Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phân tích lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.89 KB, 26 trang )

Trang 26
mục lục
Mục lục
1
Mở đầu
2
Nội dung
3
I
Lý luận của chủ nghĩa Trọng thơng
4
II
Lý luận của chủ nghĩa Trọng nông
4
III
Các lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế
chính trị t sản cổ điển Anh
5
1
William Petty Ngời đầu tiên đa ra nguyên lý lao động quyết định giá
trị trong kinh tế chính trị học t sản
8
2
Adam Smith Ngời đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận
giá trị lao động và những yếu tố tầm thờng còn tồn tại trong lý luận của
ông
9
3
Lý luận về giá trị lao động của David Ricacdo đã đạt tới đỉnh cao của
kinh tế chính trị học cổ điển của giai cấp t sản
11


IV
Những lý luận của kinh tế chính trị t sản tầm thờng
15
1
Tính tầm thờng trong lý luận giá trị của Thomas Robert Malthus
16
2
Lý luận của Jean Baptisste Say
16
V
Trờng phái của các nhà tiểu t sản
18
1
Những lý luận của Simonde de Sismondi
18
2
Những lý luận của Proudhon
19
VI
Lý luận giá trị trong học thuyết kinh tế Marx - Lenin
21
VII
Trờng phái của các nhà kinh tế t sản hiện đại:
24
Kết luận
25
Trang 26
Mở đầu
Xã hội loài ngời đã và đang trải qua những hình thái kinh tế xã hội
khác nhau. ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài ngời đều có

những hiểu biết và cách giải thích các hiện tợng kinh tế xã hội nhất định.
Việc giải thích các hiện tợng kinh tế xã hội ngày càng trở nên hết sức cần
thiết đối với đời sống kinh tế của xã hội loài ngời. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện d-
ới những hình thức t tởng kinh tế, về sau mới trở thành những quan niệm, quan
điểm kinh tế có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau, đáp ứng cho nhu
cầu lý luận và bảo vệ các lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác, các trờng phái
lý luận qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát triển,
cũng nh phê phán có tính lịch sử của các trờng phái kinh tế học.
Trờng phái kinh tế chính trị học t sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng thơng.
Nó ra đời trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ t bản. Đối tợng nghiên cứu của
kinh tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lu thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ
trong việc tích luỹ của cải. Con đờng làm tăng của cải là thơng nghiệp, là
ngoại thơng. Họ đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nớc vào nền kinh tế để tạo điều
kiện cho chủ nghĩa t bản ra đơì.
Theo đà thâm nhập của t bản vào lĩnh vực sản xuất, những vấn đề kinh tế
của sản xuất nảy sinh vợt quá khả năng lý giải của chủ nghĩa Trọng thơng;
Đòi hỏi phải có những lý thuyết mới Kinh tế chính trị học t sản cổ điển
xuất hiện.
Kinh tế chính trị học t sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tợng nghiên
cứu từ lĩnh vực lu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sẵc của tr-
ờng phái cổ điển là W.Petty, F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacdo. Các ông nghiên
cứu những vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học nh thuyết giá trị lao
động, tiền lơng, lợi nhuận, lợi túc, t bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng
nên hệ thống các phạm trù, quy luật kinh tế. Trờng phái này ủng hộ t tởng tự
Trang 26
do kinh tế, dới sự chi phối của bàn tay vô hình, Nhà nớc không can thiệp vào
kinh tế.
Song thực tế đã bác bỏ t tởng tự do kinh tế của trờng phái cổ điển. Đồng
thời thể hiện sự bất lực của kinh tế chính trị học t sản cổ điển trớc những hiện
thực kinh tế mới. Trớc bố cảnh đó, nhiều trào lu kinh tế chính trị học nổi lên

mà cơ bản là 2 trào lu:
Một là những nhà kinh tế tiếp tục thuyết t sản cổ điển đã đổi mới và phát
triển, Trờng phái Keynes, tự do mới, chính hiện đại.
Hai là kinh tế chính trị học Marx Lenin.
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trờng phái cũng nh của
cả quá trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là
cơ sở của các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những t tởng kinh tế và
đợc phát triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát
hoá thành những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải
thích đợc các hiện tợng kinh tế trong xã hội.
Với những kiến thức tiếp cận đợc qua các bài giảng của Thầy giáo, qua
một số tài liệu nghiên cứu hiện hành, Trong phạm vi bản tiểu luận này, trên
lập trờng t tởng của chủ nghĩa Marx Lenin, em xin chọn đề tài phân tích lý
luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học thuyết kinh tế.
Trang 26
Nội dung
I-/ Lý luận của chủ nghĩa Trọng thơng:
Chủ nghĩa Trọng thơng hay trờng phái coi trọng thơng mại là hệ thống t
tởng kinh tế đầu tiên của giai cấp t sản ra đời trong thời kỳ tan rã của phơng
thức sản xuất phong kiến, phát sinh phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa
chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trờng. Nó ra đời vào
khoảng những năm 1450, phát triển tới những năm 1650 và sau đó bị suy đồi.
Về mặt lịch sử, đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa t bản.
T tởng xuất phát của chủ nghĩa Trọng thơng cho rằng, tiền là nội dung
căn bản của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia. Một nớc có càng
nhiều vàng thì càng giàu có. Còn hàng hoá chỉ là phơng tiện để tăng thêm
khối lợng tiền tệ mà thôi. Trên quan điểm coi tiền là đại biểu duy nhất của của
cải, là tiêu chuẩn đánh giá mọi hình thức hoạt động nghề nghiệp. Những hoạt
động nào không dẫn đến tích luỹ tiền tệ là những hoạt động tiêu cực, không có
lợi. Hoạt động công nghiệp không thể là nguồn gốc của của cải (trừ công

nghiệp khai thác vàng và bạc) chỉ có hoạt động ngoại thơng mới là nguồn gốc
thật sự của của cải.
Khối lợng tiền tệ chỉ có thể gia tăng bằng con đờng ngoại thơng. Trong
hoạt động ngoại thơng phải thực hiện chính sách xuất siêu (xuất nhiều, nhập
ít).
Nội thơng là một hệ thống ống dẫn, ngoại thơng là máy bơm, muốn
tăng của cải phải có ngoại thơng nhập dần của cải qua nội thơng .
Những ngời trọng thơng cho rằng, lợi nhuận thơng nghiệp là kết quả của
sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt, nh chiến tranh. Họ cho rằng, không
một ngời nào thu đợc lợi mà lại không làm thiệt kẻ khác. Dân tộc này là giàu
Trang 26
bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên
thua để bên kia đợc.
Mặc dù còn hạn chế về tính lý luận nhng hệ thống quan điểm học thuyết
kinh tế Trọng thơng đã taọ ra những tiền đề lý luận kinh tế xã hội cho các lý
luận kinh tế thị trờng sau này phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ họ đa ra
quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền. Mục
đích hoạt động của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng là lợi nhuận. Marx chỉ
ra rằng chủ nghĩa Trọng thơng thế kỷ XVI-XVII đã đi theo cái hình thái
chói lọi của giá trị trao đổi và đứng trên lĩnh vực thô sơ của lu thông hàng
hoá để xem xét nền sản xuất t bản chủ nghĩa .
II-/ lý luận của chủ nghĩa Trọng nông:
Cũng nh chủ nghĩa Trọng thơng, chủ nghĩa Trọng nông xuất hiện trong
khuôn khổ thời kỳ quá độ phong kiến sang chế độ t bản chủ nghĩa, nhng ở giai
đoạn phát triển kinh tế trởng thành hơn. Vào giữa thế kỷ XVIII Tây Âu đã
phát triển theo con đờng t bản chủ nghĩa và ở nớc Anh, cuộc cách mạng công
nghiệp đã bắt đầu. ở nớc Pháp chủ nghĩa t bản công trờng thủ công đã bén rễ
ăn sâu một cách vững chắc. Điều đó đòi hỏi xét lại học thuyết của chủ nghĩa
Trọng thơng đã trở thành cấp thiết. Thời kỳ tích luỹ ban đầu đã chấm dứt và
việc dùng thơng mại để bóc lột các nớc thuộc địa đã mất hết ý nghĩa đặc biệt

của nó với t cách là nguồn làm giàu cho giai cấp t sản.
Những ngời theo chủ nghĩa Trọng nông mà đại diện tiêu biểu là Keynes
cho rằng, xã hội loài ngời phát triển theo những quy luật tự nhiên. Theo họ,
nguồn gốc duy nhất của của cải là tự nhiên, là nông nghiệp vì nông nghiệp
đem lại cho con ngời những kết quả của tự nhiên.
Những ngời Trọng nông cho rằng, lợi nhuận thơng nghiệp có đợc chẳng
qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thơng mại. Vì theo họ thơng mại chỉ
đơn thuần là việc đổi những giá trị này lấy những giá trị khác ngang nh thế
và trong quá trình trao đổi đó, nếu xét nó dới hình thái thuần tuý thì cả ngời
mua, lẫn ngời bán chẳng có gì để mất hay đợc cả. Thơng nghiệp không sinh ra
Trang 26
của cải. Trao đổi không sản xuất ra đợc gì cả . Trao đổi không làm cho tài
sản tăng lên, vì tài sản đợc tạo ra trong sản xuất, còn trong trao đổi thì chỉ có
sự trao đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác mà thôi. K.Marx trong
khi phê phán chủ nghĩa Trọng thơng cũng viết: Ng ời ta trao đổi những hàng
hoá với hàng hoá hay những hàng hoá với tiền tệ có cùng giá trị với hàng
hoá đó, tức là trao đổi những vật ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra đợc
từ trong lu thông ra nhiều giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá
trị thặng d tuyệt nhiên không thể hình thành ra đợc . (TB.Q1.T1). Điều này
chứng tỏ sự trởng thành của các quan điểm kinh tế của phái trọng nông.
K.Marx nhận xét: Phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu nguồn
gốc của giá trị thặng d từ lĩnh vực lu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp,
và do đó đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất T bản chủ nhĩa (T
bản Q4).
Chủ nghĩa Trọng nông đa ra học thuyết rất cơ bản, đóng vai trò trung tâm
trong hệ thống lý luận chủ nghĩa t bản - Đó là học thuyết về sản phẩm ròng
(sản phẩm thuần tuý). Những ngời Trọng nông cho rằng sản phẩm thuần tuý
chỉ đợc tạo ra trong nông nghiệp. F.Quesnay cho rằng của cải là vật chất, tức
giá trị sử dụng. Ông nghiên cứu nền sản xuất xã hội từ mức chênh lêch giữa
đầu vào và đầu ra của giá trị sử dụng trong quá trình sản xuất; ngành công

nghiệp không có thể làm tăng thêm số lợng của giá trị sử dụng mà chỉ có thể
làm thay đổi hình thái của giá trị sử dụng, còn thơng nghiệp thì không thể làm
thay đổi ngay cả đến hình thái của giá trị sử dụng. Ông kết luận, nông nghiệp
là ngành kinh tế sản xuất duy nhất, còn công nghiệp thì chỉ có tiêu dùng chứ
hoàn toàn không có sản xuất. Công nghiệp chẳng qua là chế biến lại nguyên
liệu của nông nghiệp. Trong công nghệp ngời ta không tạo ra chất mới, chỉ là
sự kết hợp nhiều nguyên tố của các chất khác nhau đã tồn tại từ trớc. Trong
nông nghiệp không có sự kết hợp mà chỉ có sự tăng thêm về chất, tạo ra sản
phẩm thuần tuý mới.
F.Quesnay tuyên bố: Chỉ có của cải dân c ở nông thôn mới để ra của
cải quốc gia , nông dân nghèo thì xứ sở nghèo .
Trang 26
Nh vậy, chủ nghĩa Trọng nông đã giải thích nguồn gốc của sản phẩm
thuần tuý theo tinh thần của chủ nghĩa tự nhiên, tựa hồ nh đất đai là nguồn gốc
của sản phẩm thuần tuý. Trong học thuyết này, họ đã coi sản phẩm thuần tuý
là sản phẩm lao động của ngời công nhân làm thuê, bộ phận này đã biến thành
nguồn thu nhập của giai cấp t sản và địa chủ.
Tuy nhiên, phái Trọng nông đã tầm thờng hoá khái niệm của cải, không
thấy tính hai mặt của nó (hiện vật và giá trị). Ai cũng biết rằng việc làm tăng
thêm giá trị của vật phẩm thờng kèm theo việc làm giảm khối lợng thực thể
chứa đựng trong các vật phẩm đó. Giá trị và khối lợng của vật phẩm có thể
thay đổi theo chiều hớng hoàn toàn ngợc nhau.
III-/ Các lý luận giá trị, giá cả hàng hoá trong các học
thuyết kinh tế chính trị t sản cổ điển Anh:
Chủ nghĩa Trọng thơng đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ thế
kỷ XVII, trớc hết là Anh, một nớc phát triển nhất về mặt kinh tế. Tiền đề của
việc đó đợc tạo ra chủ yếu là do sự phát triển các công trờng thủ công ở Anh,
đặc biệt là trong nhành dệt, sau đó là công nghiệp khai thác. Giai cấp t sản đã
nhận thức đợc rằng: muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm
thuê của những ngời nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những ngời

giàu .
Tất cả những điều kiện kinh tế, xã hội khoa học của cuối thế kỷ XVII đã
chứng tỏ thời kỳ tích luỹ ban đầu của t bản đã kết thúc và thời kỳ sản xuất t
bản chủ nghĩa bắt đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thơng trở
nên quá rõ ràng, đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận động và
phát triển của sản xuất t bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, kinh tế chính trị học cổ
điển Anh ra đời.
Theo Marx, kinh tế chính trị học cổ điển Anh bắt đầu từ William Petty và
kết thúc ở David Ricacdo.
Trang 26
1-/ William Petty Ng ời đầu tiên đa ra nguyên lý lao động quyết định
giá trị trong kinh tế chính trị học t sản:
William Petty (1623-1687) là một trong những ngời sáng lập ra học
thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. Ông sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có
trinh độ tiến sĩ vật lý, là nhạc trởng, là ngời phát minh ra máy chữ. Ông là ng-
ời áp dụng phơng pháp mới trong nghiên cứu khoa học, đợc gọi là phơng pháp
khoa học tự nhiên.
Trong tác phẩm Bàn về thuế khoá và lệ phí, 1662 W.Petty nghiên cứu
về giá cả, chia giá cả thành hai loại: Giá cả tự nhiên và giá cả chính trị. Theo
ông giá cả chính trị (giá cả thị trờng) phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên,
nó thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu hàng hoá trên
thị trờng, do đó khó xác định; Còn giá cả tự nhiên (tức giá trị) là do thời gian
lao động hao phí quyết định và năng suất lao động có ảnh hởng đến mức hao
phí đó. Nh vậy, Petty là ngời đầu tiên đã tìm thấy cơ sở giá cả tự nhiên là lao
động, thấy đợc quan hệ giữa lợng giá trị và năng suất lao động. Ông kết luận
rằng: số lợng lao động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị
hàng hoá. Giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai
thác vàng và bạc. Ông có ý định đặt vấn đề lao động phức tạp và lao động giản
đơn nhng không thành.
Nh vậy, W.Petty chính là ngời đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý

thuyết giá trị lao động. Tuy lý thuyết giá trị - lao động của ông còn có những
hạn chế cha phân biệt đợc các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Ông
tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền, tức là ông
mới chú ý nghiên cứu về mặt lợng. Ông nhận thức đợc rằng giá trị của tiền tệ
cũng là do lợng lao động quyết định, từ đó khắc phục đợc các kiến giải không
những không thể trừu tợng hoá đợc giá trị từ giá trị trao đổi, mà còn không
trừu tợng hoá đợc giá trị trao đổi từ giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị,
mà ông đã lẫn lộn hai cái đó. Ông cũng chia lao động ra làm hai loại: một loại
lao động sản xuất ra vàng và bạc, một loại khác là lao động sản xuất ra những
hàng hoá bình thờng. Ông cho rằng chỉ có lao động khai thác vàng và bạc mới
Trang 26
có giá trị trao đổi, còn các lao động khác thì chỉ khi trao đổi hàng và tiền mới
này sinh giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá
trị tiền tệ cũng nh ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời
vậy. Đó là ảnh hởng t tởng chủ nghĩa Trọng thơng rất nặng ở ông.
Petty đã lẫn lộn lao động với t cách là nguồn gốc của giá trị với lao động
với t cách là nguồn gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao
động trừu tợng với lao động cụ thể. Từ đó Petty có ý định đo giá trị bằng hai
đơn vị lao động và đất đai. Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: Lao động là cha,
còn đất là mẹ của của cải . Về phơng diện của cải nói nh vậy là đúng, chỉ rõ
nguồn gốc giá trị sử dụng. Nhng cái mà ông muốn nói đến là giá trị, ông nói:
việc xem xét giá trị của tất cả mọi hàng hoá đều phải xuất phát từ hai yếu tố tự
nhiên, tức là đất đai và lao động. Nói nh vậy ông đã đi ngợc lại kết luận đúng
đắn của chính mình là giá trị đợc quyết định bởi thời gian lao động hao phí
trong quá trình sản xuất hàng hoá.
2-/ Adam Smith Ng ời đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý
luận giá trị lao động và những yếu tố tầm thờng còn tồn tại trong lý luận
của ông:
Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh
và trên thế giới. Ông là nhà t tởng tiên tiến của giai cấp t sản, ông muốn thủ

tiêu tàn tích phong kiến, mở đờng cho chủ nghĩa t bản phát triển, kêu gọi tích
luỹ và phát triển lực lợng sản xuất theo ý nghĩa t bản, xem chế độ t bản chủ
nghĩa là hợp lý duy nhất. Marx coi A.Smith là nhà kinh tế học tổng hợp của
công trờng thủ công.
A.Smith đã phân biệt rõ ràng giá trị sử dụng với giá trị trao đổi. Ông nói:
Giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó biểu thị hiệu quả sử dụng nh là
một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua do chỗ chiếm hữu một vật
nào đó mà có đợc đối với vật khác. Cái trớc gọi là giá trị sử dụng, và cái sau
gọi là giá trị trao đổi . Ông còn chứng minh rõ quan hệ giữa giá trị sử dụng
và giá trị trao đổi. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn thờng có giá trị trao đổi
cực nhỏ, thậm chí còn không có. Ví dụ: Không có gì hữu ích bằng n ớc, nhng
Trang 26
với nó thì không thể mua đợc gì. Ngợc lại, những thứ có giá trị trao đổi rất
lớn, thờng có giá trị sử dụng cực nhỏ, thậm chí không có. Việc phân biệt rõ
ràng hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích
rõ là giá trị trao đổi lớn hay nhỏ không liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là
công lao của A.Smith. Nhng ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng
có thể có giá trị trao đổi thì lại sai lầm.
Theo A.Smith giá trị trao đổi là do lao động quyết định, giá trị trao đổi là
do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là khái niệm đúng
đắn về giá trị. Lao động là thớc đo thật sự để xác định giá trị trao đổi của mọi
thứ hàng hoá. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị hàng hoá là công lao
và thành tích khoa học của ông. Nhng ông không hiểu đợc tính chất xã hội của
loại lao động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem lao động gì quyết định
giá trị của hàng hoá , lao động xác định giá trị hàng hoá nh thế nào thì ông rơi
vào hỗn loạn. Một mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị hàng hoá là
lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá. Lợng giá trị của hàng hoá tỷ lệ
thuận với lợng thời gian lao động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn
nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, ông cho
rằng trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn là lao

động đơn giản. Nhng đồng thời ông lại cho rằng giá trị một hàng hóa bằng số
lợng lao động mà ngời ta có thể mua đợc nhờ hàng hoá đó. Đây là điều luẩn
quẩn và sai lầm của A.Smith, dùng giá trị quyết định giá trị. Ông đã lẫn lộn
vấn đề giá trị đã đợc quyết định nh thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu
hiện nh thế nào trong trao đổi.
Về cấu thành giá trị của hàng hoá. Theo A.Smith trong sản xuất t bản
chủ nghĩa, tiền lơng, lợi nhuận và địa tô là ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu
nhập, cũng nh mọi giá trị trao đổi. A.Smith coi tiền lơng, lợi nhuận và địa tô là
ba nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, đó là quan điểm đúng đắn. Song ông
lại tầm thờng ở chỗ coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá
trị trao đổi. Ông đã lẫn lộn hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị,
giá trị của hàng hoá với giá trị mới sáng tạo ra của lao động; Hơn nữa, ông
cũng đã xem thờng t bản bất biến, coi giá trị hàng hoá chỉ có (V+m).

×