Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Lạm phát kỳ vọng và Chính sách tiền tệ ở Ấn Độ Khám phá thực nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 37 trang )


Lạm phát kỳ vọng và
Chính sách tiền tệ ở
Ấn Độ: Khám phá
thực nghiệm
Michael Debarata Patra và Partha Ray

£ t

WP/10/84

IMF Working Paper


IMF Working Paper
Office of the Executive Director
Lạm phát kỳ vọng và Chính sách tiền tệ ở Ấn Độ: Khám phá thực nghiệm
Thực hiện bởi Michael Debabrata Patra và Partha Ray
Bản quyền phân phối thuộc về Arviin Virmani
Tháng 3/2010
Giới thiệu
Bài nghiên cứu này không mang tính đại diện cho quan điểm của IMF. Quan điểm
trong Bài nghiên cứu này thuộc về (các) tác giả và không đại diện cho quan điểm của
IMF và chính sách của IMF. Bài nghiên cứu thể hiện quá trình nghiên cứu của (các) tác
giả và được xuất bản nhằm đưa ra các nhận định và cần tranh luận thêm.



Bài nghiên cứu này theo hướng sử dụng các kỹ thuật tính toán chuyên sâu để tính lạm
phát ở tương lai, dựa trên việc tìm kiếm các yếu tố quyết định của lạm phát kỳ vọng
bằng cách ước tính theo đường cong Phillips theo thuyết Keynes mới được xây dựng


trên các đặc điểm riêng của mỗi quốc gia, lập trường của chính sách tiền tệ và tài khóa,
chi phí biên tế, và các cú sốc ngoại sinh. Kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng lạm phát cao
và không ngừng gia tăng dễ dàng ăn sâu vào dự đoán của người dân về lạm phát trong
tương lai, khó thay đổi. Ngày nay, chính sách tiền tệ nhằm ứng phó với lạm phát được
tin cậy hơn là biện pháp lập tức cắt giảm trong thời kỳ tăng trưởng nóng.

MỤC LỤC

I. Dẫn nhập 1
II. Nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát ở Ấn Độ trong thời gian gần đây 3
Dấu vết của lạm phát kỳ vọng: quy định của luật chơi 8
III. Phương pháp luận 9
Đo lường lạm phát kỳ vọng tại Ấn Độ: Một cách tiếp cận thực tế 11
Các yếu tố ảnh hưởng lạm phát kỳ vọng 13
IV. Kết quả ước lượng 16
Đặc trưng chuỗi thời gian các biến 19
Các yếu tố quyết định lạm phát kỳ vọng 19
Đó có phải là phương trình kết hợp? 23
V. Kết luận 24

Bảng biểu
Bảng 1: Kết quả hồi quy phương trình lạm phát kỳ vọng 17
Bảng 2: Thống kê mô tả hiệu quả mô hình. 18
Bảng 3: Kiểm định Roots và bậc tích phân 19
Bảng 4: Kiểm định các biến phụ thuộc trên cơ sở mô hình lạm phát kỳ vọng 23
Bảng 5: Kiểm định biến phụ thuộc Consensus Expectations 23
Bảng 6: Kết quả theo phương pháp Engle-Granger 24
Bảng 7: Các biến trong mô hình xác định lạm phát kỳ vọng 27
Bảng 8: Các biến trong mô hình xác định lạm phát kỳ vọng theo Consensus
Expectations 28

Bảng 9: Kiểm định đồng liên kết vector LR theo Maximal Eigenvalue 29
Bảng 10: Kiểm định đồng liên kết vector LR theo Trace of Stochastic Matrix 29
Bảng 11: Ước lượng đồng liên kết vector theo Johansen Estimation 29

Đồ thị
Đồ thị 1: Consumer price inflation 5
Đồ thị 2: Biến động WPI và lạm phát CPI 6
Đồ thị 3: Lạm phát thực tế và mô phỏng (PI) 17
Đồ thị 4: Dự báo lạm phát của Consensus và lạm phát thực tế (tháng) 18
Đồ thị 5: Phản ứng đột xuất đối với thay đổi trong lãi suất thực 21

Phụ lục
Phụ lục I: yếu tố xác định lạm phát kỳ vọng 27
Phụ lục II: đồng liên kết vetor lạm phát kỳ vọng và các yếu tố quyết định 29

Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 1

I. Dẫn nhập
Trong vài tháng trở lại đây, những tín hiệu phục hồi trở lại từ cuộc khủng hoảng kinh
tế toàn cầu đã rộng mở hơn. Nỗ lực ngăn chặn đà suy giảm được dẫn dắt từ sự phục
hồi mạnh mẽ của nền kinh tế khu vực Châu Á, mà ở đó các nền kinh tế riêng biệt đều
có những xuất phát điểm khác nhau trong một chu kì, ví dụ Ấn Độ và Trung Quốc cho
thấy sự phục hồi theo hình chữ V. Trong lúc, các nhà đánh phân tích kinh tế đang đánh
giá xem liệu có hay không điều tồi tệ nhất cũng đã trôi qua, thì có sự đồng tình rằng
các biện pháp “giải cứu” dường như giảm đi và không còn mạnh mẽ như trước, tình
trạng thất nghiệp và tín dụng đã được kiềm chế, ít nhất là trong giai đoạn gần đây. Tuy
nhiên, sự phục hồi này đang đứng trước một thách thức lớn. Đó chính là sự trở lại
mạnh mẽ của lạm phát, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển, và điều này đã
dấy lên nỗi lo về một chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ sớm được thực hiện và khi đó sự

tăng trưởng kinh tế – vốn đang khá mong manh – lại bị bóp chặt trở lại.
Sự bùng phát trở lại của lạm pháp đang đặt ra tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các cơ
quan điều hành chính sách tiền tệ trên thế giới – “vấn đề nan giải nhất hiện nay trong
kinh tế học” (Samuelson, 2009). Tình trạng lạm phát thấp với nỗi lo suy thoái đang
hiện diện ở một số lĩnh vực và sự trì trệ hiện rõ trong hoạt động kinh tế đã tạo ra lí do
hợp lý để tiếp tục chính sách tiền tệ có sự linh hoạt cao. Cùng lúc đó, nỗi lo sợ về mầm
mống của lạm phát tương lai sẽ trở lại khi thanh khoản dư thừa. Và điều này này là lý
do hợp lý ủng hộ cho việc kết thúc sớm những kế hoạch/chiến lược linh hoạt ở trên.
Bài học trong quá khứ về tình huống này chính là “vấn đề thuộc về tâm lý”. Kì vọng
hình thành theo cách mà những bộ phận/thành phần trong nền kinh tế ứng xử. Nếu họ
lo ngại về lạm phát, họ sẽ hành động theo cách này hoặc cách khác mà chính những
điều này đã gây ra lạm phát. Chiều ngược lại cũng đúng trong giai đoạn cuối những
năm 1940.
Tại Ấn Độ, có lẽ rõ ràng hơn những nơi khác, tình huống khó xử này căng thẳng như
nằm trên cạnh một chiếc “dao cạo”. Khi mà chỉ số giá bán sỉ (WPI) đã tăng từ mức
khoảng 1% vào tháng 10/2009 lên mức 9,9% vào tháng 2/2010, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) đã và đang tăng mạnh lên hai con số do sự đắt đỏ của giá lương thực kéo dài
suốt hơn một năm. Lạm phát hai con số cũng xuất hiện trong rổ thực phẩm của chỉ số
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 2

WPI. Chỉ số các loại hàng hóa là thực phầm tăng 17,8% trong thời gian chưa đến một
năm (tính tại tháng 2/2010) . Chỉ số giá các loại hàng hóa thiết yếu, chiếm 22,03%
trong rổ WPI, đã tăng đến 15,5%, ngang ngửa với các loại thực phẩm. Điều đáng lo
ngại là sự gia tăng giá cả hàng hóa lại xảy trong trong môi trường dư thừa thanh khoản
và nó có thể được cho là có nguồn gốc từ những phản ứng về các chính sách trong giai
đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tháng 9/2008, khi mà những thị
trường tài chính nội địa bị ảnh hưởng/mắc kẹt do tác động của sự phát triển toàn cầu và
đóng băng thanh khoản. (Subbarao, 2008a, 2008b, 2009a và 2009b phần mô tả về tác
động của cuộc khủng hoảng đối với Ấn Độ và các chính sách tương ứng).

Giá cả thực phẩm tăng lên là sự tác động qua lại của những yếu tố mang tính cấu trúc
và chu kì. Mặc dù áp lực lạm phát từ sự gia tăng trong giá cả lương thực có thể giới
hạn quy mô ảnh hưởng của chính sách tiền tệ, nhưng có những dấu hiệu cho thấy lạm
phát kỳ vọng nếu áp lực giá cả vẫn tiếp tục tồn tại. Nếu nỗi lo lạm phát được biến
thành kì vọng, không sớm thì muộn, chính sách tiền tệ sẽ phải đối mặt với tình huống
tiến thoái trên. Điều này đòi hỏi sự điều hành thận trọng trong việc đánh đổi giữa hai
mục tiêu: nhu cầu tăng trưởng đòi hỏi chính sách tiền tệ nới lỏng kéo dài nhưng những
lo lắng về lạm phát thì đòi hỏi sự kết thúc nhanh hơn. Một sự kết thúc nhanh chóng do
nỗi lo lạm phát lại gia tăng rủi ro mất đi sự tăng trưởng vốn còn mong manh (chưa
vững chắc), trong khi đó một trì hoãn có thể gia tăng thêm lạm phát kỳ vọng
(Subbarao, 2009c). Một sự đánh đổi, được thiết lập để đạt được tăng trưởng rõ nét hơn,
đã thúc đẩy (GDP) để khép lại ở mức tăng 8% trong quý III/2009. Và cùng lúc đó, mọi
ý kiến cũng thống nhất cho rằng lạm phát sẽ tăng trở lại từ mức thấp hiện nay lên với
mức tương xứng (khoảng 8%) vào đầu năm 2010, nếu không sớm hơn. Vấn đề đặt ra là
chính sách tiền tệ nên phản ứng như thế nào và lúc nào khi mà các chỉ số đánh giá lạm
phát có những biến động mạnh theo chiều hướng tăng trở lại?
Nội dung của bài nghiên cứu này chủ yếu bàn về những gì mà chúng ta nghĩ về lạm
phát và yếu tố tác động đến ứng xử của chúng ta về vấn đề này. Mặc dù, bài nghiên
cứu chỉ tập trung trong phạm vi Ấn Độ, nhưng các phân tích và kết quả thu nhận được
chứa đựng giá trị tổng quát để có để áp dụng tốt trong những trường hợp tương tự ở
các quốc gia đang phát triển. Phần tiếp theo của bài nghiên cứu được bố cục thàng 4
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 3

phần mà đầu tiên là giới thiệu một số thực tế điển hình về động lực của lạm phát ở Ấn
Độ và sau đó chuyển sang phần phân tích – định lượng lạm phát kỳ vọng và chỉ ra
những yếu tố tác động – theo sau đó là đề xuất chính sách tiền tệ phù hợp với kết quả
thu nhận được từ mô hình kiểm định lạm phát kỳ vọng. Ở mỗi phần, bài nghiên cứu
chỉ ra những đóng góp quan trọng trước đó. Phần kết luận được trình bày trong phần
cuối của bài nghiên cứu.


II. Nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát ở Ấn Độ trong thời gian gần đây
Biến động trong WPI, được xem như chỉ số giá của các doanh nghiệp sản xuất, được
theo dõi vì những mục tiêu liên quan đến chính sách, và được xem như một công cụ
chỉ báo về lạm phát ở Ấn Độ. Việc sử dụng chỉ số này, có vẻ như mâu thuẫn với việc
dùng CPI để đánh giá lạm phát theo thông lệ quốc tế, nhưng WPI vẫn được sử dụng và
theo dõi rộng rãi (với 447 hàng hóa và chiếm tới 57% là sản xuất), và chỉ số này được
cập nhật một cách thường xuyên và kịp thời (từ tháng 10/2009, chỉ số WPI được thông
báo hàng tháng và cho đến gần đây, chỉ số này được thông báo hàng tuần như chỉ số cơ
bản, cùng với các chỉ số về thực phẩm và nhiên liệu). Những công bố về chỉ số WPI
được các thị trường tài chính theo dõi rất sát sao và những công bố lãi suất tham khảo,
từ đó tác động đến những dự đoán về hành động trong chính sách tiền tệ tiếp theo.
Trong thời kỳ trước, ý tưởng này đưa ra cơ hội rất hay cho việc rút ra những chỉ báo
thị trường cơ bản cho lạm phát kỳ vọng. CPI được tính trên bốn khu vực khác nhau của
xã hội – công nhân công nghiệp, người lao động khu vực thành thị, lao động lĩnh vực
nông nghiệp, người lao động khu vực nông thôn, được phân biệt trên cơ sở khác nhau
trên những rổ tiêu dùng bình quân, và nó là quan trọng nhằm mục đích chỉ số hóa cho
nhiều loại thu nhập và tiền lương kiếm được. Biến động trong chỉ số CPI tác động
nhiều đến các hộ gia đình vì phần lớn thu nhập chi tiêu cho thực phẩm (chiếm 40-70
phần trăm trên tổng chỉ số) và những hàng hóa thiết yếu. Tuy nhiên, mức độ đại diện
và chất lượng của chỉ tiêu CPI là một vấn đề cần được kiểm nghiệm, ví dụ CPI cho
công nhân lĩnh vực công nghiệp chỉ bao gồm 260 hàng hóa có liên quan tới chỉ số
WPI. Theo ngân hàng trung ương ở Ấn Độ, ngân hàng dự trữ quốc gia Ấn Độ (RBI),
tính hiệu quả của các loại chỉ số giá đã thất bại trong việc phản ánh sát thực những
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 4

điều kiện căn cơ gây ra lạm phát, có nguyên nhân bởi tính đại diện không đồng nhất và
cũng bởi vì sự khác biệt trong năm cơ sở đã không thể phản ánh sự thay đổi các mô
hình sản xuất và tiêu dùng. Điều này đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải đẩy nhanh việc

xem xét lại tính bao quát và cập nhật năm cơ sở cho chỉ số WPI, cũng như những chỉ
số giá cả tiêu dùng như CPI – Thành thị và CPI – Nông thôn (RBI, 10/2009). Hệ số
khử lạm phát trong đo lường GDP cũng là tiêu chí tổng quát nhất về lạm phát ở Ấn Độ
nhưng nó chỉ có sẵn theo năm cơ sở với độ trễ dài. Những phương pháp đo lường chỉ
số lạm phát cơ sở và chính yếu đã được phát triển dựa trên nguyên tắc loại trừ và chọn
lọc những yếu tố có ý nghĩa, đặt biệt là ở RBI, nhưng thực tế vẫn còn mang tính lý
thuyết sâu sắc và không tìm thấy sự ủng hộ từ cộng đồng trên quan điểm về tính tự
nhiên của nó. Thực tế là thực phẩm và nhiên liệu – những hàng hóa tiêu biểu bị loại trừ
khỏi phương pháp định lượng – lại có ảnh hướng rất lớn trong rổ tiêu dùng. Những
năm gần đây, khi điều hành chủ yếu bởi các chỉ tiêu không chắc chắn, một nỗ lực đáng
ghi nhận đã được thực hiện bởi RBI là tiến hành những cuộc khảo sát về lạm phát kỳ
vọng, bao gồm cả cho những nhà dự báo chuyên nghiệp. Kết quả từ những khảo sát
này, khi được công bố hứa hẹn sẽ là một triển vọng thú vị đối với hoạt động nghiên
cứu và phân tích cho các nhà phân tích và cho việc thực thi chính sách vĩ mô.
Từ năm 2008, hai tình huống khác biệt trong sự biến động của lạm phát xảy ra khá rõ
ràng. Sự suy giảm của chỉ số WPI trong giai đoạn từ mức cao điểm xảy ra trong
08/2008 – khi giá cả hàng hóa thế giới tăng rất mạnh – cùng nhịp với sự sụt giảm của
lạm phát toàn cầu, ám chỉ mức độ liên thông chặt chẽ của Ấn Độ với chu kì kinh tế
toàn cầu. Lạm phát giá cả tiêu dùng tính theo năm giảm từ 4,9% xuống còn -0.3% vào
tháng 8/2009. Trong số những nền kinh tế lớn, lạm phát ở Mỹ, Nhật Bản và khu vực
Châu Âu diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Lạm phát chính yếu cũng giảm đi ở một
số nền kinh tế chủ chốt cùng với lạm phát giá cả sản xuất. Ở các quốc gia mới nổi, lạm
phát sụt giảm rõ rệt từ tháng 7/2008 cùng nhịp với sự sụt giảm trong giá cả hàng hóa
quốc tế và sự suy giảm trong hoạt động kinh tế gây ra bởi cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu. Trong số những nền kinh tế mới nổi, lạm phát giá cả tiêu dùng ở Trung Quốc
và Thái Lan chuyển sang tiêu cực vào đầu năm 2009, trong khi ở Malaysia bắt đầu
vào tháng 6/2009; những nền kinh tế khác cũng chứng kiến sự suy yếu đi trong áp lực
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 5


giá cả. Theo IMF (tháng 1/2010), lạm phát toàn cầu được cho rằng sẽ ở mức thấp được
lí giải bởi hiệu quả sản xuất kém và lạm phát kỳ vọng chưa thay đổi. Lạm phát được
dự kiến sẽ tăng từ 0% năm 2009 đến 1,3% năm 2010, trên thực tế lạm phát trong một
số nền kinh tế đang phát triển được kì vọng sẽ tăng từ 5,2% năm 2009 đến 6.2% năm
2010. Trung Quốc, một số ít nền kinh tế khu vực ASEAN và hầu hết các nước Châu
Âu dự báo sẽ có mức lạm phát thấp hơn mức 5%.
Đồ thị 1: Consumer price inflation

Theo các chỉ số đánh giá lạm phát trên, rủi ro lạm phát đang bùng phát trở, đặt ra mối
đe dọa đến điều kiện ổn định được dự báo. Giá hàng hóa quốc tế sụt giảm mạnh trong
thời gian từ tháng 7 – 12/2008, nhưng nó được ổn định tăng trở lại trước kì vọng về sự
phục hồi kinh tế toàn cầu. Giá của lương thực như gạo, lúa mì, ngô đã tăng trở lại mặc
dù vẫn còn thấp so với mức quá cao trong nửa đầu năm 2008. Giá dầu thô tăng lên một
cách ổn định kể từ tháng 03/2009 phản ánh sự mong đợi nhu cầu tiêu thụ sẽ gia tăng
trở lại, song song với việc cắt giảm sản lượng của nhóm các quốc gia sản xuất và xuất
khẩu dầu mỏ (OPEC) cũng đã hỗ trợ cho giá dầu. Giá nguyên liệu hồi phục từ tháng
4/2009, dẫn đầu là đồng, chì, niken, chủ yếu phản ứng lại trước nhu cầu tăng trở lại từ
Trung Quốc.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 6

Như đã đề cập trước đó, lạm phát ở Ấn Độ được đo lường bởi chỉ số WPI, biến động
theo diễn biến của lạm phát toàn cầu, giảm mạnh từ 12,9% trong năm 2008 tới 0,8%
vào cuối tháng ba năm 2009, rơi vào vùng tiêu cực trong 13 tuần liên tiếp bắt đầu từ
tháng 6/2009, trước khi chuyển biến tích cực vào đầu tháng 9/2009. Kể từ tháng 12, áp
lực giá cả tràn lên mạnh mẽ. Rõ ràng, những dấu hiệu này đã bắt nguồn từ việc xem
xét tăng giá của xăng và dầu diesel (có hiệu lực ngày 02 tháng 7 2009), tăng giá các
sản phẩm tự do theo nhóm nhiên liệu có quan hệ chặt chẽ với giá dầu thô quốc tế, tăng
giá sản phẩm đường, rau và các loại thuốc. Hàng thực phẩm có mức lạm phát lên hai
con số và phần nào phản ánh xu hướng tăng giá rõ nét. Ngày 6/2/2010, giá rau ghi

nhận mức tăng gần 20% so với tháng 2/2009, mặc dù yếu tố mùa vụ đã giảm đi rất
nhiều. Sự tăng giá các loại đậu là khoảng 32% vào ngày 13/3/2010. Lạm phát được
đánh giá dựa trên nhóm chỉ số CPIs đã tăng từ tháng 6/2008, chủ yếu là do sự gia tăng
trong giá cả thực phẩm, giá nhiên liệu và dịch vụ, và ghi nhận ở mức khoảng 16,2 -
17,6% trong suốt tháng 1/2010. Chỉ số giá tiêu dùng ở khu vực nông thôn (CPI –
Rural) ngày càng tăng với một tốc độ nhanh hơn so với các chỉ số khác. Sự phản ứng
của chính sách cho thấy các mặt tích cực cho nguồn cung:loại bỏ các hạn chế như giới
hạn lượng dự trữ để tạo điều kiện tư nhân mua bán trong mùa thu hoạch; hạn chế tiêu
dùng số lượng lớn đường nhằm để đảm bảo nguồn dự trữ và đẩy mạng cung ứng hàng
hóa thông qua hệ thống phân phối công; loại bỏ thuế nhập khẩu gạo, lúa mì và đường
thô; miễn thuế nhập khẩu đường tinh luyện bởi các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp
tư nhân được chỉ định. Có mối quan ngại tại Ấn Độ rằng lạm phát cao tồn tại kéo dài
có thể dẫn đến lạm phát do chi phí đẩy và gia tăng mức độ lạm phát kỳ vọng.
Đồ thị 2: Biến động WPI và lạm phát CPI
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 7


Rõ ràng, RBI đang cho thấy sự lúng túng với việc lạm phát bắt đầu tích lũy tăng trở
lại. Vào tháng 4/2009, báo cáo thường niên về chính sách tiền tệ của RBI trong giai
đoạn 2009 – 2010 đã xác định lạm phát WPI xoay quanh mức 4% vào cuối tháng
3/2010. Bản cập nhật sau đó về Chính sách tiền tệ được phát hành tháng 7/2009 chú ý
rằng sự tiêu cực của chỉ số lạm phát WPI là do bởi những tác động cơ bản về mặt
thống kê và nó không cho thấy sự sụt giảm tương ứng trong lạm phát kỳ vọng.Theo đó,
kế hoạch lạm phát WPI đã được nâng lên mức 5%. Trong bản báo cáo về chính sách
tiền tệ số tháng 10/2009, RBI đã xác định rằng những tác động cơ sở, mà đã dẫn tới sự
tiêu cực của chỉ số lạm phát WPI trong thời gian từ tháng 6 đến tháng 8/2009, sẽ có
những ảnh hưởng theo chiều ngược lại theo hướng gia tăng lên bởi giá lương thực cao.
Những khảo sát về lạm phát kỳ vọng hàng quý của RBI đối với hộ gia đình chỉ ra rằng
phần lớn các đối tượng khảo sát mong đợi lạm phát sẽ tiếp tục tăng trong 3 tháng tới

cũng như qua năm kế tiếp. Theo đó, mốc kế hoạch cho lạm phát WPI cuối tháng 3 năm
2010 được đặt ra là 6,5% “ với độ nghiêng dốc lên” cũng đồng nghĩa với “rủi ro gia
tăng rõ ràng hơn”. Đứng trên quan điều hành, chính sách tiền tệ bắt đầu sẵn sàng “phản
ứng nhanh chóng và hiệu quả thông qua những điều chỉnh chính sách để hướng đến
mục tiêu ổn định lạm phát kỳ vọng” (RBI, tháng 10/2009). Trong bản cập nhật theo
quý số tháng 1/2010, RBI chỉ ra rằng lạm phát tăng đã trở thành sự thật và thừa nhận
những dấu hiệu cho thấy sức ép lên nhu cầu, cùng lúc đó RBI nâng mức kế hoạch lạm
phát WPI cuối tháng 3/2010 lên 8,5%. Gần đây, vào ngày 19/3/2010 RBI chỉ ra rằng
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 8

sức ép của lạm phát đã tăng cao vượt ra khỏi giới hạn kế hoạch, đang phản ánh vào sự
đắt đỏ của giá cả lương thực, sự gia tăng giá cả hàng hóa phi lương thực, gia tăng trong
hiệu suất sử dụng và tăng giá cả hàng hóa và năng lượng, “tăng cường sức ép lên nhà
cung cấp dịch vụ/sản phẩm mà khi đó hình thành nên vòng xoáy lạm phát phổ biến”.
Dấu vết của lạm phát kỳ vọng: quy định của luật chơi
Ở Ấn Độ, sự đa dạng quá mức các chỉ báo giá cả và những thiếu sót của nó, và đặc
biệt, sự bất bình được nêu lên bởi RBI về những chỉ báo này đã đặt ra một vấn đề cấp
bách gắn liền với việc hướng đến một nhóm chỉ tiêu phản ánh được lạm phát dưới góc
nhìn của con người và ở đó nó có thể được sử dụng chủ đạo trong việc dự báo. Tuy
nhiên, nói có vẻ dễ hơn làm. Ở điểm bắt đầu, nỗ lực này đã vấp phải những cản trở rất
lớn. Một phương pháp đo lường chuẩn mực về lạm phát kỳ vọng không tồn tại có sẵn
ở Ấn Độ. Chưa có một cuộc khảo sát nào về lạm phát kỳ vọng được thực hiện trong
phạm vi cộng đồng. Từ tháng 12/2005, RBI đã thực hiện một những cuộc điều tra lạm
phát kỳ vọng hàng quý đối với các hộ gia đình để phục vụ công tác quản lý nội bộ.
Cuộc điều tra bao gồm 4.000 hộ gia đình được sử dụng để lấy mẫu, trải dài qua 12
thành phố ở 4 vùng của đất nước. Thiết kế khảo sát có mục đích và các hộ gia đình
được lựa chọn để đạt được tính đại diện tốt theo vùng địa lý và giới tính. Khảo sát đạt
được kết quả (i) những phản hồi chất lượng với những thay đổi giá cả (giá cả chung
được phản ánh tốt thông qua giá cả của một số nhóm hàng đặc biệt) trong 3 tháng tiếp

theo và năm kế tiếp và (ii) phản hồi mang tính định lượng tại thời điểm hiện tại, tỷ lệ
lạm phát cho 3 tháng kế tiếp và một năm sau. Một Ủy Ban Tư vấn Kỹ thuật cho cuộc
khảo sát (TACS) đã được thiết lập trong suốt năm 2007 để kiểm tra sự tồn tại và khả
năng tin cậy đối với số liệu của cuộc khảo sát. Những phân tích của nó đã phát hiện ra
rằng mẫu nghiên cứu về tiêu thụ thay đổi qua các thành phố. Điều này cũng phản ánh
thông qua sự giao động giữa các thành phố lớn gần nhau trong những chỉ tiêu lo lường
giá cả có sẵn. Khoảng trống/biến động giữa các thành phố được giải quyết bằng
phương thức thay đổi mẫu theo hướng co hẹp khoảng từ 20 đến 30 điểm nhưng gia
tăng chuỗi thời gian, điều này chỉ ra rằng những đối tượng khảo sát có sự kết nối hơn
trong nhận thức về lạm phát hiện tại so với lạm phát kỳ vọng trong tương lai gần.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 9

Dựa trên những phát hiện này, một nhóm trong nước đã khuyến khích kết quả của
cuộc khảo sát nên được công bố ra công chúng với sự kì vọng vào một sự cải cách
trong vấn đề minh bạch chính sách tiền tệ (RBI, tháng 9/2009). Tuy nhiên nó sẽ phải
mất một khoản thời gian để chuỗi dữ liệu được đầy đủ cho các phân tích dựa trên kết
quả này là có ý nghĩa. Điều này đặt ra vấn đế cho những nhà dự báo chuyên nghiệp
của RBI về việc xây dựng những nghiên cứu và cập nhật thường xuyên theo sự vận
động nền kinh tế – mở rộng cho những đối tượng Ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương
mại, sàn giao dịch chứng khoán, tổ chức môi giới quốc tế, cơ quan giáo dục chọn lọc,
cơ quan sếp hạng tín dụng, công ty chứng khoán, công ty quản lý tài sản…Những dự
báo mang tính định kì từng quý về biến số kinh tế vĩ mô quan trọng bao gồm lạm phát
là dựa trên WPI và CPI cho công nhân lĩnh vực công nghiệp đã được suy luận ra, cũng
như xác suất kết quả có thể xảy ra. Một số điểm nổi bật của cuộc khảo sát đã đưa ra
trong báo cáo quý của RBI nhưng một lần nữa không cho thấy chuỗi tự nhiên phù hợp
mà chỉ đưa ra những kết quả phân tích. Một nhận định tổng quan được thực hiện bởi
một nhóm thuộc RBI là mặc dù cuộc khảo sát là mới và dữ liệu chỉ thu thập trong
khoản thời gian ngắn, nhưng những dự báo về GDP thì sát với kết quả thực hơn những
dự báo trong lạm phát. Cuộc khảo sát sẽ cho ra những đánh giá tốt nếu có thể tiến hành

với chuỗi thời gian dài hơn. Hơn thế nữa, lạm phát kỳ vọng được tham khảo trên cơ sở
trái phiếu thả nổi theo lạm phát hoặc từ hoạt động bảo hiểm là không hữu ích. Theo
hiểu biết của chúng tôi, chỉ có duy nhất một loại trái phiếu chỉ số vốn được phát hành,
mà giá trị khoản vốn đầu tư được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát, là không chịu sự ảnh
hưởng lớn từ những yếu tố thị trường khác.

III. Phương pháp luận
Lạm phát kỳ vọng từ lâu đã đóng vai trò trung tâm trong việc phân tích các chính sách
tiền tệ và phân tích hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong thông điệp từ Tổng thống
Milton Friedman đối với Hiệp hội Kinh tế Mỹ năm 1968. Vấn đề kỳ vọng tác động
như thế nào và đặc điểm của chúng là gì, cách đo lường , mức độ phản ứng tức thời đối
với những thay đổi chính sách; đây là một số vấn đề trong nhiều vấn đề được tranh
luận gay gắt trong thời gian qua. Trong số những vấn đề này, có những bất đồng và
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 10

điều này đã thúc đẩy việc mở rộng nghiên cứu những kỹ thuật và phương pháp thu
thập và xử lý thông tin (Mankiw, Reis and Wolfers, 2003). Tuy nhiên, trong số đó thì
khía cạnh được đa số đồng ý chính là: trong khi lạm phát tác động đến sức mua thì lạm
phát kỳ vọng tác động đến hành vi của dân chúng và chính điều này sẽ tác động đến sự
phát triển dài hạn của nền kinh tế. Chính vì thế, ngày nay, mục tiêu của chính sách tiền
tệ nhằm kiểm soát lạm phát kỳ vọng. Neo lạm phát kỳ vọng là bước đầu tiên để tiến
hành kiểm soát lạm phát và tối thiểu hóa chi phí đầu ra của việc giảm lạm phát , đặc
biệt khi có sự tồn tại của những cú sốc ngược lớn.
Thật không may là không thể biết một cách chính xác kỳ vọng lạm phát của dân
chúng, những người khác nhau có những cách hiểu khác nhau về lạm phát. Điều quan
trọng nhất chính là kỳ vọng về những vấn đề tác động trực tiếp đến giá và lương đối
với nhân công hay các công ty,… Tuy nhiên, thông qua việc khái quát hóa chi phí, có
ba cách tiếp cận để ước tính làm phát kỳ vọng – (1) chỉ số lạm phát trái phiếu chính
phủ cho biết lạm phát kỳ vọng là sự khác biệt giữa lãi suất của một trái phiếu thông

thường và trái phiếu có điều chỉnh theo chỉ số lạm phát với cùng một kỳ hạn thanh
toán; (2) hoán đổi lạm phát cung cấp một công cụ phòng ngừa rủi ro lạm phát và được
thể hiện qua phí bảo hiểm; (3) và những bảng khảo sát đo mức kỳ vọng lạm phát thông
qua việc hỏi ý kiến của dân chúng, đặc biệt khi họ nhận thức được những cách thức mà
thị trường tài chính phát tín hiệu lạm phát. Mỗi biện pháp có những thiếu sót của riêng
nó và điều này chứng minh là có những trở ngại nghiêm trọng cho phân tích thực
nghiệm. Chỉ số thị trường có thể phản ánh rủi ro và những nhân tố khác của thị trường
ngoài nhân tố lạm phát kỳ vọng. Ngay cả chỉ số kinh tế trực tiếp như dữ liệu quyết toán
tiền lương có thể phản ánh không chỉ lạm phát kỳ vọng mà còn những nhân tố như
năng suất và khả năng chi trả. Những đo lường bằng khảo sát nhạy cảm với các cách
thức đo lường liên quan đến lạm phát – CPI, WPI và hạt nhân lạm phát… Các cuộc
khảo sát nói chúng không chỉ định những chỉ số cụ thể vì thế kết quả của chúng phải
được giải thích một cách thận trọng. Một số bài nghiên cứu còn chỉ ra rằng bảng khảo
sát đưa ra những kết quả có tính biến động cao (Blanchflower và các cộng sự, 2009).
Vì vậy, chìa khóa để thiết lập chính sách tiền tệ trong tương lai là cách thức đo lường
lạm phát kỳ vọng. Trong trường hợp không có các cách thức thông thường thay thế thì
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 11

cách tiếp cận thứ hai là sự hình thành của lạm phát kỳ vọng với giả định hợp lý liên
quan đến nhân tố hành vi.
Đo lường lạm phát kỳ vọng tại Ấn Độ: Một cách tiếp cận thực tế
Đối với vấn đề này, một quy trình gồm hai giai đoạn được áp dụng để đo lường các
yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng tại Ấn Độ. Đầu tiên, chúng tôi dựa vào hàng
loạt các lý thuyết để tiến hành tính toán lạm phát kỳ vọng dựa trên mô hình ước lượng
không chệch về lạm phát kỳ vọng và sau đó mở rộng cách tiếp cận theo hướng thực tế
để thu thập chuỗi dữ liệu theo thời gian của lạm phát kỳ vọng. Cách tiếp cận này dựa
trên 2 giả định: (1) hành vi hợp lý; (2) tất cả các thông tin đều được phản ánh dưới
những thay đổi trong giá cả, nhưng về bản chất thì cung tiền luôn biến động trong ngắn
hạn. Để thực hiện điều này, chỉ số giá được lấy từ dữ liệu WPI tháng, với các loại hàng

hóa có tính ổn định cao. Dữ liệu thống kê từ tháng 4 năm 1997 đến tháng 12 năm
2008, trùng với thời kỳ Ấn Độ bắt đầu nhận các thành quả từ công cuộc cải cách kinh
tế Ấn Độ, thực hiện tự do hóa bên ngoài, đồng thời tích cực chuyển đổi thị trường
trong nước theo hướng nới lỏng kiểm soát, bỏ dần các quy định. Thời kỳ này cũng
đánh dấu một sự thay đổi từ cơ chế điều hành chính sách tiền tệ chỉ căn cứ vào mở
rộng cung tiền, sang điều hành dựa theo các chỉ số, giảm bớt quy định kiểm soát, xem
xét cả thông tin trên thị trường tài chính và các yếu tố như sản lượng, chính sách tài
khóa, cán cân thanh toán cho việc hoạch định chính sách. Các nghiên cứu trước đây đã
chỉ ra rằng xây dựng các mô hình về lạm phát trong giai đoạn này rất phức tạp do biến
động giá của một số mặt hàng chủ yếu, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ giữa các
ngành chủ lực với các ngành khác trong nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển của M1
còn bao hàm thông tin về lạm phát trong thời gian tới, khi mà chỉ số output gap – thể
hiện sự chênh lệch giữa GDP tiềm năng và GDP thực tế - không thể sử dụng được để
đánh giá (theo Callen and Chang, 1999). Chúng tôi cũng gặp vấn đề tương tự trong quá
trình thu thập dữ liệu, đó là sự không phù hợp về thông tin liên quan ở các tần suất
khác nhau (như dữ liệu hàng tháng so với dữ liệu hàng quý/hàng năm trong các nghiên
cứu trước đó).
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 12

Các đồ thị minh họa trong phần sau, có dữ liệu lạm phát tháng theo mô hình ARMA –
tự hồi quy trung bình trượt, bao gồm dữ liệu quá khứ (thành phần AR), dữ liệu hiện tại,
và các giá trị nhiễu trắng được làm trượt (thành phần MA)…, sai số dự báo trong quá
khứ, hiện tại. Tính mùa vụ trong mô hình AR và MA được khử bằng kỹ thuật toán
X12, và được xác nhận bằng các kiểm định khác, sẽ được trình bày ở phần sau. Như đã
biết, ARMA đưa ra mô hình hồi quy đơn biến, đồng thời tính toán độ lệch của chuỗi
dữ liệu với kỳ vọng toán của nó, đặc biệt là với những dữ liệu có tính ổn định. Những
đặc trưng của mô hình ARMA khiến nó được lựa chọn trong quá trình tìm kiếm một
phương án phù hợp nhất. Chúng tôi không tuân theo các phương pháp chuẩn dùng để
đo lường lạm phát kỳ vọng, mà dự báo theo mô hình ước lượng không chệch để kết

quả là đáng tin cậy, thực sự thể hiện mức kỳ vọng hợp lý vào tương lai của dân chúng.
Trên thực tế, có những khó khăn trong việc nhận dạng mô hình, đó là việc mô hình
chưa được ghi nhận trong bất kỳ lý thuyết hay công thức nào trước đó. Hơn nữa,
ARMA có thể dự đoán thiếu chính xác tại điểm ngoặt (turning point). Dù vậy, mô hình
ARMA được minh chứng minh là có thể dùng để dự báo lạm phát trong ngắn hạn khá
tốt, tốt hơn so với mô hình cấu trúc, cũng là yếu tố quan trọng khi xem xét chọn lựa
mô hình trong Bài nghiên cứu này (xem Stockton và Glassman, 1987; Litterman, 1986;
Meyler et al, 1998).
Với dữ liệu theo tháng, công thức phù hợp nhất để tính lạm phát là:
(1)


t



t







]
Trong đó p, q, m và n tương ứng là bậc của AR, MA, SAR và SMA, và SAR và SMA
đại diện cho tính thời vụ đã được giải thích ở phần trên. Sử dụng công thức (1), dữ liệu
không chệch của dự báo lạm phát đại diện cho mức lạm phát kỳ vọng. Điều này được
thực hiện bằng cách tạo ra một chuỗi tĩnh theo hiệp phương sai.
Chúng tôi ý thức được rằng cách tiếp cận dựa trên mô hình lạm phát kỳ vọng sẽ mở ra

một làn sóng chỉ trích rằng chúng được dựa báo từ mô hình lạm phát thực tế. Như đã
đề cập ở trên, đây là một cách tiếp cận thực tế tốt thứ hai mà chúng ta đang phải áp
dụng trong trường hợp không có một biện pháp tiêu chuẩn nào cho lạm phát kỳ vọng,
nhưng được RBI xem xét để neo lạm phát kỳ vọng trong điều hành chính sách tiền tệ,
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 13

thực hiện chính sách tiền tệ. Hơn nữa, nó đã có từ tiền lệ truyền thống trong lý thuyết
(xem Meyler, Keeny và Quin, 1998; McCulloch và Stec, 2000; Junita, 2001). Tương
tự, để so sánh và kiểm tra kết quả của mình, chúng tôi lấy lạm phát kỳ vọng từ các báo
cáo khảo sát của Concensus Economics đối với các tổ chức tài chính như ngân hàng,
quản lý quỹ và các công ty tài chính (được xem như mức đồng thuận kỳ vọng). Các
báo cáo không hệ thống và thống nhất các mẫu khác nhau theo tháng. Hơn nữa, các
báo cáo này được đưa ra bởi một chủ thể riêng biệt, do đó, dữ liệu đại diện duy nhất
cho một tháng cụ thể được tính trung bình của dữ liệu của các dự báo từ trước đó.
Các yếu tố ảnh hưởng lạm phát kỳ vọng
Sau khi thu thập được chuỗi số liệu liên quan đến lạm phát kỳ vọng cho giai đoạn
nghiên cứu, bước tiếp theo chính là đánh giá sự hình thành những yếu tố kỳ vọng này
và vai trò quan trọng của lạm phát kỳ vọng trong việc hình thành quá trình lạm phát.
Nếu lạm phát kỳ vọng có một vai trò quan trọng trong việc dẫn đến lạm phát ở Ấn Độ,
thì việc neo kỳ vọng rất quan trọng đối với chính sách tiền tệ. Từ bằng chứng thực
nghiệm ở Ấn Độ (RBI, 2002; Kapur và Patra, 2003) và trong truyền thống của Celasun
et al (2004) và Gelos và Iriondo (2008), chúng tôi ước lượng một đường cong Phillip
theo thuyết Keynes mới dựa trên giả định: hành vi có lý trí của một bộ phận nền kinh,
giá cả cứng nhắc. Điều này liên quan đến việc ước lượng một phương trình rút gọn để
đánh giá vai trò của các nhân tố cơ bản và những thay đổi trong các nguyên nhân gây
ra lạm phát. Bài nghiên cứu đang tìm kiếm các thành phần của lạm phát kỳ vọng ở các
nền kinh tế đang phát triển, tập trung vào mức độ lòng tin (Minella et al,. 2003;
Celasun et al, 2004), hay gần đây là vào vai trò của kỳ vọng tài khóa (Celasun, Gelos,
và Prati, 2004a và 2004b). Ở Ấn Độ, dù chính sách tiền tệ không thiết lập các mục tiêu

về lạm phát rõ ràng, nhưng vẫn có một sự thừa nhận ngầm về mức chịu đựng của xã
hội đối với lạm phát. Mô hình đã đưa vào các đặc trưng riêng biệt của một quốc gia
như lạm phát quá khứ để đánh giá sự tồn tại về độ trễ, output gap – chênh lệch giữ
GDP thực và GDP tiềm năng trong đó sử dụng tổng cầu để đo lường, tốc độ tăng
trưởng trong chi tiêu thực của chính phủ như một thước đo về quan điểm tài khóa, lãi
suất thực được xem như quan điểm về chính sách tiền tệ, những thay đổi trong lãi suất
thực được xem là đại diện cho chi phí biên, và giá của thực phẩm và nhiên liệu dùng
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 14

để khám phá tác động của các cú sốc ngoại sinh đến những khu vực mà nền kinh tế Ấn
Độ thường phụ thuộc vào và những yếu tố mà có ảnh hưởng nhất định đến quá trình
hình thành lạm phát. Về mặt cơ bản, sự hiện diện mức chênh lệch GDP – output gap,
các biến quan điểm chính sách, và các đại diện cho chi phí biên và các cú sốc ngoại
sinh được xem như các biến điều kiện để xác định mức độ tồn tại của kỳ vọng lạm
phát.
Để tìm ra các thành phần và độ trễ cơ cấu - lag structure cơ bản - đặc trưng cho quá
trình hình thành lạm phát kỳ vọng, chúng tôi sử dụng phương pháp khái quát đến cụ
thể của Hendry (liên quan đến phương pháp của trường kinh tế Luân Đôn – phương
pháp LSE) phương pháp này bắt chước thuyết rút gọn – theory of reduction để có được
mô hình kinh tế lượng cuối cùng. Thuyết rút gọn và phương pháp khái quát đến cụ thể
là nền tảng của phương pháp LSE cung cấp bước thực hiện mang tính thực nghiệm cao
mà khi đó các mô hình kinh tế lượng kết hợp các hiện tượng thực tế lại để đo lường
(Chao, 2001; Campos et al, 2004). Ý tưởng của một mô hình khái quát đến cụ thể là
dựa vào tính trực giác. Thay vì áp đặt một cách gượng gạo độ trễ cơ cấu vào mô hình,
lag structure nên bắt đầu từ một mô hình thống kê tổng quát, từ đó cho thấy các đặc
trưng chủ yếu của tập dữ liệu cơ sở. Tiếp theo thực hiện các bước thử nghiệm thống kê
chuẩn để giảm tính phức tạp bằng cách loại trừ các biến không có ý nghĩa thống kê và
kiểm tra tính giá trị (căn cứ vững chắc) của sự rút gọn để đảm bảo tính phù hợp của mô
hình. Khi quá trình rút gọn được lặp lại, các hướng để rút gọn có thể được xem xét, và

việc này có thể dẫn đến các kết quả mô tả cuối cùng khác nhau. Encompassing – kiểm
định vòng biến - sau đó được sử dụng để kiểm tra chúng, thường là đan xen nhau, các
kết quả mô tả và chỉ những mô hình mà tồn tại bước kiểm định vòng biến mới được
giữ lại xem xét kỹ hơn. Nếu có nhiều hơn một mô hình tồn tại bước kiểm tra này, nó
có thể trở thành mô hình tổng quát mới và quy trình này được ứng dụng lại. Mô hình
khái quát đến cụ thể sẽ được nhìn nhận tốt hơn nếu kèm theo một số giả định liên
quan. Để minh họa, trong thử nghiệm Monte Carlo, phương pháp tiếp cận từ khái quát
đến cụ thể rất thành công trong việc tìm lại các kết quả mô tả của quá trình tạo và xử lý
dữ liệu (data generating process – DGP) với độ chính xác cao (Krolzig, 1999)
Vì vậy, phương trình ước lượng có dạng sau:
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 15

(2)





















c Qu






c Qu
















Trong đó M
M M M

là độ trễ của lạm phát; (y-y
*
) là chênh lệch GDP – out gap được định
nghĩa là GDP thực trừ đi GDP xu hướng (GDP tiềm năng) (xem phụ lục 1), g(EXPN)
là tốc độ tăng trưởng trong chi tiêu thực của chính phủ, g(REER) là sự thay đổi hàng
tháng theo từng năm của tỷ giá hối đoái thực tính theo % và π
FL
và π
PL
theo thứ tự là
phần trăm thay đổi trong giá của nhiên liệu và hàng hóa sơ cấp. Phần ký tự ở dưới biểu
thị tổng hợp các độ trễ khác nhau. Điều chỉnh theo mùa không được xem xét vì chúng
có thể thay đổi các đặc tính chuỗi thời gian của dữ liệu.
Việc chạy mô hình được thực hiện lặp đi lặp lại bằng cách sử dụng các dự báo được
rút ra từ các dự báo đồng nhất, như đã nêu trước đó. Cần chú ý rằng các biến thay thế
mà thể hiện quan điểm chính sách tiền tệ như real money gap – chênh lệch giữa cung
tiền thực và cung tiền mục tiêu, tăng trưởng cung tiền và thay đổi trong tỷ giá hối đoái
thực có thể được sử dụng nhưng không có ý nghĩa và vì vậy không được đề cập trong
nghiên cứu ở đây. Các kết quả ước lượng sẽ được thảo luận trong phần sau.
Về điểm này, một tranh luận ngoài lề về đường cong Phillips theo thuyết Keynesian
mới là sự liên kết giữa lạm phát kỳ vọng và chính sách tiền tệ có thể rất có ích. Trong
nhiều năm theo dõi các kết quả mô tả gốc về đường cong Phillips năm 1958, mẫu hình
chủ đạo này dần dần được sử dụng rộng rãi. Đó là khi ý tưởng này được ghi nhận như
là đại diện cho việc tạo thành các kỳ vọng một cách tối ưu, cho thấy sự am hiểu của họ
về nền kinh tế và thông tin có sẵn với họ - kỳ vọng có lý trí (Lucas, 1970) – một cách
nhìn đóng góp vào giả thuyết “kỳ vọng … về cơ bản như một sự dự báo dựa trên
những lý thuyết kinh tế học liên quan” (Muth, 1961). Trong kết quả thực nghiệm sau
đây, chúng đã làm bật ra rằng giá cả thay đổi rất chậm và khá cứng nhắc (Taylor,
1980); Rotemberg, 1982; Calvo, 1983) và thông tin bất hoàn hảo, bao gồm các hoạt
động của ngân hàng trung ương. Thậm chí Lucas đã chỉ ra rằng các kỳ vọng là lý do

hợp lý cho những hạn chế về thông tin. Đầu những năm 1980, có một lượng lớn các
nghiên cứu đã được thực hiện mà kết quả chung là sự thất bại của những giả thuyết về
kỳ vọng hợp lý để hình thành lạm phát kỳ vọng (Batchelor và Dua, 1987; Pacquet,
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 16

1992 và Blanchflower et al, 2009 cung cấp một bằng chứng về đánh giá này; Millet,
2007 đặt tên cho khái niệm kỳ vọng có lý trí nhưng thực tế đã bị thất bại: “thuyết phụ
thuộc có thể dễ gây nguy hiểm như chính các dữ liệu phụ thuộc”). Một giải thích phổ
biến cho vấn đề này là các đại diện như hộ gia đình và thậm chí là các doanh nghiệp đã
thiếu tinh tế để có được các kỳ vọng một cách lý trí. Sự hiện diện của chi phí thông tin
và sự bất cân xứng là một trong những nhân tố chính khác. Hầu hết các khảo sát đều
không đáp ứng được yêu cầu. Nhiều người trả lời rằng họ không có ý kiến gì về tỷ lệ
lạm phát trong tương lai là bao nhiêu. Ngoài ra, kỳ vọng chỉ được tìm thấy khi nhìn về
những sự kiện xảy ra trong quá khứ và tồn tại một thực tế là quan điểm của các cá
nhân về lạm phát hiện tại là một nhân tố ý nghĩa cao quyết định lạm phát kỳ vọng.
Có nhiều Mô hình nghiên cứu về thông tin không hoàn hảo và những tác động lên kỳ
vọng lạm phát. Những mô hình này nêu lên các nhân tố ảnh hưởng lạm phát và có thể
vận dụng vào giải thích một số sự kiện xảy ra (Xem thêm Kiley, 2009). Ảnh hưởng lớn
phải kể đến mô hình vể mối quan hệ giữa giá cả và thông tin không linh hoạt
(Woodford, 2008). Biểu diễn dưới dạng đường cong Phillips theo học thuyết Keynes
mới thì giá bằng cách nào đó dẫn đến hành vi ở tương lai, còn lạm phát hiện tại được
xác định bởi kỳ vọng lạm phát, nhu cầu hiện tại, nhu cầu dự kiến và chi phí cận biên.
Mô hình được ứng dụng rộng rãi trong phân tích chính sách tiền tệ - “the closet thing
there is to a standard specification” (tạm dịch “là mô hình sát với các tiêu chuẩn kỹ
thuật nhất") (McCallum, 1997). Những đóng góp gần đây đã đưa thêm bằng chứng ủng
hộ đường cong Phillips mới theo học thuyết Keynes (Nghiên cứu của Gail và Gertler
năm 1999; nghiên cứu Brissimis và Magginas, 2008) và một số nghiên cứu khác chỉ ra
quy tắc đặt giá dựa vào dữ liệu quá khứ dường như được ưu tiên hơn là dựa vào tương
lai (Rudd và Whelan, năm 2005 xem thêm trong phần nội dung bài nghiên cứu này).


IV. Kết quả ước lượng
Sử dụng dữ liệu ngẫu nhiên của mức lạm phát được dự báo trước làm đại diện cho lạm
phát kỳ vọng. Một đồ thị tương quan có dạng chu kỳ sóng với tần suất mùa vụ, tự
tương quan riêng phần giảm dần và cuối cùng hiện tượng tự tương quan giảm về 0 sau
mỗi pha. Nhìn vào bảng kết quả, ta thấy kiểm định thống kê Akaike và kiểm định
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 17

Schwarz-Bayesian bậc 1 đều cho kết quả phù hợp yêu cầu của mô hình ARMA (1,1).
Hơn nữa, theo dõi dữ liệu tháng, và quan sát bằng mắt thường cũng cho thấy những
biến động thời vụ một cách hệ thống, kể cả 2 tiêu chuẩn AR và MA trong bậc 12 khác
cũng phải bảo đảm (Box và Jenkin, 1970). Dữ liệu có nguồn gốc từ cơ sở dữ liệu của
IMF do CEIC cung cấp.
Bảng 1: Kết quả hồi quy phương trình lạm phát kỳ vọng

Kết quả ước lượng tuân theo các quy luật phân phối chuẩn (theo Bảng 1) và đồ thị biểu
diễn dữ liệu thực tế và mô phỏng (tương ứng với đường PI và FORECASTPI) với các
điểm ngoặt cũng được biểu diễn hợp lý theo mô hình này.
Đồ thị 3: Lạm phát thực tế và mô phỏng (PI)

Phương trình xác định lạm phát kỳ vọng theo tháng
π
e
= 0.006 + 0.91π
t-1
- 0,22 π
t-12
+ 0,20 π
t-13

+ ε
t
+ 0.32ε
t-2
- 0.85ε
t-12
- 0.27ε
t-14

Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 18

Bảng 2: Thống kê mô tả hiệu quả mô hình.

Ngược lại, lạm phát kỳ vọng theo dự báo của các tổ chức tài chính báo cáo lên
Consensus Economics (ký hiệu là đường PIECONSENSUS trong Biểu đồ 4) theo đồ
thị dưới đây có dạng trung bình động và tạo thành một đường trung đạo đi qua các
điểm ngoặt của đường (PI). Để công bằng, các dự báo đại diện cho lạm phát kỳ vọng
phải lấy từ kết quả của trong các báo cáo về những khiếm khuyết trên thị trường tài
chính như các mẫu báo cáo bất bình đẳng, các phản ứng khác nhau đối với chính sách
tiền tệ dự kiến tùy thuộc vào vị trí trên đường cong lãi suất, thông tin bất cân xứng
đang thống trị thị trường tài chính Ấn Độ và đường trung bình gần đúng trong giai
đoạn dove và hawks, tiền được tạo ra trong giai đoạn giữa. Cùng lúc đó, với sự phát
triển của quá trình thu thập và xử lý dữ liệu, là điều kiện thuận lợi cho sự sinh sôi của
các thông tin về lạm phát kỳ vọng.
Đồ thị 4: Dự báo lạm phát của Consensus và lạm phát thực tế (tháng)

Bây giờ chúng ta chuyển sang câu hỏi quan trọng theo quan điểm chính sách: Những
yếu tố tác đông lạm phát kỳ vọng ở Ấn Độ?
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Trang 19

Đặc trưng chuỗi thời gian các biến
Các nghiên cứu trước đây sử dụng dữ liệu lạm phát hàng tháng (hoặc hàng năm) để có
thể xử lý chuỗi xu hướngvà xu hướng có thể khác nhau theo thời gian (McCulloch và
cộng sự, 2000). Theo đó, không thể loại trừ khả năng lạm phát hàng tháng là chuỗi
không có tính dừng, ít nhất là chuỗi I (1), không thể rút ra quy luật. Cách giải quyết đối
với dữ liệu của mô hình là làm lệch pha dữ liệu. Tuy nhiên, có hai thiếu sót. Đầu tiên,
là tranh luận quanh việc duy trì dữ liệugốc hay một mẫu hạn chế chưa có kết luận cuối
cùng - sử dụng kiểm định Nghiệm đơn vị không thể phân biệt giữa dữ liệu gốc với gần
gốc. Thứ hai, sai phân sẽ không tránh được làm mất thông tin và nếu các giả định của
dữ liệu gốc là không đúng, lạm dụng sai phân có thể khiến ước lượng không hiệu quả.
Kiểm định ‘t’ theo Augmented Dickey-Fuller (ADF) và kiểm định Z của Philips-
Perron dưới dây cho thấy tất cả các biến, ngoại trừ những thay đổi trong tỷ giá thực
hiệu chỉnh (REER), đều đúng tại I(0). Mặc dù có sự mâu thuẫn liên quan đến tỷ giá
thực, chúng tôi vẫn đưa vào mô hình ước lượng theo quan điểm của kinh tế cũ hơn là
quan điểm gần đây.
Bảng 3: Kiểm định Roots và bậc tích phân

Các yếu tố quyết định lạm phát kỳ vọng
Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu có hiệu quả và đã ghi nhận lạm phát kỳ vọng
khá hợp lý. Lạm phát trễ, sự thay đổi về giá của những mặt hàng thiết yếu và nhiên
liệu, chênh lệch sản lượng là những nhân tố chính trong lạm phát kỳ vọng, và theo sau
đó là lãi suất thực.
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 20

Những ước tính này đã cho rằng tổng hệ số của lạm phát trước đây (cụ thể 1 tháng và
12 tháng) đóng góp 50% giải thích giá trị lạm phát kỳ vọng.
Thay đổi trong giá những mặt hàng thiết yếu gần bằng 1/3 lạm phát kỳ vọng, điều này

phản ánh tầm quan trọng của giá thực phẩm nói riêng cũng như dự đoán lạm phát trong
tương lai của người tiêu dùng. Sự thay đổi giá của thực phẩm và nhiên liệu chiếm 40%
sự thay đổi của lạm phát kỳ vọng. Cho ta thấy được sự quan trọng của những mặt hàng
này trong rổ hàng tiêu dung bình quân ở những khu dân cư lớn của Ấn Độ, những yếu
tố trong việc thiết lập giá cũng và vai trò tiềm năng của chúng trong sự ảnh hưởng liên
tục. Những vấn đề liên quan đến sự độc lập của giá cả thế giới, mức độ tăng giá, lạm
phát nhập khẩu tương ứng cho thấy mối quan hệ trong sự biến động quá khứ. Vai trò
kế tiếp của giá cả thực phẩm và nhiên liệu trong việc ảnh hưởng đến dự báo lạm phát
là sự tuân thủ theo cú sốc cung ngoai sinh ngay cả nhập khẩu và thị trường nội địa.
Như dự định chênh lệch sản lượng với một tính hiệu tích cực và mang ý nghĩa đáng kể
đã chiếm 14% lạm phát kỳ vọng và chứng minh tác giả đã đúng khi sử dụng mô hình
mới của Keynesian giải thích việc dự đóan lạm phát ở Ấn Độ. Ở những quốc gia đang
phát triển, lạm phát bị chi phối bởi tăng cầu quá mức, địều này củng cố những tiên
đóan của tác giả về vai trò chính sách vĩ mô đến kỳ vọng ổn định. Những phát hiện cho
thấy chênh lệch sản lượng mang ý nghĩa thống kê, và cho thấy rằng ở một mức nào đó
tổng cầu sẽ chuyển thành lạm phát, điều này cho thấy tầm quan trọng của những chính
sách điều chỉnh đúng lúc.
Một yếu quan trọng đã được phát hiện trong quá trình nghiên cứu này đó là ảnh hưởng
của lãi suất thực đại diện cho cách thức điều hành chính sách tiền tệ. Trái ngược với
những nghiên cứu trước đây cho rằng tổng tiền chứa đựng những thông tin về lạm phát
trong tương lai, điều này đã được cải thiện sau cải cách tài chính (Callen và các cộng
sự, 1999), kinh nghiệm của tác giả cho thấy sử dụng cung tiền bao gồm tỷ lệ tăng
trưởng và chênh lệch mệnh giá đồng tiền không thể giải thích thỏa đáng. Mặt khác hệ
số của tỷ suất thực phù hợp vớt tác động của cuộc cải cách tài chính từ giữa thập niên
90. Những rào cản quy định được gỡ bỏ đối với tỳ suất và định hướng phát triển thị
trường đã cho thấy chính sách tiền tệ không độc lập và vai trò lớn trong việc xác định
lạm phát trong tương lai. Chính sách tiền tệ thay đổi kể từ cuối những năm 90 đã nhấn
Khóa 20 - Lớp TCDN Ngày 1 - Nhóm 2 GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Trang 21


mạnh vai trò của tổng tiền và mối liên hệ của các công cụ gián tiếp trong chính sách
tiền tệ dẫn đến tầm quan trọng kênh tỷ lệ liên quan đến kênh chất lượng trong việc ảnh
hưởng tỷ lệ lạm phát tương lai. Những ký hiệu phủ định trên hệ số của tỷ suất thực
chứng thực độ tin cậy có được từ chính sách tiền tệ trong việc thu hút lạm phát kỳ
vọng những năm gần đây. Sự tăng lên của tỷ lệ lãi suất là một tín hiệu cho thấy lạm
phát thấp trong thời gian sắp tới. Trong ngữ cảnh này, tầm quan trọng của tỷ suất thực
12 tháng qua và các hệ số thấp có liên quan đã cho thấy thời gian thực hiện chính sách
tiền tệ ảnh hưởng tới lạm phát kỳ vọng. Những kết quả này đã được minh chứng bằng
những dự đóan từ kỳ vọng đồng thuận mô hình mà mô hình này đã cho ra những hệ số
phủ định trên tỷ số lãi suất thực của độ lớn xác định gần.
Một vấn đề quan trọng trong bối cảnh của một nước đang phát triển là cần phải xem
xét tác động của chính sách tiền tệ đến tăng trưởng cùng với lạm phát, tạo ra sự ảnh
hưởng mạnh mẽ và lâu dài của chính sách tiền tệ đến sản lượng đã được ghi nhận trong
nghiên cứu của Blanchard, 1990. Trong khi đó, cách nghiên cứu thích hợp về vấn đề
này sẽ được ước tính trong một mô hình cấu trúc đầy đủ, chúng tôi dùng mô hình biến
tự hồi quy (với các biến tương tự) để đánh giá khả năng phản hồi các thay đổi đột xuất
của độ biến thiên sản lượng đầu ra và thay đổi của lạm phát kỳ vọng trong tỷ lệ lãi suất
thực tế.Chúng tôi thấy rằng lạm phát kỳ vọng giảm xuống liên tục dưới điều kiện ban
đầu trong khoảng thời gần một năm trong khi sự suy giảm trong độ biến thiên sản
lượng gần như là không đáng kể và xảy ra một cách yếu ớt trong khoảng giữa 8-12
tháng (Hình 5).
Đồ thị 5: Phản ứng đột xuất đối với thay đổi trong lãi suất thực
Phản ứng của lạm phát kỳ vọng Phản ứng của độ biến thiên sản lượng đầu ra

×