương mại
trong
điều
kiện
tự
do
cạnh
tranh
ờ các nền
kinh
tế
theo
cơ chế
thị
trường đã kéo
những
hành
vi
cạnh
tranh
đa
dạng, phức
tạp
nhằm giành được
lợi

thế
nhất
định cho mình
thậm
chí gây
thiệt
hại
cho
đối
7
thủ
cạnh
tranh
khác. Hành
vi cạnh
tranh
không lành
mạnh

thể
hiểu

những
hành
vi
cạnh
tranh
của chủ
thể tham gia
thị

trường
vi
phạm
những
chuẩn
mực đạo đức
kinh
doanh
thông thường có
thế
gây
thiệt
hại
về
vật chất
hoặc
tinh
thần
cho
chủ
thể kinh
doanh
khác và
người
tiêu dùng.
Với
bản
chất
là sự
ganh

đua
giữa
các
doanh
nghiệp
trong việc
giành ưu
thế
của mình trên
thị
trường để
đạt
mợt mục tiêu
kinh
doanh
cụ
thế,
cạnh
tranh
luôn
tạo ra
sức ép
hoặc
kích thích ứng
dụng khoa
học công
nghệ
tiên
tiến
trong

sản
xuất, cải
tiến
công
nghệ,
thiết
bị
sản
xuất
và phương
thức
quản
lý nhăm nâng cao
chất
lượng
sản
phàm, hạ giá thành và giá bán hàng
hóa.
Đê
đạt
được mục tiêu của mình,
trong
quá trình đó,
doanh
nghiệp
có khả năng
sáng
tạo
rất nhiều
cách

thức
ganh
đua khác
nhau, tạo ra
tình
trạng

những
mức đợ khác
nhau, thậm chí,
xuât
hiện

những
hành
vi
trái
với
các
chuẩn
mực đạo đức
kinh
doanh.
Những hành
vi
trái
với
chuẩn
mực đạo đức
kinh

doanh
thông thường chính
là cạnh
tranh
không lành
mạnh.
Thuật
ngữ
cạnh
tranh
không lành
mạnh
cũng
được sử
dụng
(không
phản
ánh mức đợ
cạnh
tranh
cao hay
thấp)
phản
ánh khía
cạnh chuẩn
mực đạo
đức
trong kinh
doanh
của các chủ

thể
tham
gia thị
trường.
Thông
thường,
đế
xác định mợt
doanh
nghiệp
có khả năng
cạnh
tranh với
doanh
nghiệp
khác
hay
không,
phải
căn cứ vào các chỉ tiêu thê
hiện
năng
lực
và trình đợ
trong
kinh
doanh,
như quy mô đâu
tư, doanh
số,

công
nghệ,
hiệu
quả
lợi
nhuận
Đối
với doanh
nghiệp
cạnh
tranh
không lành
mạnh
,
thay

quan
tâm đến
điều
kiện
trên đây, họ
tiến
hành
cạnh
tranh
bằng
các
biện
pháp
thiếu

trung
thực, giả dối
như:
quảng
cáo
thối
phồng những
đặc tính hữu
ích,
chất
lượng
cao
hơn
thực
tế
đạt được,
nói
xấu,
gièm pha
chất
lượng
hàng
hóa,
hạ
thấp
uy
tín
của
thương nhân khác
Nhìn

chung, cạnh
tranh
không lành
mạnh

những
hành
vi
cạnh
tranh
đi ngược
lại
các nguyên
tắc

hợi,
tập
quán và
truyền
thống
kinh
doanh,
xâm
phạm
lợi
ích của các nhà
kinh
doanh
khác,
lợi

ích của
người
tiêu dùng và
lợi
8
ích của xã
hội.
Cạnh
tranh
không lành
mạnh
hay
cạnh
tranh
không
đẹp,
bất
chính không
chứa
đựng
bất
kỳ tác động tích cực nào đến
thị
trường mà chúng

những
hành
vi
sử
dụng thủ

pháp
gian
dối,
không
trung
thực,
không lành
mạnh,
gây cản
trở hoạt
động
hoậc
gây
thiệt
hại
trực
tiếp
hoậc
gián
tiếp
đến
chủ thể
kinh
doanh
khác.
Theo
quy định
tại
Điều
39

của
Luật
Cạnh
tranh
2004,
các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
bao gồm:
- Chỉ dẫn gây nhầm
lẫn
- Xâm phạm

mật
kinh
doanh
- Ép
buộc
trong kinh
doanh
- Gièm pha
doanh
nghiệp
khác
- Gây
rối
hoạt

động
kinh
doanh của doanh
nghiệp
khác
- Quảng cáo nhằm
cạnh
tranh
không lành
mạnh
-
Khuyến mại
nhằm
cạnh
tranh
không lành
mạnh
- Phân
biệt
đối
xử
của
hiệp
hội
- Bán hàng đa
cấp
bất
chính
- Các hành
vi

cạnh
tranh
không lành
mạnh
khác
theo
tiêu chí xác định
tại
Khoản
4
Điều
3
Luật
Cạnh
tranh
do Chính phủ quy
định.
3.
Các
biểu hiện
của
cạnh tranh không lành
mạnh
về bản
chất,
hành
vi
cạnh
tranh
không lành

mạnh
là các hành
vi
chiếm
đoạt
ưu
thế
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
khác một cách
bất
hợp pháp
hoậc

hành
vi
hủy
hoại
ưu
thế
cạnh
tranh
của doanh
nghiệp
khác
hoậc là
hành
vi

tạo
ra
un
thế cạnh
tranh
giả
tạo.
Mật khác, có
thể coi "cạnh
tranh
không lành
mạnh

những
hành
vi
cụ
thể,
đơn phương, vì mục đích
cạnh
tranh
của chủ
thể kinh
doanh
luôn
thể
hiện
tính không lành
mạnh
(chứ

không
chỉ là
bất
hợp
pháp) mà mục đích của nó là gây cho một hay một số
đối thủ cạnh
tranh
cụ
thể
sự
bất
lợi
hay
thiệt
hại
trong
hoạt
động
kinh
doanh".

the
thấy,
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
có mức độ ảnh

hường
tiêu cực trên
thị
trường
9
hẹp,
thường
chỉ
tác động lên một số chủ
thể
nhất
định mà không ảnh
hưởng
đến
một khu vực
thị
trường
rộng
như hành
vi
hạn
chế cạnh
tranh,
ngay
cả
khi
những
hành
vi
đó do tính

chất
mức độ
nguy
hại
của
nó xâm phạm đến các đôi
tượng
được
luọt
hình sự bảo
vệ.
Bởi
vọy,
nhóm hành
vi
này thường không
liên
quan
trực
tiếp
đến
lợi
ích của nhà
nước.
Hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

có các
dấu
hiệu
cơ bản như
sau:
- Là hành
vi
của mọi chủ
thế tham gia thị
trường (có thê là
doanh
nghiệp,
nhưng
cũng

thể
là chủ
thể kinh
doanh
khác,
cá nhân
với vai
trò là
người
giúp
sức )
nhằm mục đích
cạnh
tranh.
Trong

điều
kiện
tự
kinh
doanh,
các chủ
thể
cạnh
tranh
buộc
phải
vươn
lên đế
thu
hút khách hàng và mờ
rộng
thị
phần,
tránh các
nguy

thua
cuộc
do
kinh
doanh
kém
hiệu
quả, nguy
cơ đào

thải
ra
khỏi
thị trường.
Ngoài
những
thủ
pháp
cạnh
tranh
dựa vào
nguồn
lực,
trí
tuệ,
khả
năng
kinh
doanh
doanh
nghiệp
thọm
chí có
thể
dùng
những
thủ
đoạn
nhằm
giảm khả

năng
cạnh
tranh
của các
đổi
thủ
khác và gây
ra những
tổn
thất
cho
họ.
Đặc
biệt

khi
chủ
thế
kinh
doanh
đã có sẵn động cơ và mục đích không
tốt,
khi
cần
phải
thực
hiện
các
thủ
pháp để

tối
đa hóa
lợi
nhuọn,
để
vượt
qua
nguy
cơ bị phá
sản, việc
sử
dụng
các
thủ
pháp
cạnh
tranh bất
chính

rất
dễ
xảy
ra.
Chủ
thế
thực
hiện
hành
vi cạnh
tranh

bất
chính này có
thể
không ai
khác chính là chủ
doanh
nghiệp
đó.
Các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
mà chủ
doanh
nghiệp
sử
dụng
để giành
thị
phần
cho mình trên
thị
trường
hàng hóa
là:
hành
vi
quảng

cáo nhằm
cạnh
tranh
không lành
mạnh,
hành
vi
khuyến
mại nhằm
cạnh
tranh
không lành
mạnh
Ví dụ như
đối với
hành
vi
quảng
cáo nhằm
cạnh
tranh
không lành
mạnh,
doanh
nghiệp
thực
hiện
quảng
cáo không
trung

thực
tâng bốc giá
trị

chất
lượng
thọt
của hàng hóa, sản
phẩm. Đó
là những
phương
thức
như
khẳng
định "ưu
thế"
của
mình
bằng
việc
so
sánh
với
hàng
hóa, dịch
vụ
của
thương nhân khác
(quảng
cáo so

sánh);
sử
10
dụng
sản phẩm
quảng
cáo
hoặc những
thông
tin

thể
gây nhầm
lẫn lừa
dối
khách hàng để
lôi
kéo khách hàng
(quảng
cáo không
trung thực).
Hành
vi
nhằm mục đích
cạnh
tranh
cũng

thể
được

thực
hiện
bởi
các
chỉ thể
kinh
doanh
khác mà không
phải

doanh
nghiệp.
Đe giành được ưu
thế
cho
doanh
nghiệp
mình, các chỉ
thể
kinh
doanh
này thường sử
dụng
các
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

sau:
hành
vi
chỉ dẫn gây nhầm
lẫn
làm
sai
lệch
nhận
thức
cỉa khách hàng về hàng hóa,
dịch vụ;
gièm pha
doanh
nghiệp
khác;
gây
rối
hoạt
động
kinh
doanh cỉa doanh
nghiệp
khác
Ngoài
ra,
chỉ
thể
thực
hiện

hành
vi

thể
là cá nhân
với vai
trò là
người
giúp
sức
Ví dụ
khi
một
doanh
nghiệp
sử
dụng
hành
vi
xâm phạm bí
mật
kinh
doanh
nhằm mục đích
chiếm đoạt.
Doanh
nghiệp
này không thê tự
mình
lấy

bí mật
kinh
doanh
đó được nên
doanh
nghiệp
này sẽ nhờ vào cá
nhân giúp sức
bằng
cách mua
chuộc
cá nhân
trong
nội
bộ
doanh
nghiệp
đó đế
nhằm mục đích
chiếm đoạt.
Nói tóm
lại,
doanh
nghiệp
sử
dụng
các hành
vi
cạnh
tranh

không lành
mạnh
đều nhằm mục đích
cạnh
tranh
để giành
lấy thị
phần
cho mình trên
thị
trường
và đánh
bại đối thỉ.
- Hành
vi
đó
phải
nhằm vào
đối thỉ
cạnh
tranh
cụ
thể,
xác định
được.
Nhu đã nói ờ
trên,
bản
chất
cỉa

hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

chiếm đoạt
hay hỉy
hoại
ưu
thế
cạnh
tranh
cỉa
doanh
nghiệp
khác một cách
bất
chính.
Do
vậy,
để
thực
hiện
hành
vi
này thì
doanh
nghiệp

phải
xác định
được
đối thỉ
cụ
thể
để tìm cách hạ
gục.
Thường
thì
các
doanh
nghiệp
bị
cạnh
tranh
không lành
mạnh

các
doanh
nghiệp
làm ăn lâu năm, có uy tín trên
thị
trường,

thị
phần
lớn.
Còn các

doanh
nghiệp thực
hiện
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
là các
doanh
nghiệp
mới
gia
nhập
ngành, làm ăn kém
hiệu
quả,
kinh
doanh
trong
cùng một
lĩnh
vực
với
doanh
nghiệp kia
(đồ
uống, cung
cấp

dịch
vụ
mạng
di
động ).
Chính vì
vậy,
các
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
không lành
mạnh
khi
muốn
tạo dựng
ưu
thế
cho mình trên
thị
trường thì
li
không còn cách nào là sử
dụng
hành
vi
cạnh
tranh
bất

chính để đánh gục
đối
thủ hiện
tại
đang nắm
giữ
ưu
thế
(gièm pha
doanh
nghiệp
khác,
gây
rối
hoạt
động
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
khác ),
hoặc cũng

thể
dựa vào thành
quả

đối thủ
đã dày công xây

dựng
để
chuộc
lợi
cho bản thân (hành
vi
chỉ
dớn
gây nhầm
lớn ).
Như
vậy,
một
doanh
nghiệp
trước
khi thực
hiện
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
thì
phải
luôn tìm cho mình một
đối
thủ
lớn

trên
thị
trường,
cung
cấp các sản phẩm hay
dịch
vụ
với
chất
lượng
tốt
và được
người
tiêu dùng
biết
đến.
Có như
thế
thì
khi thực
hiện
hành
vi cạnh
tranh
không lành
mạnh,
doanh
nghiệp
mới có
thể đạt

được mục đích

hưởng thành
quả
nhờ vào nỗ
lực
của doanh
khác
chứ
không
phải tự
mình vươn lên.
- Hành
vi
đó
trái
với
các
chuẩn
mực đạo đức
kinh
doanh, hoặc
trái
với
pháp
luật.
Sử
dụng
hành
vi

cạnh
tranh
không lành
mạnh

thủ
đoạn nhanh
nhất,
hiệu
quả
nhất
để đánh
bại đối
thủ,
giành
phần
thắng
về phía mình. Những
cách
cạnh
tranh
thông thường mà một
doanh
nghiệp
sử
dụng
đế
tạo
ra
lợi

thế
cạnh
tranh
cho mình

cắt
giảm
chi
phí nhằm hạ giá thành hay tìm cách
tạo
ra
sự
khác
biệt
hóa cho sản phàm. Nhưng đê làm được như vậy
doanh
nghiệp
cần phải
đầu tư
kinh
phí
lớn,
mất
nhiều
thời
gian
và công
sức.
Cho nên
thay

cho những
cách
cạnh
tranh
này là các
thủ
đoạn
mà các
doanh
nghiệp
sử
dụng
để tiêu
diệt
đối
thủ
đó là hành
vi
cạnh
tranh
trái
với
các
chuẩn
mực đạo đức
thông thường
(sản
phẩm
phải
hợp pháp và bảo vệ

quyền
lợi
của
người
sản
xuất,
người
tiêu dùng;
kinh
doanh
không làm
thiệt
hại
đến các
doanh
nghiệp
khác;
quảng
cáo
trung
thực;
khuyến
mại đúng
đắn)
hay là
trái
với
pháp
luật
(sử

dụng
các hành
vi
được quy định
tại
Điều
39
Luật
Cạnh
tranh
2004).
Mặt
khác,
các
doanh
nghiệp
làm ăn chân chính là các
doanh
nghiệp
tạo
ra
lợi
nhuận
dựa vào
việc
tạo ra
các nhãn
hiệu
sản
phẩm có

chất
lượng
tốt,
đảm bảo
sức
khỏe
cho
người
tiêu dùng nhằm làm cho họ
tin
tưởng và
sẵn
sàng mua sản
phẩm của mình. Còn các
doanh
nghiệp
làm ăn
bất
chính thì "ăn không" các
12
thành quả của
doanh
nghiệp
khác
bằng
cách dựa vào lòng
tin
của khách hàng
đối
với

các nhãn
hiệu
đang có trên
thị
trường chứ không chú
trọng
đèn chát
lượng
(ví dụ như hành
vi
làm hàng
giả,
hàng
nhái); hoặc
tìm mọi cách làm
cho
người
tiêu dùng không còn
tin
tường
vào nhãn
hiệu
của sản phẩm mà họ
đang dùng (gièm pha
doanh
nghiệp
khác, gây
rối
hoạt
đậng

kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
khác.) nhằm làm cho khả năng tiêu
thụ
của
doanh
nghiệp
mình tăng
lên,
đấy các
doanh
nghiệp
khác vào tình
trạng
làm ăn
thua
lỗ,
kém
hiệu
quả.
Như
vậy,
nói tóm
lại
các hành
vi
cạnh

tranh
không lành
mạnh
là các
hành
vi
xấu
và không được pháp
luật
cho phép.
- Hành
vi
đó gây
thiệt
hại
hoặc

thể
gây
thiệt
hại
cho
đối thủ cạnh
tranh
hoặc
cho
người
tiêu dùng.
Trong
quy

luật
cạnh
tranh
"mạnh
được yếu
thua",
các phương
thức
cạnh
tranh
không lành
mạnh
đã được sử
dụng
nhằm tăng
cường
khả năng
chiến
thắng
trong
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
sử
dụng
biện
pháp này.
Điều

này đồng
nghĩa
với
việc
các
doanh
nghiệp
làm ăn chân chính sẽ bị
thiệt
hại.
Bên
cạnh đó,
người
tiêu dùng
- đối
tượng
sử
dụng sản
phẩm
của doanh
nghiệp
cũng sẽ

nguy

bị
thiệt
hại.
Hành
vi

chiếm
đoạt
ưu
thế cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
khác,
chẳng
hạn bằng
cách
chiếm
đoạt
bí mật thương mại
(vốn

tài
sản mà
đối thủ
cạnh
tranh
đã
phải
đầu tư
nhiều
công sức mới có
được) hoặc
hành
vi

nhái nhãn
mác,
kiểu
dáng,
thương
hiệu,
tạo
sự nhầm
lẫn
trong
khách hàng gây
thiệt
hại
trực tiếp
cho
đối thủ
cạnh
tranh.
Hành
vi
hủy
hoại
ưu
thế cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
khác như gièm
pha đối

thủ
cạnh
tranh,
gây
rối hoạt
đậng
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
khác
khiến
cho
đối thủ
cạnh
tranh
bị mất uy
tín,
mất
thời
gian
công sức để
xử
lý các vấn đề mới phát
sinh
cũng
gây ảnh
hường
trực tiếp

cho
đối thủ
cạnh
tranh.
13
Hành
vi
tạo
ưu
thế cạnh
tranh giả
tạo
thông qua
việc
quảng
cáo
gian
dôi,
nhái nhãn
hiệu, kiểu
dáng sản phẩm của
doanh
nghiệp
khác
vừa
trực
tiêp gây
thiệt
hại
cho

đối thủ
canh
tranh
vừa gây
thiệt
hại
cho
người
tiêu dùng.
4.
Tác
động
cùa
cạnh tranh không lành
mạnh
4.1.
Tác động đến nền
kinh
tế
- Kìm hãm sự phát
triển
lành
mạnh
trong kinh
doanh
Bên
cạnh những
tác động tích cực đã trình bày ờ
trên,
cạnh

tranh
cũng
gây
ra những
tác động tiêu cực mà
biểu
hiện

những
tác động tiêu cực do
những
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
gây
ra.
Chúng
ta
có thê dê dàng
thây được
những
hành
vi
như bán hàng đa cấp
bất
chính,
quảng

cáo nhăm
cạnh
tranh
không lành
mạnh,
gièm
pha,
bôi nhọ uy tín của
doanh
nghiệp
khác
có ảnh
hưởng
như
thế
nào đến sự phát
triển
lành
mạnh
của
thặ
trường,
của
nền
kinh tế
nói
chung

lợi
ích

của
các
doanh
nghiệp
tham
gia thặ
trường
hay
lợi
ích
của
người
tiêu dùng nói riêng.
Như đã phân tích ờ
trên,
cơ chế
thặ
trường đòi
hỏi
các chủ
thể
kinh
doanh
phải
đặnh
hướng
theo
các
điều
kiện

của
thặ
trường,
được
thể
hiện
thông
qua
các
điều
kiện
của
thặ
trường,
được
thể
hiện
thông qua
việc
các nhà sản
xuất
hoặc cung
cấp
dặch
vụ
tiến
hành
cạnh
tranh
để tiêu

thụ
sản phẩm của
mình.
Cạnh
tranh
lành
mạnh
tạo
cho bạn hàng cơ
hội lựa
chọn
tối
ưu,
phân bổ
các
nguồn
lực,
đảm bảo
việc
sử
dụng

hiệu
quả các
nguồn
tài nguyên,
lao
động
và các
nguồn

vốn
khác,
sức ép
cạnh
tranh

một động
lực
thúc đây công
nghệ
phát
triển.
Nhưng
nếu
trong
một
thặ
trường có một số
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
không
bằng những
nỗ
lực,
cố
gắng
trong việc
đối

mới sáng
tạo,
nâng
cao
chất
lượng
sản phẩm mà
bằng
các
hoạt
động
cạnh
tranh
không lành
mạnh
như làm hàng
nhái,
nói
xấu,
gièm
pha, quảng
cáo
lừa
dối
thì
hoạt
động
cạnh
tranh
trên

thặ
trường sẽ không còn
thực
hiện
vai
trò là động
lực
thúc đẩy
sản
xuất,
công
nghệ
phát
triển
nữa.
Trong
trường hợp làm hàng nhái
(nhái tên thương
hiệu, kiểu
dáng ), những doanh
nghiệp
cạnh
tranh
bất
14
chính
thu
lợi
dựa trên uy tín của
doanh

nghiệp
khác,
khách hàng bị
lừa gạt

doanh
nghiệp kinh
doanh
chân chính
bị
khách hàng
tẩy
chay.
Hậu quả
tất
yêu
là hạn chế sự nghiên cứu phát
triển
sản phẩm,
đổi
mới
quản lý,
áp
dụng
các
tiến
bờ
của khoa học
kỹ
thuật

vào
sản
xuất.
- Xâm
hại
lợi
ích
của người
tiêu dùng
Người
tiêu dùng
là chủ
thể
tham
gia
trực
tiếp
vào quá trình mua
bán,
sử
dụng
hàng
hóa, dịch
vụ và là
người
cuối
cùng đánh giá
chất
lượng
của hàng

hóa, dịch
vụ
đó. Khi
các
doanh
nghiệp
tiến
hành các hành
vi
cạnh
tranh
không
lành
mạnh
thì sẽ
xâm
hại
ngay
lập tức
tới lợi
ích
của người
tiêu dùng.

luận
và báo chí gần đây đã
phản ánh,
hình
thức
bán hàng đa cấp gây

nhiều
tác
hại
cho
người
tiêu dùng.
Việc
bán hàng
với
mục đích lây tiên của
người
sau nờp cho
người trước,
đấy giá hàng
hóa, dịch
vụ lên cao mờt cách
phi
lý là sự
gian
dối.
Hỉnh
thức
này không
chấp nhận
được cả về mặt đạo đức
và pháp
luật.
Những
người
làm

đại
lý bán hàng đa cấp
phần
lớn
chỉ quan
tâm
đến
lợi
nhuận,
số hoa
hồng
được
hưởng, hoặc
muốn
gỡ
lại tiền
sau
khi
trót
mua hàng
với
giá quá
cao.

vậy,
họ không cần
biết
đến
chất
lượng,

đờ an
toàn của
sản
phẩm và dễ có tính
lừa
đảo,
gian
dối.
Do
đó,
lợi
ích
của người
tiêu dùng
bị
xâm
hại
rất
nghiêm
trọng.
Trong
"cuờc
chiến"
không lành
mạnh
giữa
các nhà
kinh
doanh,
xét vê

lâu dài
cũng
như trước
mắt, người
tiêu dùng không bao
giờ
có thê
trở
thành
"thượng
đế" mà họ
chỉ là những "nạn
nhân"
phải
hứng chịu
hậu
quả.
Sự
thiệt
thòi của "bên
thứ
3"
khi
tham
gia
quan
hệ mua bán trên
thị
trường không
thể

bù đắp được
bằng những
lợi
ích nho nhỏ mà
hiện
thời
các
doanh
nghiệp
đang
tìm cách đánh vào "lòng
tham"
của
người
tiêu dùng. Những "vị
trọng
tài
khách
quan"
này đang bị
chi phối bời
những
"món quà"
vật chất
đầy hứa hẹn
nhưng có
lẽ
chẳng
mấy
khi

hoặc
không bao
giờ
đến được
tay
họ. Người
tiêu
dùng
Việt
Nam
hiện
nay còn đang bị
"lừa
dối"
bởi
sự
quảng
cáo không
trung
thực bời
lượng
hàng
nhái,
hàng
giả nhiều
vô kế trên
thị
trường.
Những
người

15
"khách hàng" đáng thương này không
thể tự
mình xác định một cách chính
xác
chất
lượng
hàng hóa đang lưu thông trên
thị
trường
trừ phi
sau
khi
họ đã
sử
dụng

phải
gánh
chịu
toàn bộ
những
hậu quả do hàng kém
chất
lượng
đem
lại.
Hơn
thế nữa,
họ đang mất dần lòng

tin,
hoang
mang
lo lệng
và đôi
khi

bất
bình trước sự
quảng
cáo quá
lố
trên các phương
tiện
thông
tin
đại
chúng, trước sự
tiếp
thị "hiếu chiến" của nhiều
nhà sản
xuất kinh
doanh
luôn
đặt
họ vào tình
thế việc
đã
rồi.
Quyền

lợi
của
người
tiêu dùng -
đại
bộ
phận
tầng
lóp dân cư
chiếm
số đông
trong

hội
Việt
Nam - đang bị xâm
hại
nghiêm
trọng
và đang
rất
cần sự bảo vệ
từ
phía các cơ
quan
Nhà
nước,
các
quy
định

của
pháp
luật
và các công cụ
trấn
áp
của
quyền
lực
công.
Một giá cả
hợp lý,
một
chất
lượng
sản
phẩm
cao,
một phương
thức
phục
vụ
tốt
dành cho
người
tiêu dùng nêu các
doanh
nghiệp
cạnh
tranh

lành
mạnh.
- Thâm
hụt
ngân sách
quốc
gia
Không
chỉ

lợi
ích
người
tiêu dùng và các nhà
kinh
doanh
bị
xâm
hại

lợi
ích
của
Nhà nước
cũng
bị tổn
thất
bời
các hành
vi

trốn
thuế,
buôn
lậu
Nguồn
thu
ngân sách bị hao
hụt.
Điều
đó không chì ảnh
hường
đến
trật
tự
kinh
tế
mà còn đe dọa
trật
tự

hội.
Kèm
theo
đó là sự
tha
hóa
biến chất,
sự
tham
nhũng,

nhận
hối lộ
của các cán bộ nhà nước có
thẩm
quyền.
Đạo đức
kinh
doanh
của các nhà
kinh
doanh
giảm
sút.
Thực
tế diễn biến
gần đây cho
thấy hiện
tượng
này đã
trờ
thành phổ
biến
đến mức
cần phải
báo
động.
số vụ
phạm pháp
kinh tế
cũng

gia
tăng nghiêm
trọng,
tiêu
biểu
là vụ Tân Trường
Sanh,
EPCO-Minh
Phụng

ràng,
nhiệm
vụ
cấp
thiết
đặt ra là
nhà nước
ta cần phải
ban hành
những
chinh
sách, quy định đảm bảo một
trật
tự
kinh
doanh
trong
nền
kinh
tế thị

trường,
bảo vệ
lợi
ích
của
Nhà
nước,
người
tiêu
dùng và các nhà
kinh
doanh.
4.2. Tác
động
đến bản
thân doanh nghiệp
Một
tiêu chí để phân
biệt
các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh

căn cứ vào
đối
tượng
chịu

ảnh
hường
trực
tiếp
hay gián
tiếp
của
những
hành
16
vi
này. Theo
quan
điểm
chung
của pháp
luật
trên
thế
giới
thì
những
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
gây
tổn hại

đến
lợi
ích của các
doanh
nghiệp

đối
thủ
cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Những
tác
động này có
thể
bao gồm:
- Mất
thị
phần

nguy

bị
thâu tóm
Trên
thị
trường
Việt

Nam
hiện
nay,
các nhà
kinh
doanh
vảa và
nhỏ,
các
nhà
kinh
doanh
lành
mạnh
đang "kêu
cứu"
trước sức ép
tả
những
"tập
đoàn"
đầy
tiềm
năng và sức
mạnh
kinh
tế,
trước
những
thủ

đoạn
cạnh
tranh
không
lành mạnh. Những
doanh
nghiệp
yếu
thể
không
thể tồn
tại,
những
doanh
nghiệp
mới không có cơ
hội gia
nhập
thị
trường -
điều
đó
cản
trờ
quyền
tự
do
kinh
doanh,
quyền

tiến
hành các
hoạt
động
kinh
doanh
của các chủ
thế
trong

hội.
Nguyên
tắc
quyền
tự
do
trong kinh
doanh
được quy định
trong
Hiến
pháp
sẽ
không được đảm bảo
thực
hiện
trên
thực tê.
Hơn
nữa,

ngành công
nghệ
sản
xuất
trong
nước đang bị đe doa và có
nguy
cơ "mất
trắng"
thị
phần
trước sự xâm
chiếm
của hàng
ngoại,
của các
doanh
nghiệp
nuớc
ngoài giàu
kinh
nghiệm
lẫn
tài chính. Sự non
trẻ
hơn
lo
năm
kinh
doanh

trong
nền
kinh
tế thị
trường
với
hậu quả của 30 năm
chiến
tranh
và sự
lạc
hậu của
những
năm bao
cấp,
trong
điều
kiện
tình hình
kinh
tế
nước
ta
còn gặp muôn vàn khó
khăn,
thiếu
thốn,
sự
nghiệp
công

nghiệp
hóa -
hiện
đại
hóa
đất
nước đang
chập
chững
những
bước đi đầu tiên
tất
yếu các
doanh
nghiệp
trong
nước không
thể
so sánh được
với
các
doanh
nghiệp, tập
đoàn
lớn
của các nước có nền
kinh
tế thị
trường phát
triển,

nền sản
xuất
công
nghiệp
tiên
tiến.
Đành
rằng,
yêu câu phát huy
nội
lực,
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải
cải
tổ,
thay
đổi
công
nghệ,
phương
thức
kinh
doanh
tố
chức
quản


doanh
nghiệp
nhưng
trong
thời
gian
ngắn
và hoàn
cảnh
hiện
tại
điều đó không
thể
xảy
ra
một cách
nhanh
chóng. Nếu không có sự bảo hộ cho ngành công
nghiệp nội địa

thể tồn
tại
thì
không thê nói
tới
sự phát
triển
trong
tương

lai.
"Bảo hộ" ờ đây là sự bảo vệ trước
những
thủ
đoạn
kinh
doanh
không lành
mạnh,
việc
lạm
dụng
thế
mạnh
kinh
tế
của các
doanh
nghiệp
nước ngoài chứ
•ị ltv<
không
phải
là sự hỗ
trợ,
ưu đãi bao cấp về
vốn,
điều
kiện kinh
doanh,

lãi suât
tiền
vay
Hay nói cách khác, Nhà nước duy trì một
trật
tự
cạnh
tranh
lành
mạnh, môi trường
kinh
doanh
công
bằng,
tạo "đất
sống"
cho các
doanh
nghiệp
trong
nước có cơ
hội đặt "dấu ấn"
trên
thị
trường
Việt
Nam và xa hơn
là trên
thị
trường

thế
giới.
Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
phải tạo ra
được
lợi
thế
cạnh
tranh
lâu
dài,
ổn
định.
Muốn
thế,
trước
hết
hoạt
động sản
xuất
kinh
doanh
cỉa họ
phải
được an toàn
trong

một
khung
pháp
lý, trong
"vành đai"
khuôn
khổ
pháp
luật,
chính sách duy
trì
cạnh
tranh
lành mạnh.
Mặt
khác, trước chỉ trương
thu
hút vốn đầu tư nước ngoài cỉa Nhà
nước
ta hiện nay,
chúng
ta cần phải
tỉnh
táo và ngăn
chặn
hành
vi
chiếm
dụng
vốn

cỉa
doanh
nghiệp
nước ngoài. Khi các
doanh
nghiệp
liên
doanh
làm ăn
thua
lỗ thì chỉ
có phía
Việt
Nam
chịu
thiệt
còn các nhà
kinh
doanh
nước ngoài
thì bình
thản
trở
thành "ông chỉ duy
nhất"
khi
phía
Việt
Nam không còn đỉ
sức

chịu
đựng và
buộc
phải
nhượng
phần
vốn góp cỉa mình.
Tất
nhiên
điều
kiện
chuyển
nhượng là
hết
sức
thấp
và không
thuận
lợi.
Và chính lúc này sau
khi
"vắt
kiệt"
sức
lực, kinh
nghiệm
thị
trường cỉa phía
Việt
Nam, các

doanh
nghiệp
nước ngoài
với
các sản phẩm, hàng hoa
cỉa
họ đã tìm được chỗ đứng
trên
thị
trường và công
việc
làm ăn
bắt
đầu
khởi sắc.
Với tình hình này nếu
chúng
ta
không có
những
biện
pháp
khẩn
cấp, kịp
thời
ngăn
chặn
và xử lý các
hành
vi

"chơi
xấu"
này thì đến lúc nào đó
Việt
Nam
chỉ
là "sân
sau"
cỉa các
nước

bản
phát
triển.
- Mát uy
tín,
lòng
tin
từ
phía khách hàng
Những hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
như làm hàng
giả,
hàng
nhái về tên thương

mại,
nhái
kiểu
dáng sẽ làm cho khách hàng
rất
khó phân
biệt
và mua nhầm hàng kém
chất
lượng.
Từ
đó,
uy tín cỉa
doanh
nghiệp
sản
xuất
hàng chính hãng sẽ bị
tốn
thất.
Cho dù khách hàng có ý
thức
được là họ
mua
phải
hàng
giả,
hàng nhái thì họ
cũng
rát e

ngại
mua
lại
sản phàm cỉa
doanh
nghiệp
chính hãng đó do tâm lý
lo
sợ không phân
biệt
được hàng
thật,
18
hàng
giả.
Đặc
biệt

trong
ngành dược phẩm, mỹ phàm, khách hàng rát khó

thế
phân
biệt
được
những
sản phẩm có
xuất
xứ
từ Trung

Quốc
với
những
sản
phẩm của
những
hãng
nổi tiếng
ờ nước
ngoài.

theo
nhiều
khách hàng
thì họ
sẽ chuyựn sang
dùng
sản
phẩm khác mà đảm bảo

hàng chính hãng đự
tránh
những
rủi
ro
về hàng
giả.
Ngoài
ra,
trước

những
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
như
quảng
cáo so
sánh,
hành
vi
nói
xấu,
gièm pha
đối thủ
cạnh
tranh
các
doanh
nghiệp

đối
tượng
của các hành
vi
trên sẽ
phải
chịu những tốn

thất
rất
lớn
do sự
hiựu
lầm của
khách
hàng,

thự
dẫn đến tình
trạng
bị
khách hàng tây
chay.
- Mất cơ
hội kinh
doanh,
mất ưu
thế
trên
thị
trường
Bất
cứ một
doanh
nghiệp
nào
khi
hoạt

động trên thương trường đều có
bí mật
kinh
doanh
riêng
của
mình.
Điều
này càng có ý
nghĩa
trong
môi trường
cạnh
tranh

đó chính

một
trong
những
công
cụ,
phương
tiện
bảo vệ
lợi
ích
và sự thành
đạt của doanh
nghiệp.

Nhưng
cũng
vì mục tiêu
cạnh
tranh
mà các
đôi
thủ
cạnh
tranh
luôn tìm mọi cách đê
biết
hoặc chiếm đoạt
cho được
những
bí mật
trong kinh
doanh của
đối thủ
khác.
Vi
phạm
nghĩa
vụ bảo mật này thông thường là nhân viên làm
việc tại
doanh
nghiệp

theo
đó,

họ có
thự
tiếp
cận
với
tài
liệu
"nội
bộ"
đế đánh cắp
thông
tin
phục
vụ cho mục đích riêng của mình
hoặc
đưa
tin
ra
ngoài.
Hiện
nay,
quan
điựm
của đa số các nhà
luật
học còn cho
răng,
ngay
cả các thành
viên

hội
đồng
quản
trị
hay ban
kiếm
soát của công
ty
cố
phần hoặc
giám đốc
điều
hành công
ty
trách
nhiệm
hữu hạn mà
tiết
lộ
bí mật
kinh
doanh cũng
bị
coi

vi
phạm Những hành
vi kiựu
như vậy là không lành
mạnh

mà ờ
nhiều
quốc
gia
còn
bị
coi

hành
vi
phạm
tội
theo
quy định
của
pháp
luật
hình sự.
li.
Nhân
hiệu

hoạt
động bảo hộ nhãn
hiệu
/.
Khái niệm
về
nhãn hiệu
Nhãn

hiệu
đã có
từ
thời
cổ
đại.
Thậm
chí
từ
lúc con
người
còn
tự cung
tự
cấp
những
gì họ cần cho bản thân
nhiều
hơn là mua chúng
từ
những người
19
thợ thủ
công.
Thời
đó có
những
thương
gia
sáng

tạo
đã
biết
bán hàng hóa ra
bên ngoài vùng
sinh
sống
của họ và
thậm
chí có
khi tới
những
vùng rát xa.
Cách đây
3000
năm,
những
người
thợ thủ
công Ấn Độ đã tùng chạm khác
chữ
ký của mình trên tác phẩm
nghệ
thuật
trước
khi gửi
hàng
tới Iran.
Các
nhà sản

xuất
Trung
Quốc đã bán hàng hóa
mang
nhãn
hiệu
của mình
tại
Đổa
Trung
Hải

2000
năm trước và cùng
thời
gian
đó hàng ngàn nhãn
hiệu
đồ
gốm La Mã khác
nhau
đã được sử
dụng.
Nhờ
việc kinh
doanh
phát
đạt
thời
Trung

Cổ mà
việc
sử
dụng
các dấu
hiệu
để phân
biệt
hàng hóa
của
các thương
gia
và các nhà sản
xuất
đã khá phát
triển.
Tuy
vậy,
tầm
quan
trọng
vê mặt
kinh
tế của
chúng
vẫn
còn hạn
chế.
Các nhãn
hiệu

hàng hóa
bắt
đầu đóng một
vai
trò
quan
trọng với
công
cuộc
công
nghiệp
hóa và
từ
đó
từ
đó đã
trờ
thành một
yếu tố
quan
trọng trong
thê
giới
hiện đại
của thương mại
quốc
tế và nền
kinh
tế
thổ

trường.
Công
nghiệp
hóa và sự phát
triến
của hệ
thống
kinh tế thổ
trường cho phép các nhà
sản
xuât và các thương
gia
cạnh
tranh
đưa đến
người
tiêu dùng sự
lựa
chọn
đa
dạng
cho hàng hóa cùng
chủng
loại.
Thường nếu không có sự khác
biệt

ràng
đối với
người

tiêu
dùng,
chúng
chỉ
thường khác
nhau
về
chất
lượng,
giá
cả
và các đặc tính
khác.
Rõ ràng
người
tiêu dùng cần được
hướng
dẫn,
giúp
họ suy
xét các
lựa
chọn
và đi đến
quyết
đổnh
lựa
chọn
riêng cho mình
trong

số
hàng hóa
cạnh
tranh.
Do
vậy,
hàng hóa
phải
được
đật tên.
Phương
tiện
để
đặt
tên hàng hóa
trên
thổ
trường chính

nhãn
hiệu
hàng hóa.
Theo
quy đổnh
tại
khoản
16
Điều
4
Luật

Sờ hữu
trí tuệ
2005:
"Nhãn
hiệu là
dấu
hiệu
dùng đê phân
biệt
hàng
hóa,
dổch
vụ
của
các tô
chức,
cá nhân
khác
nhau".
Theo
Tổ
chức
sở hữu
trí tuệ
Thế
giới
WIPO
thì
"Nhãn
hiệu

hàng hóa là
bất
kỳ dấu
hiệu
nào giúp
chỉ
rõ hàng hoa
của
một
doanh
nghiệp
và phân
biệt
hàng hoa
của
doanh
nghiệp
với
hàng hoa
của
doanh
nghiệp
khác".
20

×