Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

luận văn nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) – thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 88 trang )

i









Luận văn

Nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring) – Thực trạng
và giải pháp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
ii




MỤC LỤC

MỤC LỤC
DANH MỤC BANG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH
TOÁN(FACTORING) 4
1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring. 4
1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring. 7
1.2.1.Khái niệm vềfactoring. 7
1.2.2.Đặc điểm của factoring. 9
1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ


thương mại khác. 10
1.2.4.Chức năng của factoring. 11
1.2.5.Phân loại Factoring. 12
1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế. 14
1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế. 17
1.3.Rủi ro trong nghiệp vụ factoring. 22
1.3.1. Rủi ro từ phía đơn vị cung cấp dịch vụ factoring. 22
1.3.2. Rủi ro từ phía người mua. 22
1.3.3.Rủi ro từ phía ngân hàng, hay đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring.
22
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nghiệp vụ factoring. 23
1.4.1. Các nhân tố khách quan. 23
1.4.2. Các nhân tố chủ quan. 23
1.5.Kinh nghiệm về hoạt động factoring trên thế giới. 24
1.5.1. Tình hình hoạt động factoring trên thế giới. 24
1.5.2. Kinh nghiệm về hoạt động factoring của một số quốc gia trên thế
giới. 27
1.5.3.Các bài học kinh nghiệm cho hoạt động factoring tại Việt Nam. 30
iii



CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN
(FACTORING) TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. 32
2.1. Cơ sở pháp lý cho sự phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam. 32
2.1.1. Các văn bản pháp lý quy định về hoạt động factoring tại Việt Nam.
32
2.1.2. Các quy định cơ bản về factoring trong các văn bản luật và dưới
luật. 33

2.2. Thực trạng hoạt động factoring tại một số ngân hàng thương mại Việt
Nam. 35
2.2.1. Số lượng các ngân hàng tham gia cung cấp dịch vụ factoring. 35
2.2.2. Quy trình thực hiện factoring tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam. 38
2.2.3. Quy mô, doanh số Factoring. 44
2.3. Rủi ro đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi thực hiện
nghiệp vụ factoring. 47
2.3.1.Rủi ro tín dụng. 47
2.3.2.Rủi ro gian lận. 48
2.3.3.Rủi ro thu nợ. 48
2.3.4.Rủi ro thanh khoản. 48
2.3.5.Rủi ro ngoại hối. 48
2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển nghiệp vụ factoring tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam. 48
2.4.1. Kết quả đạt được. 49
2.4.2. Những hạn chế còn tồn tại. 50
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động
factoring. 52
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ BAO
THANH TOÁN (FACTORING) TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
NAM. 55
3.1. Sự cần thiết phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam. 55
3.2. Triển vọng áp dụng nghiệp vụ factoring tại Việt Nam. 56
3.2.1. Năng lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 56
iv




3.2.2. Nhu cầu về dịch vụ factoring ngày càng tăng. 59
3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam. 60
3.3.1. Giải pháp chủ yếu. 60
3.3.2. Giải pháp hỗ trợ. 73
3.4. Kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam. 76
3.4.1. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. 76
3.4.2. Những kiến nghị với các ngân hàng thương mại Việt Nam. 77
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

v




DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 1.1 : Doanh số factoring trên thế giới giai đoạn 2007-2011 24
Bảng 1.2 : Doanh số bao thanh toán của các châu lục trên thế giới giai đoạn 2007-
2011 25
Bảng 1.3 : Doanh số Factoring của các quốc gia hàng đầu châu Á giai đoạn 2006-
2010. 26
Bảng 1.4 : Số lượng khách hàng của dịch vụ factoring tại Anh năm 2011. 28
Bảng 2.1 : Số lượng các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ
factoring giai đoạn 2007-2011. 36
Bảng 2.2 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ bao thanh toán của ACB. 38
Bảng 2.3 : Biểu phí/lãi suất dịch vụ của Vietcombank. 41
Bảng 2.4 : Doanh số factoring tại Việt Nam trong giai đoạn 2005– 2011. 44

Bảng 2.5 : Doanh số factoring xuất nhập khẩu của Vietcombank giai đoạn 2007-
2011. 46
Bảng 2.6 : Doanh số nghiệp vụ factoring nội địa của ngân hàng VIB. 47
Bảng 3.1 : Quy mô vốn điều lệ của một số ngân hàng thương mại Việt Nam. 57
Bảng 3.2. Tỷ lệ CAR một số ngân hàng thương mại Việt Nam. 57
Bảng 3.3. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam và một số ngân hàng
thương mại. 58
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011. 6
Biểu đồ 1.2: Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới giai
đoạn 2007 - 2011. 7
Biểu đồ 1.3: Thị phần doanh số factoring các châu lục trên thế giới năm 2011. 25
Biểu đồ 1.4 : Tình hình doanh số factoring của một số nước Asean. 26
Biểu đồ 1.5 : Doanh số factoring của Anh trong năm 2011. 27
Biểu đồ 1.6 : Doanh số factoring của Ý trong giai đoạn 2007 - 2011. 28
Biểu đồ 1.7 : Doanh số factoring của Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2011. 29
Biểu đồ 2.2 : Doanh thu Factoring theo nhóm dịch vụ của Việt Nam trong giai đoạn
2008-2011. 45
vi




SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao
thanh toán 15
Sơ đồ 1.2: Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị bao
thanh toán 16
Sơ đồ 2. 1a: Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của ACB. 39
Sơ đồ 2.1b: Quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu của ACB. 40

Sơ đồ 2.2: Quy trình thực hiện bao thanh toán trong nước của Vietcombank. 42
Sơ đồ 2.3: quy trình thực hiện bao thanh toán xuất khẩu tại Vietcombank. 42
Sơ đồ 2.4: Quy trình thực hiện bao thanh toán nhập khẩu tại Vietcombank. 43


1



LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Trên thế giới hiện nay, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo.
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế từng bước được đẩy nhanh. Đầu tư, lưu chuyển hàng
hóa, dịch vụ lao động và vốn ngày càng được mở rộng. Bên cạnh đó, khoa học kỹ
thuật phát triển, nhất là sự phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu của công nghệ thông
tin và thị trường tài chính đã tác động lớn tới cơ cấu và sự phát triển của kinh tế thế
giới, mở ra những cơ hội mới cho những quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng
là một quốc gia đang phát triển, đang đứng trước những cơ hội ấy. Tuy nhiên, tình
hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều những yếu tố phức tạp, các tranh
chấp, xung đột xảy ra thường xuyên gây mất ổn định không chỉ về mặt chính trị, mà
còn về kinh tế tới nhiều nơi trên thế giới. Các nước lớn, với những lợi thế cạnh
tranh nhất định,luôn tìm cách áp đặt các rào cản thương mại với các nước nghèo và
các nước đang phát triển. Đứng trước những cơ hội và thách thức ấy, đẩy mạnh tăng
trưởng kinh tế một cách hiệu quả và bền vững , nâng cao vị thế của mình trong khu
vực và trên trường quốc tế là mục tiêu phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Có thể nói, đối với một quốc gia đang phát triển, lĩnh vực tài chính ngân
hàng được coi như là một “mạch máu” của nền kinh tế. Với các bước tiến rõ rệt
theo ba xu hướng : một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính; hai là ,
phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại; ba là, mở rộng các dịch vụ

ngân hàng quốc tế, lĩnh vực này đã dần trở thành một lĩnh vực quan trọng đối với
mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh đó, để gặt hái được những thành công hơn
nữa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện
nay luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu của mình bằng chiến lược đa dạng hóa sản
phẩm, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bao thanh toán là một sản phẩm được
đưa vào chiến lược phát triển của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam gần đây.
Mặc dù, trên thị trường tài chính ngân hàng quốc tế, bao thanh toán không còn mới
mẻ, nhưng ở Việt Nam, dịch vụ này vẫn còn khá mới lạ và việc phát triển dịch vụ
vẫn còn gặp nhiều khó khăn với lượng doanh số còn khiêm tốn. Với mục tiêu
nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn dịch vụ bao thanh toán, em đã chọn đề tài “Nghiệp
2



vụ bao thanh toán (Factoring) – Thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghiệp vụ bao thanh toán
(Factoring).
Thứ hai, nghiên cứu về thực trạng nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring) tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam, đánh giá chung về tình hình phát triển, những
thành tựu đạt được, cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện
phát triển nghiệp vụ bao thanh toán (Factoring).
Thứ ba, đề xuất một số những giải pháp và đưa ra một số những kiến nghị
nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán (Factoring) tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Dịch vụ bao thanh toán được phổ biến dưới hai hình thức : Factoring và
Forfaiting. Tuy nhiên phạm vi nghiên cứu của khóa luận chỉ tập trung vào một hình
thức của hoạt động bao thanh toán : Factoring trong giai đoạn 2007 - 2011. Vì vậy,

thuật ngữ “Bao thanh toán”được sử dụng trong khóa luận đồng nghĩa với
“Factoring” và thuật ngữ “Factor” sẽ được hiểu là các đơn vị bao thanh toán cung
cấp dịch vụ Factoring.
Phương pháp nghiên cứu :
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên các phương pháp thống kê, tổng hợp, so
sánh, phân tích, đối chiếu kết hợp với việc minh họa bằng sơ đổ, bảng biểu nhằm
mục đích làm vấn đề trở nên rõ ràng hơn, trực quan hơn.
Bên cạnh đó, dựa trên việc tham khảo, trao đổi ý kiến với cán bộ tác nghiệp
tài trợ thương mại tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, nên
những số liệu nghiên cứu được tập hợp chính xác hơn.
Kết cấu của khóa luận :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa
luận được thể hiện qua ba chương như sau:
Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán của các ngân hàng thương mại
Việt Nam.
3



Chương II : Thực trạng về nghiệp vụ bao thanh toán tại các ngân hàng thương mại
Việt Nam giai đoạn 2007 - 2011.
Chương III : Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ bao thanh toán tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam trong thời gian tới.
Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài sẽ không tránh khỏi
được những thiếu sót về nội dung, cũng như về hình thức. Kính mong được sự góp
ý, chỉ dẫn của các thầy cô giáo, để đề tài khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới PGS.TS Nguyễn Thị
Quy, cô đã góp ý cho em rất nhiều về mặt kết cấu, nội dung đề tài, và những kiến
thức cần thiết để em có thể hoàn thành được khóa luận này.
Em xin chân thành cám ơn!

Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Hoàng Hải Ly

















4



CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH
TOÁN(FACTORING)
1.1.Sự ra đời và phát triển của factoring.
Một số học giả cho rằng nghiệp vụ bao thanh toán bắt nguồn từ khoảng 2000
năm về trước dưới thời đế chế La Mã, xuất phát từ hoạt động đại lý hưởng hoa hồng.
Bên cạnh đó, một số ý kiến khác lại cho rằng Factoring bắt đầu hình thành từ nền

văn minh Mesopotamia cách đây 4000 năm, một nền văn minh đầu tiên phát minh
ra chữ viết, hình thành các luật lệ thương mại, cũng như các quy tắc nhà nước. Khái
niệm factor xuất phát từ động từ tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does thing”.
Hầu hết các quốc gia văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã ứng dụng
một số những phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ, ví
dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu. Tuy có hai
luồng ý kiến về lịch sử hình thành của bao thanh toán, nhưng hầu hết các học giả
đều thống nhất ở quan điểm Factoring có nguồn gốc từ sự phát triển thương mại
quốc tế, trong đó, hình thức sơ khai ban đầu là việc sử dụng các đại lý thương mại ở
nước ngoài làm factor.
Vào thế kỷ 15, bao thanh toán phát triền mạnh ở Anh dưới hình thức ứng trả
trước một phần cho người ủy nhiệm (hay còn gọi là người cung ứng sản phẩm) .
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chủ nghĩa thực dân Mỹ, đó là tiền đề
thúc đẩy sự phát triển của bao thanh toán trong khoảng thời gian này. Khi Mỹ mở
rộng biên giới phía Tây, kéo theo khoảng cách giữa châu Âu và thị trường Mỹ trở
lên lớn hơn, đồng nghĩa với sự giảm mức độ tin cậy về tín dụng đối với các khách
hàng Mỹ của các nhà sản xuất ở châu Âu. Một sự bảo đảm cho khoản tín dụng
thương mại cho các nhà sản xuất châu Âu là cần thiết. Bởi vậy, để giảm mức độ lo
ngại bởi vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho tới khi thu hồi được khoản tiền
bán hàng ngày một dài hơn, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ đã đứng ra thành lập
một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ tài chính,
marketing, trong đó bao gồm cả nghiệp vụ bao thanh toán.
Trong khoảng thời gian thế kỷ 17, 18, sự giao lưu thương mại quốc tế giữa
các nước châu Âu và các khu vực khác trên thế giới được đẩy mạnh. Do hạn chế về
5



thông tin liên lạc, và phương tiện vận chuyển hàng hóa, nên nhà xuất khẩu phải chỉ
định các đại lý thương mại tại các thị trường nước ngoài, cho phép các đại lý này

được quyền bán hàng của họ trên cơ sở tín dụng thương mại và hóa đơn thương mại
của chính các đại lý, đồng thời cũng bắt các đại lý phải chịu trách nhiệm về các
khoản tín dụng thương mại này bằng khoản tiền ứng trước để trả cho phí cảng,
thuế, và tiền hàng cho họ.
Thế kỷ 19 đánh đấu một sự biến chuyển mạnh mẽ của factoring thông qua
các đại lý thanh toán ngành dệt may của Mỹ, hay trong các ngành công nghiệp điện,
hóa chất, sợi tổng hợp Và khi nền kinh tế Mỹ vững mạnh, các mối quan hệ lệ
thuộc giữa Mỹ và Châu Âu không còn tồn tại nữa, nhu cầu sử dụng các đại lý
thương mại tại thị trường nước ngoài đã giảm xuống. Nhờ vào những nguồn lực
trong nước, và việc áp đặt biểu thuế gắt gao với hàng hóa nước ngoài, nhu cầu nhập
khẩu hàng hóa giảm xuống. Các đại lý bao thanh toán bấy giờ đã điều chỉnh dịch vụ
của mình theo nhu cầu của nền kinh tế, tập trung chủ yếu vào các hoạt động tín
dụng, thu nợ, kế toán Factoring nội địa ra đời, nhằm đáp ứng nhu cầu bán hàng
trong phạm vi biên giới một quốc gia.
Đầu thế kỷ 20, bao thanh toán phát triển rộng hơn sang các ngành công
nghiệp khác, như phụ kiện, đồ may mặc, đồ nội thất Các đại lý bao thanh toán
đưa ra hình thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hóa đơn
thương mại . Từ đó, bao thanh toán đã thực sự có một chỗ đứng vững vàng trong
các hoạt động thương mại.
Hiện nay, các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới nhiều hình thức : một phòng
ban của một tổ chức tài chính lớn, hay tồn tại độc lập như một doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ bao thanh toán. Số lượng các factor trên thế giới có xu hướng ngày
càng gia tăng nhanh với mức lãi suất tăng cao. Sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ
bao thanh toán dẫn tới nhu cầu cấp thiết thành lập Hiệp hội bao thanh toán.
Đầu năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế IFG (International
Factor Group) ra đời với gần 70 thành viên là những ngân hàng, đơn vị bao thanh
toán độc lập của 47 quốc gia trên toàn thế giới. Với mục tiêu giúp các đơn vị bao
thanh toán thuận lợi trong quá trình hợp tác, IFG lập ra hệ thống bao thanh toán hai
đơn vị, hay còn gọi là hệ thống dịch vụ bao thanh toán quốc tế.
6




FCI (Factors Chain International) – Hiệp hội bao thanh toán thế giời được
thành lập năm 1986, đứng ra tập hợp các công ty bao thanh toán độc lập với nhau.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, FCI đã xác định được mục tiêu hoạt động của
mình :
(i) Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu.
(ii) Giúp các thành viên trong Hiệp gội giành được lời thế cạnh tranh
trong tài trợ thương mại thông qua việc : thiết lập mạng lưới các nhà bao thanh toán
hàng đầu thế giới, xây dựng mạng lưới thông tin tiện ích, hiện đại để kết nối các nhà
bao thanh toán với nhau, thường xuyên mở các lớp đào tạo nghiệp vụ và không
ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán như là một phương thức tối ưu trong tài
trợ thương mại.
Cho tới nay, FCI đã trở thành một Hiệp hội có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới
sư phát triển của bao thanh toán trên thế giới với 255 đơn vị bao thanh toán của 69
quốc gia trên toàn thế giới. Hiện nay, tổng doanh số bao thanh toán của các thành
viên trong Hiệp hội chiếm tới 80% doanh số bao thanh toán toàn cầu.
Biểu đồ 1.1 : Doanh số bao thanh toán FCI giai đoạn 2007 - 2011.
ĐVT : Triệu EUR


(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)

7



Biểu đồ 1.2 : Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn thếgiới
giai đoạn 2007 - 2011.


2007 : 58% 2008 : 59% 2009 : 59% 2010 : 56% 2011 : 57%
(Nguồn : www.factors-chain.com, Annual Review 2011)
Qua biểu đồ trên, ta có thể thấy đượ sự phát triển của Hiệp hội bao thanh
toán FCI hay sự chiếm ưu thế của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế
giới.
1.2.Những nội dung cơ bản vềfactoring.
1.2.1.Khái niệm về factoring.
Đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, hay các doanh nghiệp ở những
nước phát triển trên thế giới, khái niệm bao thanh toán đã trở nên phổ biến. Tuy
nhiên, khái niệm này vẫn còn khá mới mẻ với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu
ở Việt Nam. Vậy thực chất bao thanh toán là gì và dịch vụ bao thanh toán được
cung cấp nhằm mục đích gì. Để trả lời cho những câu hỏi trên, trước hết cần làm rõ
bằng một số khái niệm về bao thanh toán.
Khái niệm 1 : “Hợp đồng Factoring (Factoring contract) là hợp đồng giữa
đơn vị bán và đơn vị bao thanh toán (Factors), theo đó, người bán có thể chuyển
nhượng cho các đơn vị bao thanh toán các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng
mua bán hàn hóa/dịch vụ giữa người bán và người mua hàng. Đơn vị bao thanh toán
phải thực hiện ít nhất 2 trong 4 chức năng sau : (i) tài trợ cho bên bán, bao gồm các
khoản vay và thanh toán trước, (ii) quản lý các khoản liên quan tới các khoản phải
thu, (iii) thu hộ các khoản phải thu, (iv) bảo hiểm rủi ro thanh toán của con nợ”
(Điều 1, công ước UNIDROIT về bao thanh toán quốc tế 1998 - UNIDROIT
Convention on International Factoring – Ottawa, Canada, 28 May 1998).
Khái niệm 2 : “Hợp đồng Factoring là hợp đồng theo đó người bán có thể
hoặc sẽ chuyển nhượng các khoản phải thu cho một đơn vị bao thanh toán (factor),
có thể với mục đích nhận tài trợ thương mại hoặc không, để nhận được ít nhất một
8




trong các chức năng sau: (i) theo dõi sổ sách các khoản phải thu, (ii) thu hộ các
khoản phải thu, (iii) bảo hiểm rủi ro nợ xấu” (Điều 1, Quy tắc chung về Factoring
quốc tế của Hiệp hội Factoring quốc tế - General Rules For International Factoring
– FCI)
Khái niệm 3 : “Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng cho bên bán
hàng thông qua lại việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ đã được bên bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và bên mua
hàng hóa, sử dụng dịch vụ thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ” (Điều 2, quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 về Quy chế
hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng và Quyết định số 30/2008/QĐ-
NHNN ngày 16/10/2008 về sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế hoạt động bao
thanh toán của các tổ chức tín dụng ban hành ngày 6/9/2004)
Khái niệm 4 : “dựa trên quan điểm của luật và kế toán thì factoring là một
dịch vụ dựa vào những khoản phải thu được chuyển nhượng. Các khoản phải thu
của người bán hàng được chuyển nhượng cho factor, do đó tạo ra một sự chuyển đổi
chủ nợ. Một factor sẽ trở thành chủ nợ mới và độc quyền với các khoản phải thu,
bao gồm cả phần phụ thuộc vào các khoản phải thu đó” (Theo cuốn Marketing
International Factoring, 2000)
Tóm lại, từ các khái niệm trên đây, xét về các khía cạnh mà bao thanh toán
có liên quan, ta có thể hiểu bao thanh toán (Factoring) là một công cụ tài chính
cung cấp cho người bán hàng hoặc một thực thể kinh doanh bốn yếu tố dịch vụ
dưới đây:
- Tài trợ vốn lưu động.
- Dịch vụ thu hộ tiền thanh toán từ người mua hàng.
- Dịch vụ quản lý số bán hàng.
- Dịch vụ bảo đảm rủi ro.
Sự khác nhau giữa các khái niệm chính là ở việc đơn vị bao thanh toán cung
cấp nhiều hay ít số lượng các dịch vụ để được gọi là Bao thanh toán. Dịch vụ bao
thanh toán thông thường sẽ có sự xuất hiện của ít nhất ba bên:
1. Tổ chức bao thanh toán (factor): là ngân hàng, công ty tài chính chuyên

thực hiện việc mua bán nợ và các dịch vụ khác liên quan đến mua bán nợ. Trong
9



nghiệp vụ bao thanh toán quốc tế sẽ có hai đơn vị bao thanh toán, một đơn vị bao
thanh toán tại nước của nhà xuất khẩu và một đơn vị bao thanh toán tại nước của
nhà nhập khẩu.
2. Người bán hay nhà xuất khẩu (seller, exporter): các doanh nghiệp sản
xuất hàng hóa hoặc kinh doanh dịch vụ có những khoản nợ của khách hàng nhưng
chưa đến hạn thanh toán.
3. Người mua hàng (người mắc nợ) hay nhà nhập khẩu (buyer, debtor,
importer): hay còn gọi là người phải trả tiền, đó chính là người mua hàng hóa hay
nhận các dịch vụ cung ứng
1.2.2.Đặc điểm của factoring.
Về mặt hình thức, bao thanh toán được cung cấp chủ yếu dưới hai loại đó là
factoring và forfaiting. Bản chất của hai loại bao thanh toán này có những đặc điểm
khác nhau nhất định, từ đó quyết định tới mức độ phổ biến của hai loại bao thanh
toán này trong thực tế. Trên thế giới, factoring thường được áp dụng phổ biến hơn
là forfaiting.
Forfaiting có thể hiểu là loại hình bao thanh toán tuyệt đối, tức là một hình
thức tài trợ thương mại của tổ chức tín dụng cho người xuất khẩu theo phương thức
miễn truy đòi. Đối tượng áp dụng của nghiệp vụ forfaiting là các khoản phải thu
trung và dài hạn có nguồn gốc từ các hợp đồng mua bán hàng hóa và dịch vụ với
điều kiện các khoản phải thu phải được bảo lãnh thanh toán bởi một ngân hàng có
uy tín.
Factoring, hay còn gọi là bao thanh toán tương đối,trước hết là một hình thức
cấp tín dụng ngắn hạn của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng. Khi thực hiện nghiệp
vụ factoring, tổ chức tín dụng ứng trước cho khách hàng của mình một khoản tiền
nhất định thấp hơn giá trị thực tế của các khoản phải thu.

Hoạt động factoring được thực hiện, dựa trên quan hệ về mua bán quyền tài
sản là quyền đòi nợ. Tổ chức tín dụng sau khi thực hiện nghiệp vụ factoring, có
quyền thay mặt bên bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đòi nợ bên mua hàng hóa và
sử dụng dịch vụ khi khoản nợ tới ngày đáo hạn. Đồng thời, tổ chức tín dụng được
phép hưởng phần chênh lệch giữa giá trị thực tế của khoản nợ, và số tiền tổ chức tín
dụng đã bỏ ra để mua khoản nợ đó.
10



1.2.3.Sự khác nhau cơ bản giữa factoring và một số hình thức tài trợ thương
mại khác.
1.2.3.1. Sự khác nhau giữa factoring và cho vay thông thường.
Về mặt bản chất, factoring và cho vay thông thường đều là hình thức cung
cấp tín dụng cho người yêu cầu dựa trên những điều kiện, quy định nhất định. Tuy
nhiên, hai nghiệp vụ này vẫn có những điểm khác nhau cơ bản, dẫn tới những ưu
thế hay những hạn chế riêng khi áp dụng trong thực tế.
Tiêu chí Bao thanh toán Cho vay thông thường
Chủ thể tín dụng

Có hai chủ thể gắn liền với
khoản tín dụng :bên bán và bên
mua.
Chỉ có một chủ thể gắn liền
với khoản tín dụng.
Hạn mức tín
dụng
Cấp hạn mức dựa trên uy tín và
năng lực bên bán và bên mua.
Cấp hạn mức dựa trên uy tín

và năng lực bên vay vốn.
Hình thức cấ
p tín
dụng
ứng trước cho bên bán hàng (dựa
trên hóa đơn bán hàng).
Cấp vốn cho bên vay (dựa
trên tài sản đảm bảo bên vay)
Thu nợ
Thu nợ từ bên mua hàng. Thu nợ từ bên vay.
Chức năng Theo dõi bán hàng và các khoản
phải thu từ bên mua
Theo dõi, kiểm tra tình hình
sử dụng vốn bên vay.

1.2.3.2. Sự khác nhau giữa factoring với tài trợ các khoản phải thu.
Tiêu chí Bao thanh toán Tài trợ các khoản phải thu
Chủ thể tham
gia
Ba bên gồm : Factor, người mua
hàng, người bán hàng.
Hai bên : ngân hàng (tổ chức
tín dụng) và bán hàng.
Hạn mức tín
dụng
Tùy thuộc vào loại hình bao
thanh toán, dựa trên cơ sở hóa
đơn thương mại.
Tài trợ thường được cấp cho
người xuất khẩu dựa vào từng

khoản phải thu riêng biệt.
Rủi ro tín dụng
Phụ thuộc vào uy tín và khả năng
trả nợ của bên mua.
Phụ thuộc vào uy tín và khả
năng tín dụng của người bán .

Tráchnhiệm thu
nợ
Phụ thuộc vào loại hình factoring
áp dụng, thường là factor thu nợ
từ người mua hàng.
Người bán hàng chịu trách
nhiệm cuối cùng về việc thu
nợ từ người mua hàng.
11



Đối với nghiệp vụ tài trợ các khoản phải thu, khoản phải thu chỉ là tài sản
đảm bảo, chứ không thuộc quyền sở hữu của các tổ chức tài chính. Do đó mà người
bán sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm thu hồi nợ, cũng như chịu mọi rủi ro nếu người mua
không thanh toán. Factoring đã khắc phục được những điểm yếu của hình thức tài
trợ thương mại này.
1.2.4.Chức năng của factoring.
Từ các công ước quốc tế, các quy định chung về nghiệp vụ bao thanh toán, ta
có thể thấy được bao thanh toán có bốn chức năng cơ bản :
(i) Bảo hiểm tín dụng.
Với chức năng này, người bán sẽ được đảm bảo về khoản tín dụng mà khách
hàng nợ mình. Một khoản phải thu được bảo hiện là khi đơn vị bao thanh toán cấp

cho người mua hàng một hạn mức tín dụng (mục đích để thanh toán tiền hàng), lúc
người mua ký hợp đồng mua bán hàng hóa với người bán, thì giá trị khoản phải thu
phải nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức còn lại của người mua. Khi đó, nếu như không có
tranh chấp giữa người mua và người bán thì khoản phải thu ấy được gọi là khoản
phải thu được bảo hiểm. Cần lưu ý một điều rằng, nếu khoản phải thu có giá trị lớn
hơn hạn mức còn lại của người mua, thì giao dịch mua bán vẫn được thực hiện,
nhưng giá trị khoản phải thu sẽ tăng thêm sẽ không được đơn vị bao thanh toán bảo
hiểm, tức là không thanh toán, nếu người mua mất khả năng thanh toán, hoặc không
thanh toán trong vòng 90 ngày.
(ii) Tài trợ / ứng trước.
Với chức năng này. đơn vị bao thanh toán cam kết sẽ ứng trước cho người
bán một số tiền với tỉ lệ khoảng 70 – 90% giá trị các khoản phải thu đạt tiêu chuẩn.
Khi khoản phải thu được thanh toán, thì người bán sẽ nhận tiếp số tiền còn lại sau
khi đã trừ đi phí và lãi.
(iii) Quản trị sổ sách các khoản phải thu.
Đơn vị bao thanh toán sẽ quản lý hóa đơn, các giấy nhận nợ và các khoản
thanh toán liên quan đến người mua. Khi thích hợp thì đơn vị bao thanh toán sẽ gửi
thông báo cho người mua về việc người bán đã chuyển nhượng các khoản phải thu
cho đơn vị bao thanh toán. Và người mua phải thanh toán tiền cho đơn vị bao thanh
toán. Người bán sẽ nhận các báo cáo hàng kỳ về tình trạng của sổ quản lý các khoản
12



phải thu. Điều này sẽ giúp cho người bán biết được khả năng thanh toán của người
mua.
(iv) Thu nợ các khoản phải thu.
Một trong những vấn đề trong việc sử dụng phương thức thanh toán mở sổ là
người mua không thanh toán cho người bán khi chưa nhận được hàng hóa. Đơn vị
bao thanh toán sẽ giải quyết vấn đề này bằng cách thay doanh nghiệp đòi nợ nếu

người mua không thanh toán.
Ứng với mỗi chức năng, bao thanh toán mang lại những lợi ích nhất định
riêng biệt, nhưng không phải lúc nào bao thanh toán cũng thực hiện đủ các chức
năng ấy, mà còn tùy thuộc vào loại sản phẩm bao thanh toán mà đơn vị bao thanh
toán cung cấp.
1.2.5.Phân loại Factoring.
1.2.5.1.Phân loại theo phạm vi hoạt động địa lý.
Factoring nội địa (domestic Factoring) : là hình thức cấp tín dụng của một
ngân hàng thương mại hay một công ty tài chính chuyên nghiệp cho bên bán hàng
thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hóa đã
được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa,
trong đó, bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú trong phạm vi một quốc
gia.
Theo khoản 2, điều 4, chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các tổ chức tín dụng tại Việt Nam có giải thích “ Bao thanh toán trong nước là việc
bao thanh toán dứa trên hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, trong đó
bên bán hàng và bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản
lý ngoại hối”.
Factoring quốc tế (international Factoring): là Factoring trong đó các bên
tham gia có ít nhất hai bên thuộc hai quốc gia khác nhau, dựa trên hợp đồng xuất
nhập khẩu.
Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của các
tổ chức tín dụng tại Việt Nam có quy định : “Bao thanh toán xuất nhập khẩu là việc
bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu . Đơn vị bao thanh toán xuất nhập
khẩu là đơn vị thực hiện bao thanh toán cho bên bán hàng là bên xuất khẩu trong
13



hợp đồng xuất nhập khẩu. Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu là đơn vị được phép

hoạt động bao thanh toán, tham gia vào quy trình bao thanh toán xuất nhập khẩu”.
1.2.5.2.Phân loại theo ý nghĩa bảo hiểm rủi ro thanh toán.
Factoring có truy đòi (with recourse/ recourse Factoring) : là hình thức bao
thanh toán trong đó đơn vị bao thanh toán có quyền truy đòi lại số tiền đã ứng trước
cho bên bán hàng khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh
toán khoản phải thu.
Factoring miễn truy đòi (without recourse/ non-recourse Factoring) : là hình
thức bao thanh toán, trong đó đơn vị bao thanh toán chịu mọi rủi ro đối với số tiền
đã ứng trước cho bên bán khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán khoản phải thu.
Trong loại hình bao thanh toán này, đơn vị bao thanh toán chỉ có quyền đòi
lại số tiền đã ứng trước cho bên mua hàng trong trường hợp bên mua từ chối thanh
toán các khoản phải thu do bên bán hàng giao hàng không đúng hợp đồng hoặc vì lý
do khác không liên quan tới khả năng thanh toán của bên mua hàng.
1.2.5.3.Phân loại theo phạm vi áp dụng nghiệp vụ Factoring đối với số
lượng các hóa đơn của một người bán hàng cụ thể.
Factoring toàn bộ (whole Factoring) : là việc thực hiện bao thanh toán cho
toàn bộ các hóa đơn thương mại phát hành ra của một người bán hàng.
Factoring một phần (partial Factoring): là việc thực hiện bao thanh toán cho
một số các hóa đơn phát hàng của người bán hàng đòi tiền một số người mua hàng
cụ thể.
1.2.5.4.Phân loại theo phương thức thực hiện Factoring.
Factoring từng lần : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực
hiện các thủ tục cần thiết và kí kết hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải
thu của khách hàng.
Factoring hạn mức : là hình thức đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thỏa
thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng thời gian
nhất định.
14




Đồng bao thanh toán : là hình thức hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng
thực hiện hoạt động bao thanh toán cho một hợp đồng mua bán hàng hóa và cung
ứng dịch vụ, trong đó một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức
đồng bao thanh toán.
1.2.5.5.Phân loại theo phạm vi giao dịch của factor với người mua.
Factoring công khai (disclosed Factoring) : là hình thức bao thanh toán
trong đó bên mua hàng hóa có biết về hoạt động này. Theo đó, người bán hàng giao
hàng cho người mua và nhận tiền ứng trước từ factor. Sau đó, người mua trả tiền
hàng cho factor này.
Fatoring kín (confidential/ undisclosed Factoring) : là hình thức bao thanh
toán trong đó người mua hàng không biết về dịch vụ Factoring được thực hiện.
Theo đóm người bán giao hàng cho người mua, nhận tiền ứng trước từ factor, người
mua trả tiền mua hàng cho người bán như thường lệ. Sau đó, người bán chuyển số
tiền này cho factor.
1.2.5.6.Căn cứ vào cách thức thực hiện.
Factoring theo phương thức thực hiện truyền thống: là hình thức bên bán và
bên mua sẽ liên hệ với đơn vị bao thanh toán để biết chắc rằng đơn vị bao thanh
toán có mua lại các khoản phải thu cho bên bán hàng hay không trước khi thực hiện
mua bán theo thỏa thuận trong hợp đồng mua bán.
Factoring theo phương thức thực hiện phi truyền thống : là hình thức đơn vị
bao thanh toán sẽ tiến hành xây dựng những tiêu chuẩn chung cho bên mua và bên
bán đủ điều kiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ cấp hạn mức bao thanh toán cho cả hai
bên. Nếu những quan hệ giao dịch mua bán phát sinh mà bên mua và bên bán nằm
trong tiêu chuẩn chung thì đơn vị này sẽ tiến hành thực hiện bao thanh toán, miễn là
số tiền ứng trước không vượt quá hạn mức bao thanh toán được cấp cho bên bán.
1.2.6.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring phổ biến trong thực tế.
1.2.6.1.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống một đơn vị
bao thanh toán.

Nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị bao thanh toán được thực hiện
với sự tham gia của ba bên bao gồm : người bán (khách hàng của factor), người
15



mua (con nợ của factor), đơn vị bao thanh toán (fator). Quy trình thực hiện nghiệp
vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống một đơn vị
bao thanh toán
(1)
Người bán
(khách hàng)

( 6)
Người mua
(con nợ)


(2) (4) (5) (7) (8) (11) (3) (9) (10)

(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng và ký kết hợp đồng.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán tài trợ với tài sản đảm bảo chính là
khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa.
(3) Đơn vị bao thanh toán thẩm định khả năng thanh toán tiền của người mua.
(4) Nếu xét thấy có thể thu được tiền hàng từ người mua theo đúng hạn hợp đồng
mua bán, đơn vị bao thanh toán sẽ thông báo đồng ý tài trợ cho người bán.
(5) Đơn vị bao thanh toán và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng bao thanh
toán.
(6) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng mua

bán hàng hóa.
(7) Người bán chuyển nhượng hóa đơn, chứng từ bán hàng, và các chứng từ khác
liên quan đến các khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán.
(8) Đơn vị bao thanh toán ứng trước một phần tiền cho người bán theo thỏa thuận
trong hợp đồng bao thanh toán.
(9) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán tiến hành thu hồi nợ từ người
mua.
(10) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán.
(11) Sau khi đã thu hồi tiền hàng từ phía người mua, đơn vị bao thanh toán thanh
toán nốt tiền chuyển nhượng khoản phải thu cho người bán.
Đơn vị bao thanh toán

16



Quy trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán theo hệ thống một đơn vị bao
thanh toán chủ yếu được áp dụng cho bao thanh toán nội địa, tức có nghĩa là các bên
tham gia đều nằm trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Tuy nhiên, ngày nay,
khi thương mại quốc tế phát triển, nhu cầu quốc tế hóa, giao lưu kinh tế giữa các
quốc gia ngày càng được nâng cao. Theo đó mà phương thức bao thanh toán theo hệ
thống hai đơn vị bao thanh toán phổ biến hơn và đang là một giải pháp hữu hiệu
trong tài trợ thương mại quốc tế.
1.2.6.2.Quy trình thực hiện nghiệp vụ factoring theo hệ thống hai đơn vị
bao thanh toán.
Hệ thống hai đơn vị bao thanh toán thường được sử dụng trong bao thanh
toán quốc tế (xuất nhập khẩu hàng hóa). Trong đó xuất hiện hai đơn vị thực hiện
nghiệp vụ bao thanh toán là factor nhập khẩu và factor xuất khẩu. Factor nhập khẩu
chịu trách nhiệm phân tích khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính
của bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, thực hiện việc thu nợ

theo ủy quyền của factor xuất khẩu và xam kết thanh toán thay cho bên nhập khẩu
trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả năng thanh toán khoản phải thu.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ này được thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 1.2 : Quy trình thực hiện nghiệp vụ Factoring theo hệ thống hai đơn vị
bao thanh toán
(1)

(7)


(2) (5) (6) (8) (9) (13) (4) (10) (11)

(3)
(5)
(8)
(12)

Người mua
(người nhập khẩu)
Người bán
(người xuất khẩu)
Đơn vị bao thanh toán
xuất khẩu
Đơn vị bao thanh toán
nhập khẩu
17



(1) Người bán và người mua tiến hành thương lượng trên hợp đồng mua bán

hàng hóa dịch vụ.
(2) Người bán đề nghị đơn vị bao thanh toán xuất khẩu tài trợ với tài sản đảm
bảo chính là khoản phải thu trong tương lai từ hợp đồng mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ.
(3) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu đề nghị đơn vị bao thanh toán nhập khẩu
cùng thực hiện hợp đồng bao thanh toán.
(4) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu thực hiện phân tích các khoản phải thu,
tình hình hoạt động và khả năng tài chính của bên mua hàng.
(5) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu đồng ý tham gia giao dịch bao thanh toán
với đơn vị bao thanh toán xuất khẩu. Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chấp nhận tài
trợ cho người bán.
(6) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu và người bán thỏa thuận và ký kết hợp đồng.
(7) Người bán giao hàng cho người mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng.
(8) Người bán chuyển giao bản gốc hợp đồng và các chứng từ liên quan đến các
khoản phải thu cho đơn vị bao thanh toán xuất khẩu.
(9) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu chuyển tiền ứng trước cho người bán theo
thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
(10) Khi đến hạn thanh toán, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu tiến hành thu hồi
nợ từ người mua.
(11) Người mua thanh toán tiền hàng cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(12) Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu trích trừ phí và lãi (nếu có) rồi chuyển số
tiền còn lại cho đơn vị bao thanh toán nhập khẩu.
(13) Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu trích trừ phí rồi chuyển số tiền còn lại cho
người bán.
1.2.7.Lợi thế của factoring trong thương mại quốc tế.
1.2.7.1.Lợi thế của factoring so với các loại hình thanh toán khác:
(i) Lợi thế về thanh toán:
Sau khi đã được đơn vị bao thanh toán chấp thuận, người bán hàng thông qua
việc bán lại các khoản phải thu cho đơn vị bao thnh toán đã làm giảm đi rất nhiều
18




công việc cần thực hiện. Đơn vị bao thanh toán sẽ thực hiện tất cả những nhiệm vụ
đó cho người bán.
Khi thực hiện bao thanh toán quốc tê, đơn vị bao thanh toán xuất khẩu phải
tạo mối quan hệ với đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. Điều này đảm bảo cho các
khoản phải thu được thanh toán đúng hạn thông qua đơn vị bao thanh toán nhập
khẩu. Đây chính là tính ưu việt của bao thanh toán so với các loại hình thanh toán
khác, nó làm giảm nhẹ gánh nặng về khả năng thu hồi tiền cho người bán.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, việc thiếu thông tin
về thị trường và bên mua, đặc biệt là khả năng thu hồi nợ nhanh là những trở ngại
rất lớn khi phải quyết định bán hàng theo điều kiện trả chậm cho khách hàng nước
ngoài. Đồng thời, hiện nay, trước áp lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, bên mua
ngày càng đòi hỏi các phương thức thanh toán thuận lợi hơn so với những phương
thức truyền thống. Do vậy, bao thanh toán trở thành một công cụ rất hiệu quả đối
với những nhà xuất khẩu muốn bán hàng theo phương thức trả chậm, mà lại tránh
được rủi ro.
(ii) Lợi thế về tài chính :
Bao thanh toán giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn được nhận vốn từ
ngân hàng dù không có tài sản thế chấp, đồng thời, giúp họ tăng hạn mức tín dụng.
Còn về phía đơn vị bao thanh toán, có thể yên tâm khi biết được vốn của mình được
sử dụng nhằm mục đích gì.
Khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, các doanh nghiệp được ứng trước một
số tiền của khoản phải thu để quay vòng vốn kinh doanh. Điều này giúp giải quyết
được vấn đề vốn lưu động hạn chế đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
1.2.7.2.Lợi ích của các bên khi sử dụng Factoring.
(i) Đối với người bán (người xuất khẩu):
Thứ nhất, cải thiện dòng lưu chuyển tiền tệ nhờ thu được tiền hàng nhanh
hơn. Lượng tiền mặt có sẵn tại doanh nghiệp tăng lên, góp phần thúc đẩy hoạt động

sản xuất kinh doanh phát triển.
Có thể coi factoring như là một quá trình chuyển hóa các khoản phải thu
thành tiền mặt. Đối với bất kỳ người bán nào, tiền mặt có ý nghĩa rất lớn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ở một số đơn vị cung cấp dịch vụ factoring chuyên
19



nghiệp, người bán thậm chí còn có thể nhận được tiền ngay trong ngày đề nghị được
bao thanh toán. Nói một cách ngắn gọn, các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring giúp
người bán lấp được lỗ hổng thiếu hụt tiền mặt trong khoảng thời gian từ khi giao
hàng đến khi người mua thanh toán.
Một lợi ích nữa đó là người bán có thể giải quyết được nhu cầu về vốn, mà
không cần tài sản đảm bảo. Đặc biệt đối với các quốc gia chưa phát triển, hay vẫn
đang phát triển, công nghệ ngân hàng chưa đạt tới trình độ cao, việc cấp tin dụng
hay không phụ thuộc phần lớn vào tài sản đảm bảo. Bao thanh toán phần nào giải
quyết được những hạn chế đó. Các đơn vị bao thanh toán sẽ thẩm định các mối quan
hệ mua bán, và quyết định có cấp tín dụng cho bên bán hàng hay không một cách
nhanh chóng. Nguyên nhân là mối quan tâm của các đơn vị bao thanh toán thường
là tập trung vào khả năng trả nợ của bên mua hàng hơn là bên bán hàng.
Thứ hai, điều kiện cấp tín dụng thương mại dễ dàng, làm cho người bán có
thể quay vòng vốn nhanh,tập trung phát triển, và giảm thiểu rủi ro.
Nhiều chủ thể kinh tế khi phát triển kinh doanh lại rơi vào tình trạng thiếu
tiền mặt. Người mua nào cũng mong muốn mua hàng với giá thấp nhất, có nguồn
hàng dồi dào nhất và thời gian thanh toán tiền hàng kéo dài. Nhưng chính điều đó
lại đẩy người bán vào tình thế khó khăn với những khoản nợ có thể mang tới rủi ro,
và không phải người bán nào cũng có thể xoay sở được với tất cả những khoản nợ
này. Khi đó, factoring sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp người bán vượt qua khó
khăn.
Những rủi ro thuộc về vấn đề này sẽ được giảm thiểu bằng cách chuyển các

hóa đơn thành tiền mặt nhờ vào dịch vụ factoring. Nhờ đó mà người bán có thể tiếp
tục cung cấp tín dụng thương mại cho người mua mà không cần lo tới rủi ro thanh
khoản nữa. Theo đó, người bán có thể nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ sẵn sàng
chấp nhận kéo dài khoảng thời hạn thanh toán cho các hóa đơn thương mại.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt động nhờ chuyên môn hóa sản xuất.
Khi chấp nhận bán chịu cho người mua, người bán còn phải dành thời gian
vào việc quản lý khoản phải thu từ người mua. Nếu như người bán sử dụng dịch vụ
factoring, công việc này sẽ được chuyển sang cho đơn vị cung cấp dịch vụ factoring.
Người bán tiết kiệm được thời gian, chi phí để duy trì và điều hành bộ phận chuyên

×